Bản án số 02/2021/HS-ST ngày 06/01/2021 của TAND TX. Sa Pa, tỉnh Lào Cai về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng tội danh
- Tải về
-
Bản án số 02/2021/HS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Thuộc tính Bản án 02/2021/HS-ST
Tên Bản án: | Bản án số 02/2021/HS-ST ngày 06/01/2021 của TAND TX. Sa Pa, tỉnh Lào Cai về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý |
---|---|
Tội danh: | |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND TX. Sa Pa (TAND tỉnh Lào Cai) |
Số hiệu: | 02/2021/HS-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 06/01/2021 |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ án: |
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ SA PA - TỈNH LÀO CAI
BẢN ÁN 02/2021/HS-ST NGÀY 06/01/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ
Ngày 06 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Sa Pa, tỉnh Lào Cai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 33/2020/TLST- HS ngày 30 tháng 11 năm 2020 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 30/QĐXXST- HS ngày 23 tháng 12 năm 2020 đối với bị cáo:
Họ và tên: Đinh Hữu N - Sinh ngày 30/12/1998, tại huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương.
Nơi Đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn L, xã V, huyện B, tỉnh Hải Dương. Nơi ở trước khi bị bắt: Khu 2, phường K, thành phố M, tỉnh Quảng Ninh.
Nghề nghiệp: Tự do; Trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Đinh Hữu S và bà Nhữ Thị T; Bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án: Không; Tiền sự: Không;
Bị bắt tạm giữ ngày 26/9/2020 hiện đang tạm giam tại nhà tạm giữ Công an thị xã Sa Pa “Có mặt”.
- Những người làm chứng:
+ Anh Nguyễn Đức Đ - Nơi cư trú: Tổ 4, phường S, thị xã S, tỉnh Lào Cai, “Vắng mặt”.
+ Anh Nguyễn Văn T - Nơi cư trú: Khu 3, phường H, thành phố M, tỉnh Quảng Ninh, “Có mặt”.
+ Chị Đào Cao Thiên A - Nơi cư trú: Tổ 22, phường C, thành phố L, tỉnh Lào Cai, “Vắng mặt”.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Ngày 16/09/2020, Đinh Hữu N mua của 01 người đàn ông lạ mặt, không rõ lai lịch tại phường Ka Long, thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh số ma túy gồm 10 chỉ ke, 15 chỉ kẹo với giá 14.600.000 đồng. Sau đó, N lên Sa Pa và cất giấu số ma túy trên tại phòng 309, khách sạn D, tổ 4, phường P, thị xã S với mục đích sử dụng cho bản thân. Đến 23 giờ 45 phút ngày 25/9/2020, N để số ma túy còn lại là 04 chỉ ketamine và 01 viên ma túy tổng hợp vào túi quần phía trước bên phải chiếc quần đang mặc trên người và điều khiển xe ô tô Mecerdes BKS 28A-08462 đi tìm nơi sử dụng. Khi đến khu vực đường H, tổ 5, phường S, thị xã S thì bị lực lượng Công an kiểm tra bắt quả tang thu giữ tại túi phía trước, bên phải chiếc quần Đinh Hữu N đang mặc: 03 túi nilon loại túi kẹp zip có đường chỉ màu xanh, bên trong chứa nhiều hạt tinh thể vón cục màu trắng, Đinh Hữu N khai là “Ke - ma túy tổng hợp”;
01 túi nilon kẹp zip có đường chỉ màu xanh, bên trong chứa nhiều hạt tinh thể vón cục màu trắng, Đinh Hữu N khai là “Ke - ma túy tổng hợp” và 01 viên nén màu hồng nhạt hình chữ nhật có đặc điểm một mặt có in dập chìm chữ “UBER” mặt còn lại in dập chìm chữ “EVERY WHERE” Đinh Hữu N khai là “Kẹo - ma túy tổng hợp’’. Ngoài ra, cơ quan điều tra còn thu giữ của Đinh Hữu N: 01 xe ô tô Mecerdes BKS 28A - 08462, bên trong có 01 điện thoại hiệu Vertu S 024210, 01 khẩu súng bằng kim loại, trên thân súng có ký hiệu "K17", 01 điện thoại Iphone Xs Max màu vàng kèm theo sim, 01 ví giả da màu xanh thẫm bên trong có: 01 giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô BKS 28A - 08462 số KD 2723172; 01 chứng nhận bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự số 21011575 mang tên Bùi Thị T; 01 giấy biên nhận thế chấp số 0369DDA/2020/GBNTC giữa Ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam - chi nhánh Đống Đa với Bùi Thị T.
Tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Đinh Hữu N tại phòng 309 khách sạn D, tổ 4, phường Phan Si Păng, thị xã Sa Pa, tỉnh Lào Cai do anh Nguyễn Đức Điệp (sinh ngày 05/05/1989, trú tại tổ 4, phường P, thị xã S) làm chủ. Ở cùng N còn có Nguyễn Văn T (sinh năm 1996, trú tại: Khu 3, phường Hải Yên, thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh). Thu giữ: 01 điện thoại Iphone 6 Plus màu trắng kèm theo sim; 09 gói nilon loại kẹp Zip màu trắng bên trong chứa lá, cây khô.
Tại bản kết luận giám định ma túy số 201/GĐMT ngày 30/09/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lào Cai kết luận: Vật chứng thu giữ của Đinh Hữu N khi bắt quả tang tại tổ 5, phường Sa Pa, thị xã Sa Pa, tỉnh Lào Cai ngày 25/9/2020: Mẫu M1 2,00 gam tinh thể, vón cục màu trắng gửi giám định là loại chất ma túy Ketamine; Mẫu M2 0,61 gam các hạt tinh thể màu trắng gửi giám định là loại chất ma túy Ketamine; Mẫu M3 0,60 gam viên nén màu hồng nhạt, hình chữ nhật gửi giám định là loại chất ma túy MDMA.
Tại bản kết luận giám định ma túy số 225/GĐMT ngày 30/10/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lào Cai kết luận: Số vật chứng thu giữ khi khám xét khẩn cấp chỗ ở của Đinh Hữu N tại tổ 4, phường P, thị xã S, tỉnh Lào Cai ngày 26/09/2020: 09 mẫu được ký hiệu từ M1 đến M9 có tổng khối lượng 23,13 gam đều là cành, lá, hoa quả cây sần sa.
Tại bản kết luận giám định số 7802/C09-P3 ngày 05/11/2020 của Viện khoa học hình sự Bộ Công an kết luận: Khẩu súng bằng kim loại, trên thân súng có ký hiệu "K17" là thu giữ của Đinh Hữu N là súng bắn bi bằng lực đẩy của hơi nén, thuộc đồ chơi nguy hiểm bị cấm, không phải vũ khí quân dụng.
Tại phiên tòa bị cáo Đinh Hữu N khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình Cáo trạng số 28/CT-VKS-SP ngày 30/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Sa Pa truy tố bị cáo Đinh Hữu N về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm i khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Sa Pa giữ quyền công tố tại phiên toà giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội danh theo bản cáo trạng đã truy tố. Sau khi phân tích, đánh giá tính chất mức độ thực hiện hành vi của bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Tuyên bố bị cáo Đinh Hữu N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý’’ xử phạt bị cáo với mức án từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù. Không phạt bổ sung đối với bị cáo.
Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm c khoản 1 điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau trích mẫu giám định.
Tuyên án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Sa Pa, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Sa Pa, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo Đinh Hữu N: Tại phiên tòa bị cáo khai nhận, ngày 16/09/2020 Đinh Hữu N mua của 01 người đàn ông lạ mặt, không rõ lai lịch tại phường K, thành phố M, tỉnh Quảng Ninh được số ma túy gồm 10 chỉ ke, 15 chỉ kẹo với giá 14.600.000 đồng để sử dụng. Sau đó, N lên Sa Pa và cất giấu số ma túy trên tại phòng 309, khách sạn D, tổ 4, phường P, thị xã S. Đến 23 giờ 45 phút ngày 25/9/2020, N cất số ma túy còn lại gồm 04 chỉ ketamine và 01 viên ma túy tổng hợp vào túi quần đi tìm nơi sử dụng, khi đến khu vực đường H, tổ 5, phường S, thị xã S thì bị bắt quả tang thu giữ toàn bộ số ma túy. Khám xét thu giữ tại phòng 309 khách sạn D 09 gói nilon loại kẹp Zip màu trắng bên trong chứa lá, cây khô.
Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà phù hợp lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai người chứng kiến, tang vật thu giữ và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Theo kết luận giám định khối lượng bị cáo mua để sử dụng là 2,61 gam ma túy Ketamine và 0,60 gam ma túy MDMA. Số vật chứng thu giữ thu giữ tại phòng 309 khách sạn D là 23,13 gam là cành, lá, hoa quả cây sần sa. Đối với số ma túy Ketamine và MDMA bị cáo khai mua để sử dụng cho bản thân, đối với 23,13 gam là cành, lá, hoa quả cây sần sa qua điều tra xác định được là của Đào Cao Thiên A. Như vậy, với hành vi và số lượng ma túy mua để sử dụng là 2,61 gam ma túy Ketamine và 0,60 gam ma túy MDMA trên có đủ cơ sở để kết luận bị cáo phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước, gây ảnh hưởng đến trật tự trị an tại địa phương, vì vậy cần phải xét xử một mức án nghiêm khắc tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo mới có tác dụng giáo dục, cải tạo và phòng ngừa chung.
[3] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Sau khi phạm tội tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai nhận về hành vi phạm tội của mình, ăn năn hối cải, bị cáo có ông nội được tặng thưởng huy chương kháng chiến hạng nhất, vì vậy cần cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy đinh tại điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51 của Bộ luật Hình sự.
[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không [5] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm 5.000.000 đến 500.000.000 đồng...”, do đó bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền. Tuy nhiên theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa bị cáo không có tài sản, thu nhập gì. Vì vậy Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[6] Về vật chứng vụ án: Đối với khẩu súng có ký hiệu "K17" thuộc loại đồ chơi nguy hiểm, đã bàn giao cho Đội Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự an toàn xã hội Công an thị xã Sa Pa xử lý theo quy định; Đối với 01 điện thoại Iphone 6 Plus kèm theo sim là của Nguyễn Văn T, cơ quan điều tra đã trả lại tài sản cho chủ sở hữu; Đối với 01 điện thoại nhãn hiệu Vertu S 024210 đã qua sử dụng, 01 quyển sổ tổng hợp có bìa màu đen ký hiệu Notebook, 01 điện thoại Iphone Xs max màu vàng kèm theo sim đã qua sử dụng, quá trình điều tra xác định không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo, cơ quan điều tra đã trả lại tài sản cho chủ sở hữu; Đối với 01 xe ô tô Mecerdes BKS 28A-08462, 01 ví giả da màu xanh thẫm bên trong có: 01 giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô BKS 28A - 084.62 số KD 2723172; 01 chứng nhận bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự số 21011575; 01 giấy biên nhận thế chấp ngân hàng số 0369DDA/2020/GBNTC, quá trình điều tra xác định, số vật chứng trên là của Bùi Thị T không liên quan đến hành vi phạm tội của Đinh Hữu N, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Sa Pa đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại tài sản cho chủ sở hữu; Đối với vật chứng còn lại sau trích mẫu giám định 9,69 gam cành, lá, hoa, quả cây cần sa thu giữ khi khám xét chỗ ở của Đinh Hữu N, Cơ quan điều tịch thu tiêu hủy theo quy định; Số vật chứng là 2,42 gam Ketamine còn lại sau khi trích mẫu giám định cần tịch thu tiêu hủy;
[7] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 135 Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
[8] Ngoài ra vụ án này còn có Đào Cao Thiên A là người đã có hành vi tàng trữ trái phép 23,13 gam gam cành, lá, hoa, quả cây cần sa để sử dụng cho bản thân. Hành vi của A chưa đủ căn cứ để xử lý hình sự nên Công an thị xã Sa Pa đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 02/QĐ-XPHC ngày 30/11/2020 bằng hình thức phạt tiền 1.500.000 đồng là có căn cứ đúng quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
1. Về trách nhiệm hình sự, hình phạt:
Căn cứ vào điểm i khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Tuyên bố bị cáo Đinh Hữu N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý’’. Xử phạt bị cáo Đinh Hữu N 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 26/9/2020.
2. Về xử lý vật chứng:
Căn cứ vào điểm c khoản 1 điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 2,42 gam Ketamine còn lại sau trích mẫu giám định được tái niêm phong, trên mặt bì niêm phong có ghi “Vật chứng còn lại sau trích mẫu giám định thu giữ khi bắt quả tang trong vụ Đinh Hữu N tàng trữ trái phép chất ma túy. Phát hiện bắt giữ ngày 25/9/2020 tại tổ 5, phường S, thị xã S, tỉnh Lào Cai” 3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 điều 135 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án buộc bị cáo Đinh Hữu N phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.
4. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!