Bản án số 51/2023/HS-ST ngày 20/06/2023 của TAND huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh về tội trộm cắp tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Mục lục
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 51/2023/HS-ST

Tên Bản án: Bản án số 51/2023/HS-ST ngày 20/06/2023 của TAND huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh về tội trộm cắp tài sản
Tội danh: 138.Tội trộm cắp tài sản (Bộ luật hình sự năm 1999)
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Châu Thành (TAND tỉnh Tây Ninh)
Số hiệu: 51/2023/HS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 20/06/2023
Lĩnh vực: Hình sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án:
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 51/2023/HS-ST NGÀY 20/06/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 20 tháng 6 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 42/2023/TLST-HS ngày 22 tháng 5 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 41/2023/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 6 năm 2023, đối với bị cáo:

Nguyễn Minh C, sinh năm 1980, tại Tây Ninh; Nơi đăng ký thường trú: Khu phố H, phường H, thị xã H, tỉnh Tây Ninh; Chỗ ở hiện nay: Ấp T, xã T, huyện C, tỉnh Tây Ninh; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 4/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Ngọc M và bà Nguyễn Thị Bích P (chết); Bị cáo có vợ (đã ly hôn) và 02 con; Tiền án: Tại bản án số: 18/2021/HS-ST ngày 17 tháng 3 năm 2021 của Tòa án nhân dân thị xã Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh đã xử phạt bị cáo 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, bị cáo chấp hành xong hình phạt tù ngày 16/11/2021. Về nhân thân: Ngày 19/01/2004, bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện Hòa Thành (nay là thị xã H), tỉnh Tây Ninh xử phạt 5.000.000 đồng về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”; Ngày 16/6/2006 bị công an xã H, huyện H (nay là phường H, thị xã H) xử phạt 60.000 đồng về hành vi “Gây rối trật tự công cộng, khu dân cư”; Ngày 29/9/2009, bị Chủ tịch UBND tỉnh T áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 23/3/2023, chuyển tạm giam từ ngày 24/3/2023 cho đến nay; Có mặt.

- Bị hại: Nguyễn Ngọc L, sinh năm 1966; Địa chỉ: Ấp T, xã T, huyện C, tỉnh Tây Ninh; Vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Ngô Thanh T, sinh năm 1983. Địa chỉ: Ấp T, xã T, huyện T, tỉnh Tây Ninh; Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 13 giờ 45 phút ngày 20/3/2023, Nguyễn Minh C đang ở nhà em ruột là Nguyễn Thị X, sinh năm 1982, ngụ ấp T, xã T, huyện C, tỉnh Tây Ninh thì nhìn thấy bà Nguyễn Ngọc L, sinh năm 1966, ngụ ấp T, xã T, huyện C, tỉnh Tây Ninh điều khiển xe mô tô nhãn hiệu SYM, loại Atila biển số 70E1-102.xx về dựng trước sân nhà (liền kề với nhà của chị X), không người trông coi, nên nảy sinh ý định lấy trộm. Sau khi thấy bà L đi vào trong nhà khoảng 10 phút, C đi qua lén lút lấy trộm chiếc xe và đẩy bộ đến tiệm sửa xe của anh Tăng Kim T1, sinh năm 1979, ngụ ấp T, xã T, huyện C, tỉnh Tây Ninh để nổ máy nhưng không được. C tiếp tục đẩy xe về hướng khu vực phường A, thành phố T, tỉnh Tây Ninh thì gặp 01 người đi đường (không biết họ tên và địa chỉ) giúp đấu dây điện nên C khởi động được xe và điều khiển xe mô tô trộm được đến khu vực xã T, huyện T, tỉnh Tây Ninh. Tại đây, C đến tiệm S do anh Ngô Thanh T, sinh năm 1983, ngụ ấp T, xã T, huyện T, tỉnh Tây Ninh làm chủ và kêu bán xe. Do không bán được giá cao nên C và anh T thống nhất đổi xe mô tô nhãn hiệu SYM, loại Atila biển số 70E1-102.xx lấy xe mô tô nhãn hiệu FLYAMAHA, biển số 70HA- 013.xx của anh T và anh T trả cho C thêm số tiền 300.000 đồng. Sau khi đã đổi xe và lấy tiền, C điều khiển xe mô tô nhãn hiệu FLYAMAHA, biển số 70HA- 013.xx đi về. Cùng ngày, anh T đã bán lại xe mô tô nhãn hiệu SYM, loại Atila biển số 70E1-102.xx cho anh Nguyễn Văn N, sinh năm 1986, ngụ ấp T, xã T, huyện T, tỉnh Tây Ninh với số tiền 1.500.000 đồng. Đến ngày 22/3/2023, C đến Công an xã T, huyện C, tỉnh Tây Ninh đầu thú và thừa nhận hành vi phạm tội của mình.

Tại Kết luận định giá tài sản số 09/KL-HĐĐG ngày 19/4/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện C kết luận: 01 xe mô tô loại Attila, biển số 70E1-102.xx, số máy VMVUACD003921, số khung RLGKA11CDCD003921, đã qua sử dụng có giá trị 6.000.000 đồng.

Quá trình điều tra, Nguyễn Minh C đến Công an xã T, huyện C, tỉnh Tây Ninh đầu thú và thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình. Bị can Nguyễn Minh C đã bị kết án về hành vi trộm cắp tài sản, chưa được xoá án tích lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội do cố ý, lần phạm tội này bị coi là tái phạm.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại Nguyễn Ngọc L đã nhận lại xe mô tô nên không yêu cầu bồi thường gì thêm. Anh Ngô Thanh T yêu cầu nhận lại xe mô tô nhãn hiệu FLYAMAHA, biển số 70HA-013.xx, không yêu cầu gì thêm. Anh Nguyễn Văn N đã giao nộp xe mô tô nhãn hiệu SYM, loại Atila biển số 70E1- 102.xx cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện C, tỉnh Tây Ninh và không yêu cầu gì thêm.

Kết quả thu giữ và xử lý vật chứng: Cơ quan điều tra đã trả lại cho bà Nguyễn Ngọc L xe mô tô nhãn hiệu SYM, loại Atila biển số 70E1-102.xx và thu giữ 01 xe mô tô nhãn hiệu FLYAMAHA, biển số 70HA-013.xx, số máy VZS139FMB813494, số khung RR6DCB7UMFT813494.

Tại bản cáo trạng số: 43/CT-VKSCT ngày 22 tháng 5 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh truy tố bị cáo Nguyễn Minh C về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng. Do đó, có căn cứ xác định Nguyễn Minh C đã có hành vi lén lút chiếm đoạt xe mô tô nhãn hiệu SYM, loại Atila, biển số 70E1-102.xx, trị giá 6.000.000 đồng của bà Nguyễn Ngọc L. Hành vi của bị cáo đã cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Bị cáo đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích nay lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội do cố ý nên lần phạm tội này thuộc trường hợp tái phạm là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Trong quá trình điều tra, cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo và tự nguyện ra đầu thú là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Do đó, Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Nguyễn Minh C. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Minh C từ 09 tháng đến 18 tháng tù. Về xử lý vật chứng: Đề nghị HĐXX áp dụng Điều 46 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự tuyên trả lại xe mô tô nhãn hiệu FLYAMAHA, biển số 70HA-013.xx cho anh Ngô Thanh T.

Sau khi nghe đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa luận tội, bị cáo đồng ý với tội danh mà Viện kiểm sát đã truy tố, không có tranh luận gì. Nội dung lời nói sau cùng, bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện C, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện C, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tố tụng: Bị hại vắng mặt tại phiên tòa, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Xét thấy người vắng mặt đã có lời khai trong hồ sơ, sự vắng mặt của họ không làm ảnh hưởng đến việc xét xử vụ án, nên HĐXX tiến hành xét xử vắng mặt bị hại theo quy định tại Điều 292 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[3] Về hành vi của bị cáo: Lời khai của bị cáo Nguyễn Minh C tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, lời khai của người làm chứng và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 14 giờ ngày 20/03/2023, bị cáo Nguyễn Minh C đã có hành vi lén lút chiếm đoạt xe mô tô nhãn hiệu SYM, loại Atila, biển số 70E1-102.xx, trị giá 6.000.000 đồng của bà Nguyễn Ngọc L. Hành vi của Nguyễn Minh C đã đủ yếu tố cấu thành tội trộm cắp tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành truy tố bị cáo C về tội danh và điều luật nêu trên là hoàn toàn có căn cứ và đúng pháp luật.

[4] Thông qua diễn biến vụ án và quá trình thẩm vấn công khai tại phiên tòa, cho thấy hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm hại đến quyền sở hữu tài sản của người khác, đồng thời gây mất an ninh, trật tự tại địa phương. Bị cáo từng bị xử phạt tiền về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” và từng bị xử phạt tù về tội “Trộm cắp tài sản”, nhưng không lấy đó làm bài học, không ăn năn, hối cải mà lại tiếp tục thực hiện hành vi trộm cắp tài sản là thể hiện thái độ xem thường pháp luật. Chính vì lẽ đó, cần thiết phải có hình phạt tương xứng, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới đủ tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

[5] Bị cáo có nhân thân xấu. Ngày 17/3/2021, bị Tòa án nhân dân thị xã Hòa Thành kết án 01 năm tù về tội trộm cắp tài sản chưa được xóa án tích nay lại thực hiện hành vi trộm cắp tài sản nên thuộc trường hợp tái phạm là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Bị cáo thành khẩn khai báo và đầu thú là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[6] Bị cáo Nguyễn Minh C không có tài sản, nghề nghiệp ổn định, nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Bà Nguyễn Ngọc L đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì khác nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[8] Về xử lý vật chứng: Xe mô tô nhãn hiệu FLYAMAHA, biển số 70HA-013.xx không phải là vật chứng của vụ án nên căn cứ Điều 46 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, trả lại cho anh Ngô Thanh T.

[9] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Minh C phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH:

1. Căn cứ khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 của Bộ luật Hình sự; Tuyên bố bị cáo Nguyễn Minh C phạm tội “Trộm cắp tài sản”; Xử phạt bị cáo Nguyễn Minh C 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ là 23 tháng 3 năm 2023.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 46 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, trả lại cho anh Ngô Thanh T xe mô tô nhãn hiệu FLYAMAHA, biển số 70HA-013.xx, số máy VZS139FMB813494, số khung RR6DCB7UMFT813494.

3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, buộc bị cáo Nguyễn Minh C phải chịu 200.000 đồng (bằng chữ: Hai trăm nghìn đồng).

Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Đối với bị hại thời hạn kháng cáo 15 ngày, tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Tải về
Bản án số 51/2023/HS-ST Bản án số 51/2023/HS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất