Bản án số 65/2024/DS-ST ngày 27/09/2024 của TAND huyện Bàu Bàng, tỉnh Bình Dương về tranh chấp hợp đồng đặt cọc

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 65/2024/DS-ST

Tên Bản án: Bản án số 65/2024/DS-ST ngày 27/09/2024 của TAND huyện Bàu Bàng, tỉnh Bình Dương về tranh chấp hợp đồng đặt cọc
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng đặt cọc
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Bàu Bàng (TAND tỉnh Bình Dương)
Số hiệu: 65/2024/DS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 27/09/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: tranh chấp cọc
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN BÀU BÀNG
TỈNH BÌNH DƯƠNG
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 65/2024/DSST
Ngày: 27-9-2024
V/v Tranh chấp về hợp đồng đặt cọc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÀU BÀNG, TỈNH BÌNH DƯƠNG
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Đăng Khoa.
Các Hội thẩm nhân dân:
Ông Nguyễn Mai Khanh;
Ông Nguyễn Văn Hòa.
- Thư phiên tòa: Ông Kiều Vĩnh Phong, là Thư Tòa án nhân dân huyện
Bàu Bàng, tỉnh Bình Dương.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bàu Bàng, tỉnh Bình ơng tham
gia phiên tòa: Bà Võ Thanh Huyền – Kiểm sát viên.
Ngày 27 tháng 9 năm 2024, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Bàu Bàng, tỉnh
nh ơng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ số 141/2024/TLST-DS ngày 10
tháng 4 năm 2024 về tranh chấp hợp đồng đặt cọc theo Quyết định đưa vụ án ra xét x
số 77/2024/QĐXXST-DS ngày 19 tháng 8 năm 2024 Quyết định hoãn phiên tòa số
06/2024/QĐST-DS ngày 06 tháng 9 m 2024, giữa các đương sự.
- Nguyên đơn: Ông Phạm Văn L, sinh năm 1988; địa chỉ: tổ B, ấp C,
xã B, huyện B, tỉnh Bình Dương.
Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: ông Đậu Văn C, sinh năm
1988; địa chỉ: ấp H, xã L, huyện B, tỉnh Bình Dương, người đại diện theo ủy
quyền (văn bản ủy quyền ngày 02 tháng 4 năm 2024).
- Bị đơn: Trần Thị T, sinh năm 1968; địa chỉ: ấp A, T, huyện B,
tỉnh Bình Dương.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
+ Mai Thị X, sinh năm 1986; địa chỉ: tổ A, ấp B, T, huyện B,
tỉnh Bình Dương.
+ Mai Thị L1, sinh năm 1988; địa chỉ: khu F, phường H, thành
phố T, tỉnh Bình Dương.
2
+ Ông Mai Văn L2, sinh năm 1995; địa chỉ: tổ A, ấp B, xã T, huyện B,
tỉnh Bình Dương.
+ Ông Mai Văn L3, sinh năm 2001; địa chỉ: tổ A, ấp B, T, huyện B,
tỉnh Bình Dương.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Tại đơn khởi kiện ngày 02-4-2024, bản tự khai, lời khai trong quá trình giải
quyết vụ án, người đại diện nguyên đơn ông Đậu Văn C trình bày:
Vào ngày 16 tháng 10 năm 2021, ông L Trần Thị T lập hợp đồng
đặt cọc nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất thuộc thửa số 171, tờ bản đồ số
10 diện tích 3.270m
2
tọa lạc tại T, huyện B, tỉnh Bình Dương, số vào s cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CS08211 do ông Mai Văn H đứng tên.
Với tổng giá trị nhận chuyển nhượng 3.050.000.000 (ba tỷ không trăm năm
mươi triệu) đồng. Sau khi hai bên ký hợp đồng đặt cọc ông L giao tiền đặt cọc
cho bà T số tiền là 200.000.000 (hai trăm triệu) đồng.
Hai bên thỏa thuận đến ngày 04 tháng 11 m 2021, ông L sẽ giao thêm cho
T số tiền là 100.000.000 (một trăm triệu) đồng và trong vòng 50 ngày kể từ ngày
hợp đồng đặt cọc tức từ ngày 16 tháng 10 m 2021 đến ngày 06 tháng 12 năm
2021 T phải thực hiện các thủ tục để chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại Văn
phòng C1, ông L có trách nhiệm giao hết số tiền còn lại cho T là 2.750.000.000 (hai
tỷ bảy trăm năm mươi triệu) đồng. Đến thời hạn ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất cho ông L thì ông Mai Văn H chết nên không hiện các thủ tục để chuyển
nhượng. Thửa đất này được bà T mua của ông H và ông L người mua lại thửa đất từ
T. Sau khi ông H chết thì người nhà của ông H cũng đã trả lại số tiền đặt cọc mua
đất cho bà T. Đối với số tiền mà ông L đặt cọc cho bà T là 200.000.000 (hai trăm triệu)
đồng, ông đã nhiều lần yêu cầu T trả lại nhưng T không chịu trả lại cho ông L,
nay ông L giải quyết:
Tuyên hợp đồng đặt cọc giữa ông L và Trần Thị T ngày 16 tháng 10 m
2021 là vô hiệu.
Buộc bà Trần Thị T trả lại số tiền đặt cọc là 200.000.000 (hai trăm triệu) đồng.
Tại bản tự khai ngày 20-5-2024, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, bị
đơn bà Trần Thị T trình bày:
Hợp đồng đặt cọc ngày 16 tháng 10 m 2021, với ông L có thực hiện
chuyển nhượng quyền sử dụng đất do ông Mai Văn H đứng tên. Đồng ý nội dung thỏa
thuận theo hợp đồng.
T nhận 200.000.000 đồng. Đất ông H đứng tên nhưng ông H đã bán cho
T. Số tiền T nhận tiền của ông L đã giao lại cho ông H. Sau đó, ông H chết
nên không thể m thủ tục giấy tờ để công chứng cho ông L đúng theo thỏa thuận
trong hợp đồng đặt cọc, T cũng không nhận thêm số tiền đặt cọc đợt 2 không
làm thủ tục được nên bà báo cho ông L là không giao cọc đợt 2.
Sau đó, ông L đã thỏa thuận với bà T nội dung: bà T đã giao cho ông L chiếc xe
để cấn trừ số tiền T đã nhận ông L 200.000.000 đồng, hợp đồng mua bán
xe rõ ràng, bà không đồng ý yêu cầu của nguyên đơn.
3
Tại biên bản lấy lời khai ngày 21 tháng 6 m 2024, người quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan Mai Thị X, Mai Thị L1, ông Mai Văn L2 ông Mai Văn L3
thống nhất trình bày: Trước đây ba của các ông là ông H bán đất cho T
bằng hợp đồng đặt cọc, sau khi ông H chết thì các chị em T đã được Tòa
án xét xử, các chị em đã giao tiền cho bà T đầy đủ số tiền theo thỏa thuận. Riêng
việc tranh chấp giữa ông L T các chem không liên quan, việc T bán
đất của của ông H cho ông L thì để ông L bà T giải quyết với nhau không
không liên quan gì các chị em, yêu cầu Tòa án giải quyết theo quy định của pháp
luật.
Tại phiên tòa:
Người đại diện nguyên đơn nguyên đơn vắng mặt gửi văn bản xác nhận
yêu cầu bị đơn trả lại số tiền đặt cọc 200.000.000 đồng. Yêu cầu tuyên bố hợp đồng
đặt cọc lập vào ngày 16-10-2021 là vô hiệu.
Bị đơnT trình bày: bà không thống nhất yêu cầu của nguyên đơn.
Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Mai Thị X, Mai Thị L1, ông
Mai Văn L2 và ông Mai Văn L3 vắng mặt không ghi nhận ý kiến.
Đương sự không cung cấp thêm tài liệu, chứng cứ nào khác.
Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu:
Về tố tụng: từ khi thụ lý vụ án đến khi khai mạc phiên tòa, Thẩm phán, Thư ký
đã tiến hành đúng, đầy đủ các thủ tục tố tụng theo quy định. Tính đến ngày Tòa
án quyết định đưa vụ án ra xét xử, vụ án vi phạm thời hạn chuẩn bị xét xử
theo điểm a khoản 1 Điều 203 Bộ luật Tố tụng dân sự. Tại phiên tòa sơ thẩm,
Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định pháp luật.
Về nội dung: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, xét thấy
đủ căn cứ để chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Phạm Văn L.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét
tại phiên toà và căn cứ kết quả tranh tụng. Tòa án nhân dân huyện Bàu Bàng, tỉnh Bình
Dương nhận định:
[1] Về tố tụng:
[1.1] V th tc th l vic khi kin ca nguyên thc hiện đúng theo các
quy định v khi kin và th l v án ca B lut T tng dân s.
[1.2] V quan h pháp lut: ông Phạm Văn L khởi kiện Trần Thị T về việc
tranh chấp hợp đồng đặt cọc nên Hội đồng xét x xác định đây là v án tranh chp hp
đồng đặt cọc.
[1.3] Về thẩm quyền: Nguyên đơn ông Phạm Văn L khởi kiện bị đơn Trần
Thị T về việc tranh chấp về hợp đồng đặt cọc; bị đơn bà T có nơi cư trú tại xã L, huyện
B, tỉnh Bình ơng nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân
huyện Bàu Bàng, tỉnh Bình Dương theo quy định tại Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35;
điểm c khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
4
[1.4] Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Mai Thị X, bà Mai Thị L1, ông
Mai Văn L2 ông Mai Văn L3 vắng mặt tại phiên toà nhưng yêu cầu xét xử vắng
mặt nên Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 227 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự xét
xử vắng mặt các đương sự trên.
[2] Về yêu cầu khởi kiện:
[2.1] Xét hình thức của hợp đồng: Hợp đồng đặt cọc về việc mua bán nhà đất
hoặc đất đề ny 16-10-2021. Về hình thức hợp đồng đặt cọc được lập giữa ông L với
T giá trị pháp , phù hợp theo quy định tại khoản 1 Điều 119 Bộ luật Dân sự
năm 2015.
[2.2] Xét nội dung của hợp đồng: Hợp đồng đặt cọc về việc mua bán nhà đất
hoặc đất đề ny 16-10-2021, bên bán nhận đặt cọc Trần Thị T, bên mua đặt cọc
là ông Pạm Văn L4, hợp đồng có chữ ký và dấu vân tay của bà T, ông L4 và người làm
chứng. Số tiền đặt cọc, nguyên đơn ông L4 đã giao 200.000.000 đồng (hai trăm triệu
đồng) cho bị đơn ngay khi c bênkết hợp đồng đặt cọc ngày 16-10-2021 theo như
thỏa thuận trong hợp đồng đặt cọc ngày 16-10-2021, bị đơn T thống nhất không
ý kiến về vấn đề này. Do đó, căn cứ xác định sau khi kết hợp đồng đặt cọc
ngày 16-10-2021, nguyên đơn đã giao cho bị đơn số tiền đặt cọc 200.000.000 (hai trăm
triệu) đồng. Việc kết hợp đồng đặt cọc giao nhận số tiền đặt cọc, chữ ký, dấu
vân tay của ông L4, T người chứng kiến ông Phan Đắc T1 trong hợp đồng đặt
cọc. Do đó, có cơ sở xác định hợp đồng đặt cọc ngày 16-10-2021 giữa các đương sự là
thật theo quy định tại Điều 328 của Bộ luật Dân sự 2015. Khi kết hợp đồng đặt
cọc, nguyên đơn bị đơn đều biết phần đất đặt cọc để chuyển nhượng quyền sử dụng
đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho T. T không đủ
điều kiện chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo quy định tại Điều 188 Luật Đất đai
năm 2013 với ông L4 vào thời điểm ký kết hợp đồng đặt cọc. Do đó, ngay từ thời điểm
ký kết, hợp đồng đặt cọc ngày 16-10-2021 giữa ông L4 và bà T đã bị vô hiệu theo quy
định tại Điều 117, 123 Bộ luật Dân sự m 2015. Tại phiên a, người đại diện y
quyền của nguyên đơn vắng mặt gửi đơn yêu cầu tuyên bố hợp đồng hợp đồng đặt
cọc ngày 16-10-2021 hiệu yêu cầu T trách nhiệm thanh toán lại số tiền
nhận cọc căn cứ nên Hội đồng t xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên
đơn. Đối với ý kiến của bị đơn đã bán xe cấn trừ số tiền cọc. Căn cứ vào giấy thỏa
thuận ngày 12 tháng 01 năm 2023 (thực là ngày 12 tháng 01 năm 2024) thể hiện nội
dung T n cho ông L4 chiếc xe tải Spark Van giá trị 40.000.000 đồng để T
khắc phục hợp đồng đặt cọc đất ngày 16 tháng 10 m 2021, trong quá trình tham gia
tố tụng tại Tòa án hướng dẫn T làm thủ tục khởi kiện phản tố nhưng T không
yêu cầu. Do đó, Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết đối với giấy thỏa thuận
giữa ông L4 và bà T, khi nào có tranh chấp sẽ giải quyết bằng vụ án khác.
[3] Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa về nội dung vụ án
có cơ sở nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[4] Về án phí: Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn
theo quy định tại Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự và khoản 2 Điều 26 Nghị quyết
326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 m 2016 ca y ban Thưng v Quc Hi
quy định v mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản và sử dụng án phí lệ phí Toà án
thì bị đơn phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
5
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào:
Điều 4, Điều 5, Điều 26, điểm a khon 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, Điu 92,
Điều 96, các Điều 147, 217, 218, 219, 227, 228, 244, Điều 259, 266, 271 273 của
Bộ luật Tố tụng dân sự;
Điều 3, Điều 117, khoản 1 Điều 119, Điều 123, Điều 131 Điều 328 của B
luật Dân sự 2015;
Điều 188 Luật Đất đai năm 2013;
Luật phí lệ phí Toà án; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của y ban
thường vụ quốc hội ngày 30-12-2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản
lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Ngh quyết số 01/2019/NQ–HĐTP ngày 11-01-2019 ca Hội đồng Thm phán
Tòa án nhân dân tối cao về ớng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về lãi,
lãi suất, phạt vi phạm;
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Phạm Văn L đối với bị
đơn với bà Trần Thị T về việc tranh chấp hợp đồng đặt cọc.
Tuyên Hợp đồng đặt cọc đề ngày 16-10-2021 giữa ông Phạm Văn L với
Trần Thị T là vô hiệu.
Buộc Trần Thị T nghĩa vụ thanh toán cho ông Phạm Văn L số tiền
200.000.000 (hai trăm triệu) đồng.
Kể từ ngày bản án có hiu lc pháp lut hoc k t ngày đơn yêu cầu thi
hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, tt c các khon
tin, hàng tháng bên phi thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải
thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm
2015.
2. Về án phí dân sự sơ thẩm:
Trả lại cho ông Phạm Văn L số tiền 5.300.000 (năm triệu ba trăm nghìn) đồng
đã nộp tạm ứng án phí theo biên lai thu tiền số 3525 ngày 08 tháng 4 năm 2024 của
Chi cục thi hành án dân sự huyện Bàu Bàng, tỉnh Bình Dương.
Trần Thị T phải nộp 5.300.000 (năm triệu ba trăm nghìn) đồng.
3. Về quyền kháng cáo: Đương sự mặt quyền làm đơn kháng cáo trong
thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không
mặt khi tuyên án do chính đáng tthời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận
được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2, Luật thi hành án dân
sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự quyền thỏa
thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế
thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi
hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
6
Nơi nhận:
- TAND tỉnh Bình Dương;
- VKSND huyện Bàu Bàng;
- Chi cục THADS huyện Bàu Bàng;
- Các đương sự;
- Cổng Thông tin điện tử Tòa án (nếu có);
- Lưu: Văn thư, hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nguyễn Đăng Khoa
Tải về
Bản án số 65/2024/DS-ST Bản án số 65/2024/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 65/2024/DS-ST Bản án số 65/2024/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất