Bản án số 65/2024/DS-ST ngày 03/07/2024 của TAND huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh về tranh chấp hợp đồng thuê quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 65/2024/DS-ST

Tên Bản án: Bản án số 65/2024/DS-ST ngày 03/07/2024 của TAND huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh về tranh chấp hợp đồng thuê quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng thuê quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Trảng Bàng (TAND tỉnh Tây Ninh)
Số hiệu: 65/2024/DS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 03/07/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Tuyên chấm dứt hợp đồng thuê quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất giữa bà Trần Thị Phi P, ông Trần Đức H và chị Nguyễn Thị Ngọc H1 đối với quyền sử dụng đất diện tích 250m2 thuộc thửa đất số 98, tờ bản đồ số 07 tọa lạc ấp P, xã P, huyện G, tỉnh Tây Ninh và tài sản gắn liền với đất là 01 căn nhà cấp 4 diện tích 250m2 được công chứng tại Văn phòng C4 ngày 20/3/2023, số công chứng 1299, quyển số 03/2023 TP/CC-SCC-HĐGD.
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
THỊ XÃ TRẢNG BÀNG
TỈNH TÂY NINH
Bản án số: 65/2024/DS-ST
Ngày: 03 - 7 - 2024
Về “Tranh chấp hợp đồng thuê quyền
sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ TRẢNG BÀNG, TỈNH TÂY NINH
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: bà Phạm Thị Yến.
Các Hội thẩm nhân dân:
Ông Cao Hoài Hiêm.
Ông Trần Văn Hùng.
- Thư phiên tòa: bà Thanh Trúc Thư Tòa án nhân dân thị
Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân n thị xã Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh tham
gia phiên tòa: ông Nguyễn Văn Thướng – Kiểm sát viên.
Ngày 03 tháng 7 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Trảng Bàng,
tỉnh Tây Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 365/2023/TLST-DS ngày
20 tháng 12 năm 2023 về tranh chấp “Hợp đồng thuê quyền sử dụng đất và tài sản
gắn liền với đất” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 96/2024/QĐXXST-DS
ngày 20 tháng 6 năm 2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn:
+ Bà Trần Thị Phi P, sinh năm 1958 (có mặt);
+ Ông Trần Đức H, sinh năm 1959 (có mặt).
Cùng địa chỉ: khu phố L, phường T, thị xã T, tỉnh Tây Ninh.
- Bị đơn: Chị Nguyễn Thị Ngọc H1, sinh năm 1979; địa chỉ: khu phố H,
phường A, thị xã T, tỉnh Tây Ninh (có mặt).
- Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Văn phòng C4; địa chỉ: Số A Quốc
lộ B, khu phố G, phường T, thị xã T, tỉnh Tây Ninh.
Người đại diện theo pháp luật: ông Trịnh Văn C, chức vụ: Trưởng Văn phòng
(có đơn đề nghị giải quyết, xét xử vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo Đơn khởi kiện và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án cũng như
tại phiên tòa thẩm, nguyên đơn ông Trần Đức H Trần Thị Phi P thống
nhất trình bày:
2
Ngày 20/3/2023, ông H, bà P và chị Nguyễn Thị Ngọc H1 hợp đồng th
quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất. Hợp đồng được công chứng tại Văn
phòng công chứng Trịnh Văn C, số công chứng 1299, quyển số 03/2023 TP/CC-
SCC-HĐGD. Theo nội dung hợp đồng đã ký kết, vợ chồng ông H, P cho chị H1
thuê quyền sử dụng đất diện tích 250m
2
thuộc thửa đất số 98, tờ bản đồ số 07 tọa
lạc ấp P, xã P, huyện G, tỉnh Tây Ninh và tài sản gắn liền với đất là 01 căn nhà cấp
4 diện tích 250m
2
. Mục đích thuê để buôn bán tạp hóa kinh doanh nước giải
khát. Thời hạn thuê 05 năm kể từ ngày 01/4/2023, giá thuê 02 năm đầu tiên
25.000.000 đồng/tháng, giá thuê 03 năm cuối 27.500.000 đồng/tháng. Phương
thức thanh toán: bên B (tức chị H1) thanh toán cho bên A (tức ông H, P)
tiền thuê tài sản trước 03 tháng với số tiền là 75.000.000.000 đồng ngay sau khi
hợp đồng. Bên B thanh toán cho bên A tiền thuê tài sản bằng tiền mặt, 03 tháng 01
lần vào ngày 01 tây của tháng đầu kỳ (mỗi kỳ 03 tháng). Bên B đặt cọc cho bên A
tiền thuê tài sản là 75.000.000 đồng. Bên A sẽ thanh toán tiền cọc lại cho bên B sau
khi kết thúc hợp đồng. Nếu bên B chấm dứt hợp đồng trước thời hạn thì mất tiền
cọc bồi thường cho bên A số tiền 75.000.000 đồng. Ngược lại, nếu bên A kết
thúc hợp đồng trước thời hạn phải bồi thường gấp đôi số tiền đặt cọc cho bên B.
Tại khoản 1 Điều 6 của hợp đồng thỏa thuận bên B “không được cho
người khác thuê lại quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất nếu không được
bên A đồng ý bằng văn bản”. Tuy nhiên, từ ngày hai bên hợp đồng xong, chị H1
không trực tiếp sử dụng quyền sử dụng đấttài sản gắn liền với đất đã thuê, cũng
không sử dụng quyền sử dụng đất tài sản gắn liền với đất o đúng mục đích
thuê là buôn bán tạp hóa và kinh doanh nước giải khát mà chị H1 cho ông C1 thuê
mặt bằng để bán nấm. Sau đó, ông C1 tiếp tục cho 02 người khác thuê lại tài sản
của vợ chồng để bán tôm bán thịt heo anh Lê Văn T chị Nguyễn Thị C2.
Khi chị H1 cho người bán nấm, người bán tôm người bán thịt heo thuê lại mặt
bằng thì không thông báo cho vợ chồng biết. Hàng ngày, những người này
cất đồ buôn bán vào trong nhà của bà. Khi người bán tôm sử dụng phần vỉa để
bán tôm thì vchồng, con cái của người bán tôm sinh sống trong căn nhà của
một thời gian. Vợ chồng đã nhắc nhở chị H1 nhiều lần yêu cầu chị H1 phải
trực tiếp đến địa điểm thuê để kinh doanh, buôn bán, không được cho người khác
thuê lại nhà, đất của ông, bà. Chị H1 hứa sẽ đến địa điểm thuê để trực tiếp buôn bán
nhưng vẫn không thực hiện.
Từ ngày hợp đồng, chị H1 đã thanh toán tiền thuê cho ông, từ tháng
4/2023 cho đến hết tháng 12/2023. Ngày 02/01/2024, bên phía chị H1 đập phá nhà
cửa của ông, nên ông, đã khóa cửa, nhận lại tài sản, không cho người thuê
sau của chị H1 buôn bán nữa đã chấm dứt hợp đồng thuê với chị H1 tngày
02/01/2024.
Nay ông H, P yêu cầu chấm dứt hợp đồng thuê quyền sử dụng đất và tài
sản gắn liền với đất giữa ông, với chị H1 được công chứng tại Văn phòng C4
ngày 20/3/2023, số công chứng 1299, quyển số 03/2023 TP/CC-SCC-HĐGD, chị
H1 phải mất stiền đặt cọc là 75.000.000 đồng do vi phạm khoản 1 Điều 6 của hợp
đồng sdụng tài sản thuê không đúng mục đích. Ngoài ra, ông, không còn
yêu cầu gì khác.
3
* Trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, bị đơn chị
Nguyễn Thị Ngọc H1 trình bày:
Chị H1 thống nhất lời trình bày của ông H, P về thời gian kết hợp đồng
thuê quyền sử dụng đất tài sản gắn liền với đất, hợp đồng công chứng, giá
thuê, thời hạn thuê, mục đích thuê và phương thức thanh toán. Chị đã đặt cọc cho
ông H, P số tiền 75.000.000 đồng và trả tiền thuê nhà cho ông H, bà P từ tháng
4/2023 cho đến hết tháng 12/2023.
Sau khi hợp đồng, do chị chưa điều kiện nên chưa kinh doanh nước
giải khát nhưng chị có chở rau, củ, quả lên địa điểm đã thuê và thuê anh rể của chị
là ông Trần Văn C3 buôn bán và trả tiền công cho ông C3, lời nhiều cho nhiều, lời
ít cho ít. Trong thời gian ông C3 bán hàng cho chị thì vợ ông C3 cũng lên bán phụ
ông C3 những lúc đông khách. Theo chị, rau, củ, quả cũng hàng tạp hóa. Việc
chị thuê ông C3 bán rau, củ, quả cho chị chỉ thỏa thuận bằng lời nói, không ký hợp
đồng. Tuy nhiên, chị không cho ông C3 thuê lại mặt bằng. Theo biên bản bàn giao
tài sản gắn liền với đất giữa chị và bà P, hai bên có thỏa thuận chị được quyền cho
thuê vỉa phía trước phần đất của mình thuê khoảng 1m đến 2m. vậy, ngoài
ông C3 được chị thuê bán rau, củ, quả thì chị cho người bán thịt heo người
bán tôm là anh T và chị C2 mỗi người thuê 02m phần vỉa hè.
Ngày 01/01/2024, chị phải đóng tiền lãi ngân hàng nên có gọi điện thoại cho
con của bà P để xin hẹn ngày trả tiền thuê nhà lại khoảng 10 ngày. Tuy nhiên, con
của bà P yêu cầu chị liên hệ với bà P, khi chị gọi cho bà P thì không liên lạc được.
Sau đó giữa con P và chruột của chị xảy ra mâu thuẫn. Ngày 02/01/2024,
ông H, P đã khóa cửa nhà không cho chbuôn bán nữa nên chị cũng không đóng
tiền thuê cho ông H, P từ tháng 01/2024 ông H, P đã lấy lại mặt bằng từ
ngày 02/01/2024 cho đến nay. Chị được biết, sau khi vợ chồng P đuổi người bán
tôm người bán nấm đi thì ông H, P tiếp tục cho hai người này thuê lại mặt
bằng cho đến nay.
Nay chị đồng ý chấm dứt hợp đồng thuê quyền sử dụng đất tài sản gắn
liền với đất ngày 20/3/2023 giữa chị vợ chồng ông H, P. Tuy nhiên, chị
không vi phạm hợp đồng, do ông H, bà P tự ý đơn phương chấm dứt hợp đồng nên
chị yêu cầu ông H, P phải trả lại số tiền đặt cọc 75.000.000 đồng cho chị. Ngoài
ra, chị không còn yêu cầu gì khác.
* Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan văn phòng công chứng Trịnh
Văn C trình bày:
Việc công chứng hợp đồng thuê quyền sử dụng đất tài sản gắn liền với đất
giữa bà Trần Thị Phi P ông Trần Đức H với chị Nguyễn Thị Ngọc H1 thực hiện
theo đúng quy định của pháp luật. vậy, nay Văn phòng C4 không ý kiến
đối với yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị Phi P và ông Trần Đức H. Yêu cầu Tòa
án giải quyết vụ án theo quy định ca pháp luật.
* Người làm chứng – ông Trần Văn C3 trình bày:
Ông anh rể của chị H1. Vào đầu năm 2023 thì chị H1 thuê mặt bằng của
ông H, bà P tại ấp P, xã P để buôn bán nấm, rau, củ, quả và thuê ông bán hàng cho
chị H1. Việc chị H1 thuê ông bán hàng chỉ giao kết bằng lời nói, không hợp
4
đồng lao động, tiền lời nhiều thì Hiên cho nhiều, lời ít thì cho ít. Trong quá trình
buôn bán tại địa điểm trên, ông có cho 01 người bán tôm và một người bán thịt heo
mỗi người thuê diện tích vỉa hè 02m với giá 5.000.000 đồng/tháng dưới sự đồng ý
của chH1. Khi người bán tôm và người bán thịt heo thuê diện tích vỉa hè thì chiều
lại, người bán thịt heo có gửi máy xay thịt để cất trong nhà, buổi trưa nắng nên ông
có cho người bán tôm vào nhà của ông H, bà P nghỉ ngơi.
* Người làm chứng – anh Lê Văn T trình bày:
Ngày 25/10/2023, anh thỏa thuận với ông Trần Văn C3 thuê diện tích vỉa hè
trước nhà ông H, P tại ấp P, xã P với giá thuê 2.500.000 đồng/m, 02m
5.000.000 đồng/tháng để bán thịt heo. Việc thuê mặt bằng chỉ thỏa thuận bằng lời
nói. Anh không biết chH1 ai nên trực tiếp thuê mặt bằng từ ông C3 hàng
tháng trực tiếp đóng tiền thuê mặt bằng cho ông C3. Anh buôn bán đến tháng thứ 3
thì ông H chủ đất đuổi nên không thuê nữa. Khi anh thuê diện tích vỉa trước
nhà ông H, P, anh có xin ông C3 cho anh cất máy xay thịt ở trong nhà, cất chiếc
bàn bán thịt trong sân sử dụng nhờ nước sinh hoạt. Ngoài ra, anh không
ngủ, nghỉ tại nhà ông H không sử dụng tài sản khác của ông H. Sau khi ông
H không cho anh buôn bán nữa thì anh đến gặp vợ chồng ông H cho anh buôn
bán tạm thời trên diện tích vỉa (đất công cộng) một thời gian anh đang bán
quen nên ông Hiệp đồng ý và chỉ lấy giá thuê là 4.000.000 đồng/tháng.
* Người làm chứng – chị Nguyễn Thị C2 trình bày:
Tháng 3/2023, chthỏa thuận với ông Trần n C3 thuê diện tích vỉa trước
nhà ông H, bà P tại ấp P, xã P với giá thuê là 2.500.000 đồng/m, 02m là 5.000.000
đồng/tháng để bán tôm. Việc thuê mặt bằng chỉ thỏa thuận bằng lời nói. Chị không
biết chị H1 ai nên trực tiếp thuê mặt bằng từ ông C3 hàng tháng tôi trực tiếp
đóng tiền thuê mặt bằng cho ông C3. Chị đóng tiền thuê mặt bằng cho ông C3 đến
hết tháng 11/2023. Đến tháng 12/2023 thì ông H là chủ đất đuổi nên chị không thuê
nữa. Khi chị thuê diện tích vỉa hè trước nhà ông H, bà P, chị có xin ông C3 cho gửi
01 chiếc motor, 01 chiếc cân ở trong nhà và cất chiếc mân ở ngoài hiên. Buổi trưa
nắng nên chị có xin ông C3 đi vào đi ra để nghỉ ngơi một lúc buổi trưa và cũng có
sử dụng nhờ điện nước sinh hoạt. Một thời gian sau chị đến gặp vchồng ông
H cho chị buôn bán tạm thời trên phần vỉa hè trước nhà ông H một thời gian vì chị
đang bán quen. Ông H thấy tội nghiệp nên đồng ý cho chị bán tạm trong thời gian
giải quyết tranh chấp. Chị thấy thời gian lâu quá nên đã trả tiền thuê mặt bằng cho
ông H, bà P nhưng ông H chỉ lấy giá thuê là 4.000.000 đồng/tháng.
Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị Trảng ng, tỉnh Tây
Ninh phát biểu ý kiến:
+ Về tố tụng: Thẩm phán thụ lý vụ án, thu thập chứng cứ, chuẩn bị xét x
quyết định đưa vụ án ra xét xử đều bảo đảm đúng thời hạn, nội dung, thẩm quyền
theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự; Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa thực
hiện đúng trình tự, thủ tục đối với phiên tòa dân sự. Các đương sự thực hiện đúng
quyền và nghĩa vụ của mình.
+ Về quan điểm giải quyết vụ án:
5
Căn cứ các Điều 422, 472 Bộ luật Dân sự năm 2015 Nghị quyết
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét quyết định:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị Phi P, ông Trần
Đức H đối với chị Nguyễn Thị Ngọc H1 về việc chấm dứt hợp đồng thuê quyền sử
dụng đất và tài sản gắn liền với đất.
Ghi nhận bà Trần Thị Phi P, ông Trần Đức H chị Nguyễn Thị Ngọc H1,
thống nhất chấm dứt hợp đồng thuê quyền sử dụng đất tài sản gắn liền với đất
ngày 20/3/2023 giữa bà P, ông H chị H1 được công chứng tại Văn phòng công
chứng Trịnh Văn C, số công chứng 1299, quyển số 03/2023 TP/CC-SCC-HĐGD.
Về hậu quả chấm dứt hợp đồng: P, ông H trách nhiệm trả lại cho chị
H1 ½ số tiền đặt cọc.
2. Về án phí: Các đương sự phải chịu án phí dân sự thẩm theo quy định
của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu trong hồ vụ án được xem xét tại
phiên tòa, n cứ kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện kiểm
sát, xét thấy:
[1] Vquan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Nguyên đơn khởi
kiện yêu cầu chấm dứt hợp đồng thuê quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất
nên đây tranh chấp dân sự về hợp đồng thuê quyền sử dụng đất tài sản gắn
liền với đất được quy định tại khoản 3 Điều 26 Bộ luật Tố tụng dân sự và Điều 472
Bộ luật Dân sự năm 2015. Chị Nguyễn Thị Ngọc H1 nơi trú tại khu phố H,
phường A, thị xã T, tỉnh Tây Ninh nên căn cứ khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39
Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị
xã Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh.
[2] Về hình thức: Hợp đồng thuê quyền sử dụng đất tài sản gắn liền với
đất giữa ông H, P và chị H1 được công chứng tại Văn phòng công chứng Trịnh
Văn C, số ng chứng 1299, quyển số 03/2023 TP/CC-SCC-HĐGD vào ngày
20/3/2023 nên có hiệu lực pháp luật.
[3] Xét yêu cầu chấm dứt hợp đồng thuê quyền sử dụng đất tài sản gắn
liền với đất của nguyên đơn và yêu cầu trả lại số tiền đặt cọc 75.000.000 đồng của
bị đơn thấy rằng: nguyên đơn và bị đơn thống nhất trình bày, ngày 20/3/2023, ông
H, P chị H1 ký hợp đồng thuê quyền sử dụng đất tài sản gắn liền với đất
với nội dung ông H, P cho chị H1 thuê quyền sử dụng đất diện tích 250m
2
thuộc
thửa đất số 98, tờ bản đồ số 07 tọa lạc ấp P, xã P, huyện G, tỉnh Tây Ninh tài sản
gắn liền với đất 01 căn nhà cấp 4 diện ch 250m
2
. Hai bên đều thống nhất về
mục đích thuê, thời hạn thuê, giá thuê và phương thức thanh toán. Khi hợp đồng
chị H1 đặt cọc cho ông H, bà P tiền thuê tài sản 75.000.000 đồng. Sau khi hợp
đồng, chị H1 đã thanh toán tiền thuê từ ngày 01/4/2023 cho đến hết tháng 12/2023.
Ngày 02/01/2024, ông H, bà P đã đơn phương chấm dứt hợp đồng thuê quyền
sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất với chị H1 với lý do chị H1 sử dụng tài sản
6
thuê không đúng mục đích tự ý cho người khác thuê lại quyền sử dụng đất tài
sản gắn liền với đất không được sự đồng ý của ông, bà. Xét thấy, sau khi hợp
đồng thuê quyền sử dụng đất thì chị H1 không trực tiếp sử dụng tài sản thuê mà
ông Trần Văn C3 người trực tiếp sử dụng tài sản thuê để bán nấm, rau, củ, quả.
Theo biên bản bàn giao tài sản gắn liền với đất giữa P chị H1 thỏa thuận
chị H1 được quyền cho thuê lại phần vỉa phía trước phần đất của mình thuê
khoảng 1m đến 2m. Tuy nhiên, trên thực tế, ông C3 trực tiếp cho anh Văn T
thuê diện tích 02m vỉa hè để bán thịt heo và cho chị Nguyễn Thị C2 thuê diện tích
02m vỉa để bán tôm. Trong quá trình buôn bán tại mặt bằng trên, ông C3, anh T,
chị C2 sử dụng căn nhà quyền sử dụng đất của ông H, P để cất dụng cụ
buôn bán, có sử dụng nước sinh hoạt và chị C2 nghỉ trưa tại nhà của ông H,
P. Như vậy, mặc giữa bà P chị H1 thỏa thuận chị H1 được phép cho người
khác thuê diện tích vỉa hè khoảng 01m đến 02m nhưng thực tế ông C3 lại tự ý cho
anh T, chị C2 thuê diện tích 04m và sử dụng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền
với đất của ông H, bà P mà không có sự đồng ý của ông H, bà P là vi phạm khoản
1 Điều 6 của hợp đồng và Điều 475 Bộ luật Dân sự nên ông H, bà P có quyền đơn
phương chấm dứt hợp đồng trước thời hạn.
Nay ông H, P yêu cầu chấm dứt hợp đồng thuê quyền sử dụng đất và tài
sản gắn liền với đất đã kết ngày 20/3/2023 đối với phần đất nói trên. Chị H1
cũng đồng ý và thực tế hợp đồng đã chấm dứt kể từ ngày 02/01/2024, bên cho thuê
đã nhận lại quyền sử dụng đất tài sản gắn liền với đất. Xét thấy hai bên đương
sự cùng thống nhất chấm dứt hợp đồng thuê quyền sử dụng đất hoàn toàn t
nguyện, không vi phạm điều cấm không trái đạo đức xã hội. Do vậy, căn cứ Điều
422 Bộ luật dân sự, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của ông H, P về việc
yêu cầu chấm dứt hợp đồng thuê quyền sử dụng đất tài sản gắn liền với đất đã
ký kết ngày 20/3/2023.
Ông H, bà P đơn phương chấm dứt hợp đồng trước thời hạn là do lỗi của chị
H1 nên không phải bồi thường tiền cọc cho chị H1. Tuy nhiên, ý chí đơn phương
chấm dứt hợp đồng là xuất phát từ ông H, bà P, không phải ý chí của chị H1 và khi
hợp đồng hai bên cũng không thỏa thuận trong trường hợp bên A đơn phương
chấm dứt hợp đồng mà không phải do lỗi của bên A thì số tiền đặt cọc sẽ giải quyết
như thế nào. Thực tế, từ ngày 02/01/2024 cho đến nay ông H, P vẫn chưa hợp
đồng cho ai khác thuê quyền sử dụng đất nên ông, cũng bị mất thu nhập trong
những ngày không cho thuê tài sản. Chị H1 cũng có lỗi một phần dẫn đến việc hợp
đồng thuê quyền sử dụng đất bị chấm dứt. Do đó, mỗi bên phải chịu ½ lỗi và buộc
ông H, P nghĩa vụ trả lại cho chị H1 ½ số tiền đặt cọc tương đương 37.500.000
đồng là phù hợp.
[4] Trên thực tế, hai bên đã chấm dứt hợp đồng thuê quyền sử dụng đất
tài sản gắn liền với đất từ ngày 02/01/2024 ông H, bà P đã nhận lại toàn bộ tài
sản thuê nên Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết về việc giao trả tài sản thuê.
[5] Về án phí dân sự thẩm: trong quá trình giải quyết vụ án tại phiên
tòa thẩm nguyên đơn bị đơn đều thống nhất chấm dứt hợp đồng thuê quyền
sử dụng đất tài sản gắn liền với đất nên mỗi bên phải chịu ½ án phí dân sự
thẩm không có giá ngạch về việc chấm dứt hợp đồng.
7
Ông H, P phải chịu án phí giá ngạch về việc thanh toán ½ số tiền đặt
cọc cho bđơn. Do ông H, P người cao tuổi đơn xin miễn án phí nên
được miễn án phí dân sự sơ thẩm.
[6] Hội đồng xét xử xét thấy đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị
xã Trảng Bàng là phù hợp nên chấp nhận.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ Điều 472, 475, điều 480, Điều 422 Bộ luật Dân sự năm 2015;
Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
thường vụ Quốc Hội.
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Trần Thị Phi P, ông Trần
Đức H đối với chị Nguyễn Thị Ngọc H1 vviệc tranh chấp hợp đồng thuê quyền
sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất.
1.1. Tuyên chấm dứt hợp đồng thuê quyền sdụng đất tài sản gắn liền với
đất giữa Trần Thị Phi P, ông Trần Đức H chị Nguyễn Thị Ngọc H1 đối với
quyền sử dụng đất diện tích 250m
2
thuộc thửa đất số 98, tờ bản đồ số 07 tọa lạc ấp
P, xã P, huyện G, tỉnh Tây Ninh và tài sản gắn liền với đất là 01 căn ncấp 4 diện
tích 250m
2
được công chứng tại Văn phòng C4 ngày 20/3/2023, số công chứng
1299, quyển số 03/2023 TP/CC-SCC-GD.
1.2. Trần Thị Phi P và ông Trần Đức H nghĩa vụ trả cho chNguyễn
Thị Ngọc H1 số tiền 37.500.000 (Ba mươi bảy triệu năm trăm nghìn) đồng.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với
các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong,
bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án
theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự 2015, trừ
trường hợp pháp luật có quy định khác.
2. Về án phí dân sự sơ thẩm: bà P, ông H được miễn án phí dân sự sơ thẩm.
Chị H1 phải chịu 150.000 (Một trăm năm mươi nghìn) đồng án phí dân sự
sơ thẩm.
3. Về quyền kháng cáo: các đương sự được quyền kháng cáo bản án trong
thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự
thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự quyền thoả
thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng
chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b 9 Luật Thi hành án dân
sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành
án dân sự.
T/M HỘI ĐỒNGXÉT XỬ SƠ THẨM
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà
Nơi nhận:
- TAND tỉnh Tây Ninh;
- VKSND tỉnh Tây Ninh;
- VKSND thị xã Trảng Bàng;
- Chi cục THADS th xã Trảng Bàng;
- Các đương sự;
8
(Đã ký)
Phạm Thị Yến
Tải về
Bản án số 65/2024/DS-ST Bản án số 65/2024/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 65/2024/DS-ST Bản án số 65/2024/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất