Bản án số 57/2021/HS-PT ngày 18/10/2021 của TAND tỉnh Bình Phước về tội đánh bạc
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng tội danh
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án 57/2021/HS-PT Bình Phước
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án 57/2021/HS-PT Bình Phước
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 57/2021/HS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 57/2021/HS-PT ngày 18/10/2021 của TAND tỉnh Bình Phước về tội đánh bạc |
---|---|
Tội danh: | 321.Tội đánh bạc (Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015) |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Bình Phước |
Số hiệu: | 57/2021/HS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 18/10/2021 |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ án: | Nguyễn Văn K phạm tội đánh bạc |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN
TỈNH BÌNH PHƯỚC
Bản án số: 57/2021/HS-PT
Ngày: 18-10-2021
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH PHƯỚC
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Đinh Thị Quý Chi
Các Thẩm phán: Ông Bùi Văn Bình
Bà Nguyễn Thị Nga
- Thư ký phiên tòa: Bà Trịnh Như Quỳnh - Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh
Bình Phước.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Phước tham gia phiên
Tòa: Bà Đàm Thị Vang - Kiểm sát viên.
Ngày 18/10/2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bình Phước xét xử phúc
thẩm vụ án hình sự thụ lý số 77/2021/HSPT ngày 23/8/2021 đối với bị cáo
Nguyễn Văn K.
Do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số
40/2021/HS-ST ngày 15/7/2021 của Tòa án nhân dân thị xã B, tỉnh Bình Phước.
Bị cáo có kháng cáo:
Họ và tên: Nguyễn Văn K, sinh năm 1978, tại Hải Dương; hộ khẩu
thường trú: Tổ 1, khu phố X, phường H, thị xã B, tỉnh Bình Phước; chỗ ở hiện
nay: Tổ 7, ấp C, xã T, huyện Q, tỉnh Bình Phước; nghề nghiệp: Thợ cắt tóc;
trình độ văn hoá (học vấn): 06/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo:
Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Quang Tr (1949) và bà Nguyễn
Thị Th (1953); vợ tên Nguyễn Thị Kim H, sinh năm 1980 (đã ly hôn năm 2019);
bị cáo có 02 con, lớn nhất sinh năm 2000, nhỏ nhất sinh năm 2002; tiền án, tiền
sự: Không. Ngày 16/01/2021, thực hiện hành vi đánh bạc, bị bắt quả tang, bị tạm
giữ từ ngày 16/01/2021 đến ngày 22/01/2021. Ngày 22/01/2021, khởi tố và cấm
đi khỏi nơi cư trú, tạm hoãn xuất cảnh cho đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
2
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung
vụ án được tóm tắt như sau:
Vào lúc 14 giờ 50 phút ngày 16/01/2021, Công an phường A phối hợp với
Đội Cảnh sát Hình sự Công an thị xã B tiến hành kiểm tra hành chính đối với
Phan Thanh S, tạm giữ 01 tờ giấy lịch, mặt sau ghi: 16/1/TP/71x200.dd 100” (ký
hiệu A1). S khai nhận, đây là phơi đề mà một người đàn ông tên K làm nghề cắt
tóc tại khu vực ngã năm gần Trung tâm y tế thị xã B nhận đặt cược ghi cho S các
số đề (bán số đề cho Sơn) dựa trên kết quả xổ số kiến thiết thành phố Hồ Chí
Minh mở thưởng ngày 16/01/2021, gồm:
- Số 71 bao lô 200.000đ/lô x 18 lô thành tiền là 3.600.000đ (ba triệu sáu
trămnghìn đồng);
- Đánh đầu đuôi số 71 với số đầu 100.000đ, số đuôi 100.000đ thành tiền
là 200.000đ (hai trăm nghìn đồng);
Tổng cộng là 3.800.000đ (ba triệu tám trăm nghìn đồng) sau khi trừ
840.000đ (tám trăm bốn mươi nghìn đồng) tiền người nhận ghi đề giảm cho
người ghi đề (gọi là tiền hoa hồng), S đưa cho K 2.960.000đ (hai triệu chín trăm
sáu mươi nghìn đồng) rồi nhận phơi đề.
Cơ quan điều tra kiểm tra tiệm cắt tóc của Nguyễn Văn K tại tổ 03, khu
phố P, phường A, thị xã B phát hiện K vừa bán số đề (nhận ghi số đề) cho
Nguyễn Hải N là người mua số đề nên lập biên bản bắt người phạm tội quả tang
và tạm giữ:
- Trong túi quần bên phải phía trước của Nguyễn Hải N 01 tờ giấy lịch
mặt sau ghi “16/1/TP 77x150 dd 240=2500” (ký hiệu A2). Cả hai thừa nhận đây
là tờ phơi đề dựa trên kết quả xổ số kiến thiết thành phố Hồ Chí Minh mở
thưởng ngày 16/01/2021 do Kghi cho N gồm:
+ Số 77 bao lô 150.000đ/lô x 18 lô thành tiền là 2.700.000đ (hai triệu bảy
trămnghìn đồng);
+ Đánh đầu đuôi số 77 với số đầu 240.000đ, số đuôi 240.000đ thành tiền
là 480.000đ (bốn trăm tám mươi nghìn đồng);
Tổng cộng là 3.180.000đ (ba triệu một trăm tám mươi nghìn đồng) sau
khi trừ 680.000đ (sáu trăm tám mươi nghìn đồng) tiền người nhận ghi đề giảm
cho người ghi đề (gọi là tiền hoa hồng), N đưa cho K 2.500.000đ (hai triệu năm
trăm nghìn đồng) rồi nhận phơi đề.
- 01 tờ giấy lịch (phơi đề) do K viết tại vị trí K đang đứng dựa trên kết
quả xổ số kiến thiết thành phố Hồ Chí Minh mở thưởng ngày 16/01/2021với nội
dung là tổng các số đề đã ghi (ký hiệu A5) gồm:
+ 89x10 dd 30 Phước
+ Công 43, 67, 79,x5 đá 3. 67x200 dd 120=3462
+ 83x5.4 đài =240
3
+ Vân 31, 71 x 3
+ Sơn 40, 50, 60 x 15 đá 5
+ Ưng 46, 68 x 20 đá 10 . 446 x 10 xc10 60 = 1tr 487, 478, 784, 748, 847,
874, 647, 674, 746, 764, 476, 467 x 1
+71 x 200 dd 100
+ Hoàng 09 x 5
+ N 77 x 150 dd 240
- Số tiền 7.176.000đ (bảy triệu một trăm bảy mươi sáu nghìn đồng) trên
người của K.
- 01 điện thoại di động Nokia 1202 loại bàn phím, bên trong có số thuê
bao 0343.537.822của K.
- 02 tờ phơi đề chưa rõ nội dung (ký hiệu A3, A4)
Cơ quan điều tra tiến hành khám xét khẩn cấp nơi làm việc là tiệm cắt tóc
của K tại tổ 03, khu phố P, phường A, thị xã B, tạm giữ 01 điện thoại di động
Samsung Galaxy J4, 05 tờ lịch ghi các chữ số chưa rõ nội dung của K.
Cơ quan điều tra trưng cầu giám định đối với các tờ phơi đề thu giữ được
từ Phan Thanh S, trong túi quần Nguyễn Hải N, tờ phơi đề tổng từ Nguyễn Văn
K và 02 tờ phơi đề thu giữ trong biên bản bắt người phạm tội quả tang với tài
liệu chữ viết, chữ số do K viết ra (ký hiệu M1 - M14).
Tại Kết luận giám định số 12/2021/GĐ-TL ngày 05/3/2021 của Phòng kỹ
thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Phước, kết luận: “Chữ viết, chữ số trên tài liệu
cần giám định ký hiệu A1, A2, A4, A5 so với chữ viết, chữ số của Nguyễn Văn
K trên tài liệu so sánh ký hiệu M1 - M14 do cùng một người viết ra”. Đối với
phơi đề ký hiệu A3, do quá ít dữ liệu nên không giám định được.
Từ kết quả phân tích các phơi đề thu giữ được và kết quả kiểm tra tin
nhắn trong điện thoại đã làm rõ K còn bán số đề cho những người khác dựa trên
kết quả xổ số kiến thiết thành phố Hồ Chí Minh mở thưởng ngày 16/01/2021, cụ
thể:
- Khoảng 09 giờ sáng ngày 16/01/2021, Điểu Ph đến tiệm cắt tóc của
K mua số đề, cụ thể: 89 bao lô 10.000đ/lô x 18 lô thành tiền là 180.000đ
(một trăm tám mươi nghìn đồng); đánh đầu đuôi số 39 mỗi số 30.000đ thành
tiền là 60.000đ (sáu mươi nghìn đồng). Tổng cộng là 240.000đ (hai trăm bốn
mươi ngàn đồng), sau khi trừ 50.000đ (năm mươi nghìn đồng) tiền hoa hồng
thì Ph đưa cho K 190.000đ (một trăm chín mươi nghìn đồng).
- Khoảng 13 giờ ngày 16/01/2021, người phụ nữ tên V (không rõ lai lịch)
đến tiệm cắt tóc của K mua số đề, cụ thể: 31, 71 bao lô mỗi số 3.000đ/lô x 18 lô
thành tiền là 108.000đ (một trăm lẻ tám ngàn đồng), sau khi trừ 24.000đ (hai
mươi bốn nghìn đồng) tiền hoa hồng thì V đưa cho K 84.000đ (tám mươi bốn
nghìn đồng).
4
Ngoài ra, trong ngày 16/01/2021, K bán số đề cho những người khác thông
qua việc K nhận tin nhắn từ những người này nhắn tin đến số điện thoại thuê bao
nhà mạng Viettel 0343.537822 của K, cụ thể như sau:
- Khoảng 13 giờ 30 phút, Nguyễn Ngọc Ư dùng số thuê bao 0949210471
của Ư nhắn tin cho K mua các số đề gồm: 46, 68 bao lô mỗi số 20.000đ/lô x 18
lô thành tiền 720.000đ (bảy trăm hai mươi nghìn đồng); Đá 10.000đ cặp số 46,
68 thành tiền 180.000đ; số 446 bao lô 10.000đ/lô x 17 lô, thành tiền 170.000đ
(một trăm bảy mươi nghìn đồng); đánh xỉu chủ số 446, mỗi số 10.000đ, thành
tiền 20.000đ (hai mươi nghìn đồng). Đánh xỉu chủ các số 487, 478, 784, 847,
874, 647, 674, 746, 764, 476, 467, mỗi số 1.000đ, thành tiền 22.000đ; Tổng
cộng là 1.112.000đ (một triệu một trăm mười hai nghìn đồng), sau khi trừ
230.000đ (hai trăm ba mươi nghìn đồng) tiền hoa hồng, Ư phải trả cho K
882.000đ (tám trăm tám mươi hai nghìn đồng). Khi nhận được tin nhắn, Kđồng
ý bán các số đề này cho Ư và trả lời nhắn tin lại “OK”, đồng thời K ghi các số
này vào phơi đề tổng.
- Khoảng 12 giờ 41 phút, người tên C (không rõ lai lịch) dùng số thuê bao
0982.726984 nhắn tin cho K mua các số đề gồm:43, 67, 79 bao lô mỗi số
5.000đ/lô x 18 lô thành tiền 270.000đ (hai trăm bảy mươi nghìn đồng); đá
3.000đ các cặp số 43, 67, 79 thành tiền 162.000đ (một trăm sáu mươi hai nghìn
đồng); số 67 bao lô 200.000đ/lô x 18 lô, thành tiền 3.600.000đ (ba triệu sáu trăm
nghìn đồng); đánh đầu đuôi số 67, mỗi số 120.000đ, thành tiền là 240.000đ (hai
trăm bốn mươi nghìn đồng). Tổng cộng là 4.272.000đ (bốn triệu hai trăm bảy
mươi hai nghìn đồng), sau khi trừ 936.000đ (chín trăm ba mươi sáu nghìn đồng)
tiền hoa hồng, C phải trả cho K 3.336.000đ (ba triệu ba trăm ba mươi sáu nghìn
đồng). Khi nhận được tin nhắn, K đồng ý bán các số đề này cho C và trả lời
nhắn tin lại “OK”, đồng thời Kghi các số này vào phơi đề tổng.
- Khoảng 13 giờ 26 phút, một người tên S (không rõ lai lịch) dùng số thuê
bao 0918.393914 nhắn tin cho K mua các số đề gồm: 40, 50, 60 bao lô mỗi số
15.000đ/lô x 18 lô thành tiền 810.000đ (tám trăm mười nghìn đồng); đá 5.000đ
các cặp số 40, 50, 60 thành tiền 270.000đ (hai trăm bảy mươi nghìn đồng). Tổng
cộng là 1.080.000đ (một triệu không trăm tám mươi nghìn đồng), sau khi trừ
240.000đ (hai trăm bốn mươi nghìn đồng) tiền hoa hồng, S phải trả cho K
840.000đ (tám trăm bốn mươi nghìn đồng). Khi nhận được tin nhắn, K đồng ý
bán các số đề này cho S và trả lời nhắn tin lại “OK”, đồng thời K ghi các số này
vào phơi đề tổng.
- Người tên H nhắn tin cho K mua số đề 09 bao lô mỗi số 5.000đ/lô x 18
lô thành tiền 90.000đ (chín mươi nghìn đồng), sau khi trừ 20.000đ (hai mươi
nghìn đồng) tiền hoa hồng, H phải trả cho K 70.000đ (bảy mươi nghìn đồng).
Khi nhận được tin nhắn, K đồng ý bán các số đề này cho H và trả lời nhắn tin lại
“OK”, đồng thời K ghi các số này vào phơi đề tổng.
- Một người tên Đ nhắn tin cho K mua số đề 83 bao lô mỗi số 5.000đ/lô x
18 lô thành tiền 90.000đ (chín mươi nghìn đồng), sau khi trừ 20.000đ (hai mươi
nghìn đồng) tiền hoa hồng, Đ phải trả cho K 70.000đ (bảy mươi nghìn đồng).

5
Khi nhận được tin nhắn, K đồng ý bán các số đề này cho Đ và trả lời nhắn tin lại
“OK”, đồng thời K ghi các số này vào phơi đề tổng.
Như vậy, đủ sơ sở chứng minh Nguyễn Văn K ghi số đề cho Phan Thanh
S, Nguyễn Hải N, Điểu Ph, Nguyễn Ngọc Ư, Vân, C, S, H, Đ. Tổng cộng
13.972.000đ (mười ba triệu chín trăm bảy mươi hai ngàn đồng). Trong đó số
tiền K đã bán số đề và nhận tiền trực tiếp của S, N, Ph, V là 7.328.000đ (bảy
triệu ba trăm hai mươi tám ngàn đồng), bán số đề qua tin nhắn điện thoại cho Ư,
C, H, S, Đ nhưng chưa thu tiền là 6.644.000đ (sáu triệu sáu trăm bốn mươi bốn
ngàn đồng).
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 40/2021/HS-ST ngày 15/7/2021 của Tòa
án nhân dân thị xã B, tỉnh Bình Phước đã tuyên xử bị cáo Nguyễn Văn K phạm
tội “Đánh bạc”.
Căn cứ vào khoản 1 Điều 321; Điều 38; Điều 50; điểm i, s khoản 1 Điều
51 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn K 07 (bảy) tháng tù, thời
hạn tù tính từ ngày thi hành án, trừ thời gian tạm giữ từ ngày 16/01/2021 đến
ngày 22/01/2021.
Đề nghị Cơ quan điều tra Công an thị xã B tiếp tục điều tra hành vi của
Phạm Huỳnh T về tội Đánh bạc quy định tại Điều 321 Bộ luật hình sự theo
Quyết định tách vụ án hình sự số 01 ngày 22/5/2021 và Quyết định tạm đình chỉ
điều tra vụ án hình sự số 02 ngày 22/5/2021 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công
an thị xã B.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về vật chứng vụ án, án phí
và quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Ngày 27/7/2021 bị cáo Nguyễn Văn K có đơn kháng cáo xin được hưởng
án treo.
Tại phiên tòa:
- Bị cáo giữ nguyên kháng cáo xin hưởng án treo.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Phước đề nghị Hội đồng xét
xử căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015,
giữ nguyên quyết định của Bản án hình sự sơ thẩm về phần hình phạt đối với bị
cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã
được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Đơn kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn K được thực hiện trong thời hạn
luật định, có hình thức và nội dung phù hợp với quy định tại các Điều 331, 332 và
333 Bộ luật Tố tụng hình sự nên đủ điều kiện giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.
[2] Xét thấy, tại phiên tòa bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của
mình, lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả

6
tang, phù hợp với tài liệu, chứng cứ, vật chứng có trong hồ sơ vụ án về thời
gian, địa điểm và phương thức thực hiện hành vi phạm tội. Do đó, Tòa án cấp sơ
thẩm tuyên bố bị cáo phạm tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321
Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 đồng thời xử phạt bị
cáo Nguyễn Văn K 07 (bảy) tháng tù là phù hợp quy định của pháp luật.
[3] Xét kháng cáo xin hưởng án treo của bị cáo, thấy rằng:
Tòa án cấp sơ thẩm khi lượng hình đã áp dụng cho bị cáo các tình tiết
giảm nhẹ: thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu và thuộc trường
hợp ít nghiêm trọng theo quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự
là có căn cứ. Mức 07 (bảy) tháng tù áp dụng cho bị cáo là nằm trong khung hình
phạt của điều luật. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo cung cấp thêm chứng cứ mới
là giấy xác nhận độc thân, đang phải nuôi 02 con ăn học. Xét, bị cáo chưa có
tiền án, tiền sự, nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng, có khả năng tự cải tạo mà
không cần thiết phải cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội. Để thể hiện tính khoan
hồng của pháp luật cần giữ nguyên mức hình phạt 07 (bảy) tháng tù nhưng cho
bị cáo được hưởng án treo với thời gian thử thách 01 năm 02 tháng là phù hợp.
Do đó, kháng cáo xin hưởng án treo của bị cáo được Hội đồng xét xử
chấp nhận.
[4] Đối với Phạm Huỳnh T: do Cơ quan Điều tra chưa đủ căn cứ chứng
minh tội phạm của T, Tòa sơ thẩm đã đề nghị Cơ quan điều tra Công an thị xã B
tiếp tục điều tra hành vi của T về tội Đánh bạc quy định tại Điều 321 Bộ luật
hình sự theo Quyết định tách vụ án hình sự số 01 ngày 22/5/2021 và Quyết định
tạm đình chỉ điều tra vụ án hình sự số 02 ngày 22/5/2021 của Cơ quan cảnh sát
điều tra Công an thị xã B. Do phần này không có kháng cáo, kháng nghị, có hiệu
lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo khoáng nghị nên Hội đồng xét
xử phúc thẩm không xem xét.
[5] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Phước được
chấp nhận một phần.
[6] Án phí hình sự phúc thẩm: Do kháng cáo của bị cáo được chấp nhận
nên bị cáo không phải chịu.
[7] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng
nghị có hiệu lực thi hành kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
- Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm e khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố
tụng hình sự;
- Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65
của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; Nghị quyết
02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán của Tòa án nhân
dân tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 65 của Bộ luật hình sự về án treo.

7
Chấp nhận kháng cáo xin hưởng án treo của bị cáo Nguyễn Văn K, sửa
Bản án hình sự sơ thẩm số 40/2021/HS-ST ngày 15/7/2021 của Tòa án nhân dân
thị xã B, tỉnh Bình Phước về phần hình phạt đối với bị cáo.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn K 07 (bảy) tháng tù nhưng cho hưởng án
treo; thời gian thử thách 01 (một) năm 02 (hai) tháng tính từ ngày tuyên án phúc
thẩm.
Giao bị cáo Nguyễn Văn K cho Ủy ban nhân dân phường H, thị xã B, tỉnh
Bình Phước giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp bị cáo thay
đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 Luật thi hành án hình
sự. Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ
02 lần trở lên thì thời gian cho hưởng án treo được tính vào thời hạn tù. Trường
hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Toà án có thể quyết định buộc người
được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án
treo.
Án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo không phải chịu.
Các quyết định khác của Bản án hình sự sơ thẩm số 40/2021/HS-ST ngày
15/7/2021 của Tòa án nhân dân thị xã B, tỉnh Bình Phước không có kháng cáo,
kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Bình Phước; (1)
- PV 06 CA tỉnh Bình Phước; (1)
- TAND, VKSND thị xã B;(3)
- Chi cục THADS thị xã B;(1)
- Công an thị xã B;(1)
- Công an phường H, thị xã B;(1)
- Công an huyện H;(1)
- Sở Tư pháp;(1)
- Bị cáo;(1)
- Cổng thông tin điện tử Tòa án;
- Lưu: hồ sơ vụ án (2); Tổ HCTP.(1)
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN-CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Đinh Thị Quý Chi
;
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 10/04/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 10/04/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 03/04/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 26/03/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 26/03/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 22/03/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 22/03/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 14/03/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 23/02/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 21/02/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 18/01/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 11/01/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 10/01/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 22/12/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 20/12/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 19/12/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 14/12/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 30/11/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 29/11/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 21/11/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm