Bản án số 91/2022/HS-ST ngày 29/08/2022 của TAND huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng tội danh
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 91/2022/HS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 91/2022/HS-ST
| Tên Bản án: | Bản án số 91/2022/HS-ST ngày 29/08/2022 của TAND huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An về tội tàng trữ trái phép chất ma túy |
|---|---|
| Tội danh: | 249.Tội tàng trữ trái phép chất ma túy (Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015) |
| Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
| Tòa án xét xử: | TAND huyện Kỳ Sơn (TAND tỉnh Nghệ An) |
| Số hiệu: | 91/2022/HS-ST |
| Loại văn bản: | Bản án |
| Ngày ban hành: | 29/08/2022 |
| Lĩnh vực: | Hình sự |
| Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Thông tin về vụ án: |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN KỲ SƠN
TỈNH NGHỆ AN
Bản án số: 91/2022/HS-ST
Ngày 29 tháng 8 năm 2022
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƢỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KỲ SƠN, TỈNH NGHỆ AN
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa:
Bà Vi Thị Khuyên.
Các Hội thẩm nhân dân:
Bà Vi Thị Khiểu;
Bà Bùi Thị Nga.
- Thư ký phiên tòa: Ông Đào Quang Sáng, Thư ký Tòa án nhân dân huyện
Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An;
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An tham gia
phiên tòa: Ông Vương Quốc Khánh- Kiểm sát viên.
Ngày 29 tháng 8 năm 2022 tại Nhà văn hóa bản Hòa Sơn, xã Tà Cạ, huyện Kỳ
Sơn, tỉnh Nghệ An, Tòa án nhân dân huyện Kỳ Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án
hình sự sơ thẩmthụ lý số: 88/2022/TLST-HS ngày 11 tháng 8 năm 2022 theo Quyết
định đưa vụ án ra xét xử số: 113/2022/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 8 năm 2022 đối
với:
Bị cáo: Lộc Văn K; tên gọi khác: Không; sinh ngày 28/8/1986, tại huyện C,
tỉnh Nghệ An; nơi cư trú: bản X, xã L, huyện T, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: Trồng
trọt; trình độ học vấn: Mù chữ; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không;
quốc tịch: Việt Nam; con ông: Lộc Văn T (đã chết) và bà Vi Thị T; có vợ: Hoàng
Thị N (đã ly hôn) và 01 con sinh năm 2008; tiền án, tiền sự: Không;
Nhân thân: Bản án số 33/2012/HSST, ngày 16/5/2012 của Tòa án nhân dân
huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An xử phạt 32 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất
ma túy”. Lộc Văn K đã chấp hành xong bản án ngày 29/4/2014, đã được xóa án
tích.
Bị cáo bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 14/6/2022 đến nay, hiện đang tạm
giam. Có mặt.
Người bào chữa cho bị cáo: Bà Võ Thị Hoài; Trợ giúp viên thuộc Trung tâm
trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Nghệ An; Có mặt;
Người chứng kiến: Anh Nguyễn Văn C, sinh năm 1982. Nơi cư trú: K1, thị
trấn Đ, huyện Đ, tỉnh Nghệ An.Vắng mặt.

2
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại thiên tòa, nội
dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 21 giờ 15 phút,ngày 13/6/2022, Lộc Văn K đi nhờ xe máy của
một người đàn ông không quen biết đến bản L, xã L, huyện T, tỉnh Nghệ An để tìm
mua ma túy về sử dụng. Khi đi đến nơi, K xuống xe đi bộ một đoạn thì gặp một
người đàn ông không quen biết đứng bên cạnh đường, K hỏi “Có ma túy bán
không?”, người đàn ông đó trả lời “Có”. K lấy trong người ra số tiền 500.000
đồng (Năm trăm nghìn) đưa cho người đàn ông đó. Người đàn ông đó cầm lấy tiền
rồi đưa cho K 01 (Một) gói ma túy được gói bằng giấy bạc màu trắng. K cầm lấy
số ma túy vừa mua được rồi đi tìm chỗ để sử dụng. Đến khoảng 23 giờ 45 phút,
ngày 13/6/2022, K đang đi bộ trên đường thuộc khu vực bản N, xã N, huyện K thì
bị tổ công tác Đồn Biên Phòng Nậm Càn phối hợp với Đồn Biên phòng Na Ngoi
và Công an xã Nậm Càn phát hiện, bắt quả tang, thu giữ toàn bộ số ma túy trên.
Tại biên bản mở niêm phong xác định khối lượng lấy mẫu giám định và niêm
phong lại vào được lập vào hồi 19 giờ 00 phút, ngày 14/6/2022 của Hội đồng mở
niên phong Công an huyện Kỳ Sơn đã xác định: 01 (Một) gói chất màu trắng (nghi
là ma túy) thu giữ của Lộc Văn K, sau khi loại bỏ bao bì có khối lượng 0,65 gam
(Không phẩy sáu mươi lăm).
Kết luận giám định số 886/KL – KTHS (Đ2-MT) ngày 20/6/2022 của Phòng
kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nghệ An kết luận: “Mẫu chất màu trắng thu giữ của
Lộc Văn K gửi tới giám định là ma túy (Heroine).
Tại Cơ quan CSĐT Công an huyện Kỳ Sơn, Lộc Văn K đã thừa nhận hành vi
phạm tội của mình, mục đích tàng trữ số ma túy trên là để sử dụng.
Về vật chứng của vụ án: Số ma túy (Heroine) có khối lượng 0,55 gam (Không
phẩy năm mươi lăm) và vỏ giấy niêm phong ban đầu đã được CQĐT chuyển cho
Chi cục thi hành án dân sự huyện Kỳ Sơn bảo quản theo quy định.
Cáo trạng số: 66/CT-VKS-KS ngày 08/8/2022 của Viện kiểm sát nhân dân
huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An đã truy tố bị cáo Lộc Văn K về tội “Tàng trữ trái
phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Kỳ Sơn vẫn giữ nguyên
quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Lộc Văn K phạm tội
“Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản
1 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Lộc Văn K mức án từ 18 (Mười tám)
tháng đến 22 (Hai mươi hai) tháng tù; về hình phạt bổ sung: Miễn hình phạt bổ
sung là phạt tiền cho bị cáo; về xử lý vật chứng: Tịch thu, tiêu hủy số ma túy
(Heroine) có khối lượng còn lại 0,55 gam (Không phẩy năm mươi lăm) cùng vỏ

3
giấy niêm phong ban đầu; về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm
theo quy định của pháp luật.
Người bào chữa cho bị cáo không tranh luận gì về tội danh và điều luật áp
dụng, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét các tình tiết: Bị cáo là người dân tộc thiểu
số, sinh sống ở vùng sâu, vùng xa, nhận thức pháp luật hạn chế, thành khẩn khai
báo, ăn năn hối cải, hoàn cảnh gia đình khó khăn để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo,
xử phạt bị cáo mức hình phạt nhẹ nhất mà đại diện Viện kiểm sát đã đề nghị, miễn
hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo.
Tại phiên tòa, bị cáo Lộc Văn K đồng ý với nội dung bản cáo trạng và luận tội
của đại diện Viện kiểm sát, bị cáo không có tranh luận gì. Bị cáo nói lời nói sau
cùng: Xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được
tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tính hợp pháp của hành vi tố tụng và quyết định tố tụng của cơ quan
điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy
tố, xét xử: Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình
tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Bị cáo không có ý kiến gì khiếu
nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết
định của Điều tra viên; Kiểm sát viên đã thực hiện đều hợp pháp và đúng quy định
pháp luật.
[2] Về việc vắng mặt của người tham gia tố tụng: Tại phiên tòa, vắng mặt
người chứng kiến, tuy nhiên quá trình điều tra đã có lời khai đầy đủ tại hồ sơ vụ
án. Do đó, sự vắng mặt này không ảnh hưởng đến việc xét xử nên Hội đồng xét xử
quyết định tiến hành xét xử là có căn cứ, đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình
sự.
[3] Về hành vi của bị cáo: Tại phiên tòa hôm nay cũng như trong quá trình
điều tra, bị cáo Lộc Văn K đã khai nhận hành vi phạm tội của mình, lời khai nhận
tội của bị cáo phù hợp lời khai của người chứng kiến, vật chứng thu giữ, kết luận
giám định và các chứng cứ, tài liệu có tại hồ sơ vụ án, phù hợp với Cáo trạng của
Viện kiểm sát đã truy tố. Như vậy có đủ cơ sở để kết luận: Vào ngày 13/6/2022, tại
khu vực bản N, xã N, huyện K, tỉnh Nghệ An, Lộc Văn K đã có hành vi tàng trữ
trái phép 0,65 gam (Không phẩy sáu mươi lăm) ma túy (Heroine) nhằm mục đích
để sử dụng. Hành vi đó của bị cáo Lộc Văn K đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép
chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ
luật Hình sự. Cáo trạng truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng quy định của
pháp luật.

4
Điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định:
“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua
bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp
sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm;
a)……………………………………………………….
c) Heroine có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam”.
[4] Về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội; Nhân thân người
phạm tội và tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Vụ án thuộc trường
hợp nghiêm trọng. Hành vi phạm tội nêu trên của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội,
đã xâm phạm chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các loại chất gây
nghiện. Khi phạm tội bị cáo cũng nhận thức được ma túy là chất gây nghiện bị Nhà
nước cấm vì ma túy gây tác hại xấu đến đời sống kinh tế xã hội cũng như sức khỏe
của con người và cũng là mầm mống phát sinh các tệ nạn xã hội và các tội phạm
khác, nhưng bị cáo vẫn bất chấp pháp luật để tàng trữ trái phép làm ảnh hưởng đến
tình hình an ninh trật tự tại địa phương. Bị cáo có nhân thân xấu, năm 2012 đã bị
Tòa án nhân dân huyện Kỳ Sơn xử phạt 32 (Ba mươi hai) tháng tù mặc dù đã được
xóa án tích nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học mà tiếp tục phạm tội. Vì vậy
hành vi đó phải được xử lý nghiêm minh, cần tuyên phạt bị cáo một mức án
nghiêm khắc, tương xứng với hành vi mà bị cáo đã thực hiện, việc cách ly bị cáo ra
khỏi xã hội một thời gian là cần thiết, có như vậy mới đủ điều kiện để vừa tiếp tục
cải tạo, giáo dục riêng bị cáo vừa răn đe phòng ngừa chung.
Tuy nhiên trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo Lộc
Văn K đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Nên xét thấy cần áp dụng điểm s
khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ hình phạt đối với bị cáo để thể hiện
sự khoan hồng của pháp luật.
[5] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo là người nghiện ma túy, không có
thu nhập ổn định, hoàn cảnh gia đình khó khăn nên miễn hình phạt bổ sung là phạt
tiền cho bị cáo.
[6] Các đối tượng liên quan: Trong vụ án này, có người đàn ông cho K đi nhờ
xe và một người khác đã bán ma túy cho K, quá trình điều tra không xác định được
danh tính cụ thể nên không có căn cứ để xử lý.
[7] Về vật chứng vụ án: Số ma túy (Heroine) có khối lượng còn lại 0,55 gam
(Không phẩy năm mươi lăm) và vỏ giấy niêm phong ban đầu, đây là vật Nhà nước
cấm lưu hành, tàng trữ nên cần phải tịch thu, tiêu hủy.
[8] Về án phí: Bị cáo là người bị kết án nên phải chịu tiền án phí hình sự sơ
thẩm.
[9] Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,

5
QUYẾT ĐỊNH:
1.Về điều luật áp dụng và tội danh:
Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình
sự.
Tuyên bố bị cáo Lộc Văn K phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Xử phạt bị cáo Lộc Văn K 22 (Hai mƣơi hai) tháng tù; thời hạn tù tính từ
ngày bị tạm giữ, tạm giam (ngày 14/6/2022).
2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự, khoản 2
Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu, tiêu hủy: 01 (Một) phong bì màu trắng
có góc trái phía bên trên có dòng chữ “CÔNG AN TỈNH NGHỆ AN, CÔNG AN
HUYỆN KỲ SƠN” được dán kín, không bị rách nát, hư hỏng. Trên mép dán có
đầy đủ chữ ký của Hội đồng tham gia niêm phong và dấu điểm chỉ của đối tượng
Lộc Văn K và đóng 05 (năm) hình dấu đỏ của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an
huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An. Bên trong có chứa 0,55 gam (Không phẩy năm mươi
lăm) ma túy (Heroine) là vật chứng còn lại và vỏ giấy niêm phong ban đầu. (Vật
chứng đang do Chi cục Thi hành án dân sự huyện Kỳ Sơn quản lý theo biên bản
giao nhận vật chứng lập ngày 09/8/2022 giữa Công an huyện Kỳ Sơn và Chi cục
Thi hành án dân sự huyện Kỳ Sơn).
3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, điểm a
khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội quy định về mức án phí, lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Lộc Văn
K phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn) tiền án phí hình sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự:
Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ
thẩm (ngày 29/8/2022)./.
Nơi nhận:
- Bị cáo;
- TAND tỉnh Nghệ An;
- VKSND huyện Kỳ Sơn;
- VKSND tỉnh Nghệ An;
- Trại tạm giam CA tỉnh Nghệ An;
- CQĐT Công an huyện Kỳ Sơn;
- CQTHAHS huyện Kỳ Sơn;
- CCTHADS huyện Kỳ Sơn;
- Người tham gia tố tụng khác;
- Lưu HSVA, VP.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(Đã ký)
Vi Thị Khuyên
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 03/04/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 29/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 29/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 22/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 15/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 14/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 08/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 07/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 07/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 05/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 04/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 01/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 23/02/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 06/02/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 06/02/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 06/02/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 06/02/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 05/02/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 05/02/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 05/02/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm