Bản án số 44/2023/HS-ST ngày 25/05/2023 của TAND huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh về tội trộm cắp tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng tội danh
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 44/2023/HS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 44/2023/HS-ST
| Tên Bản án: | Bản án số 44/2023/HS-ST ngày 25/05/2023 của TAND huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh về tội trộm cắp tài sản |
|---|---|
| Tội danh: | 138.Tội trộm cắp tài sản (Bộ luật hình sự năm 1999) |
| Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
| Tòa án xét xử: | TAND huyện Châu Thành (TAND tỉnh Tây Ninh) |
| Số hiệu: | 44/2023/HS-ST |
| Loại văn bản: | Bản án |
| Ngày ban hành: | 25/05/2023 |
| Lĩnh vực: | Hình sự |
| Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Thông tin về vụ án: |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN
NHÂN DÂN
HUYỆN CHÂU THÀNH
TỈNH TÂY NINH
–––––––––––––––
Bản án số: 44/2023/HS-ST
Ngày: 25-5-2023
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
–––––––––––––––––––––––––––––––
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH TỈNH TÂY NINH
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Kim Ngân.
Các Hội thẩm nhân dân:
1. Ông Lâm Văn Be;
2. Ông Phan Văn Hoàng.
- Thư ký phiên tòa: Ông Huỳnh Thanh Hải – Thẩm tra viên, Tòa án nhân dân
huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân
huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh tham
gia phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Huỳnh Như - Kiểm sát viên.
Ngày 25 tháng 5 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh
Tây Ninh xét xử sơ thẩm công khai
vụ án hình sự sơ thẩm
thụ lý số: 37/2023/TLST-
HS ngày 28 tháng 4 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:
37a/2023/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 5 năm 2023 đối với bị cáo:
Trần Văn H, sinh năm 1960, tại: tỉnh Bình Định; nơi đăng ký hộ khẩu thường
trú và chổ ở hiện nay: ấp T, xã H, huyện C, tỉnh Tây Ninh; nghề nghiệp: Bảo vệ; trình
độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không có; quốc tịch: Việt
Nam; con ông Trần T (đã chết) và bà Khổng Thị C (đã chết); vợ là Trương Thị N (đã
ly hôn), con có 02 người, lớn nhất sinh năm 1988, nhỏ nhất sinh năm 1990; tiền án,
tiền sự: không có.
Nhân thân: bị Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh xử phạt 04
tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, theo bản án số 09/HSST ngày 19/5/1997 (đã được
xóa án tích).
Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 20/02/2023 cho đến nay (có mặt).
Bị hại: chị Tạ Thanh T2, sinh năm 1972, cư trú tại: ấp S, xã T, huyện C, tỉnh
Tây Ninh (có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án
được tóm tắt như sau:
2
Khoảng hơn 13 giờ 00 phút ngày 19/02/2023, sau khi bán hải sản tại chợ thành
phố Tây Ninh xong chị Tạ Thanh T2 điều khiển xe mô tô về nhà tại ấp S, xã T, huyện
C, tỉnh Tây Ninh. Khi về đến nhà, chị T2 dựng xe mô tô ở phía trước sân nhà, treo
một túi xách màu đen ở bên trái phần đầu xe, bên trong túi xách có tiền và môt số giấy
tờ cá nhân. Trần Văn H điều khiển xe mô tô loại RSX biển số 70D1-536.41 của H đi
ngang qua nhà chị T2 thấy nhà chị T2 mở cửa nhưng không thấy người nên H quay xe
lại chạy vào nhà chị T2 và gọi “vợ chú H2 ơi” nhưng không nghe ai trả lời. H quan sát
thấy bên trái cổ xe mô tô loại Dream của chị T2 có treo một túi xách màu đen nên nảy
sinh ý định chiếm đoạt tài sản H mở túi xách ra xem thì thấy bên trong có tiền nên lấy
trộm túi xách và điều khiển xe tẩu thoát. Sau khi lấy trộm được túi xách, H điều khiển
xe mô tô loại RSX biển số 70D1-536.41 đến tiệm vàng “Kim Bình 2” thuộc ấp Vịnh,
xã An Cơ, huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh, lấy tiền vừa trộm mua 01 sợi dây
chuyền 03 chỉ vàng 24k, 01 nhẫn 02 chỉ vàng 24k và 01 nhẫn 01 chỉ vàng 24k, với
tổng số tiền là 32.120.000 đồng, trong đó có 200.000 đồng tiền công. H đếm số tiền
còn lại 830.000 đồng dùng vào việc tiêu xài cá nhân. Đến ngày 20/02/2023, H đem số
vàng trên đến gửi cho con ruột là chị Trần Thị C, sinh năm 1988, hiện tạm trú tại ấp
Tân Phước, xã Tân Bình, thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh.
Cùng ngày 20/02/2023, Trần Văn H đến Công an huyện Châu Thành đầu thú,
khai nhận hành vi phạm tội. Sau khi nghe Trần Văn H đến Công an huyện Châu
Thành đầu thú thì chị Trần Thị C đến Công an huyện Châu Thành giao nộp số vàng
mà H gửi cho chị.
Tại Kết luận định giá tài sản số 04/KL-HĐĐG ngày 13/3/2023 của Hội đồng
định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh: 01 nhẫn
vàng, trọng lượng 01 chỉ vàng 24k, tại thời điểm định giá ngày 19/02/2023, có giá
5.350.000 đồng; 01 nhẫn vàng, trọng lượng 02 chỉ vàng 24k, tại thời điểm định giá
ngày 19/02/2023, có giá 10.700.000 đồng; 01 sợi dây chuyền vàng, trọng lượng 03 chỉ
vàng 24k, tại thời điểm định giá ngày 19/02/2023, có giá 16.050.000 đồng. Tổng cộng
32.100.000 đồng.
Về trách nhiệm dân sự: Bị hại chị Tạ Thanh T2 khai nhận đã mất số tiền
khoảng 50.000.000 đồng nhưng không chứng minh được cụ thể số tiền bao nhiêu,
ngày 29/3/2023, chị T2 đã nhận lại số vàng trên và các giấy tờ có liên quan. Đối với
số tiền 18.000.000 đồng chị Trần Thị C là con gái của Trần Văn H đã tự nguyện bồi
thường số tiền trên mà chị T2 yêu cầu. Ngày 30/3/2023, chị Tạ Thanh T2 làm đơn bãi
nại cho Trần Văn H và không yêu cầu bồi thường.
Kết quả thu giữ và xử lý vật chứng: Có Quyết định xử lý vật chứng và bảng thống
kê kèm theo.
Qua xác minh Trần Văn H không có tài sản nên không kê biên.
Tại Bản cáo trạng số: 38/CT-VKSCT ngày 24 tháng 4 năm 2023, Viện kiểm sát
nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh đã truy tố bị cáo Trần Văn H về tội
“Trộm cắp tài sản”, theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

3
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Tây
Ninh đã giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo H về tội danh nêu trên đồng thời đề nghị
Hội đồng xét xử: Căn cứ khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự, điểm s khoản 1, khoản 2
Điều 51; Điều 65 của Bộ luật Hình sự; Nghị Quyết 02/2018/NQ-HĐTP ngày
15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao.
Tuyên bố bị cáo Trần Văn H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Xử phạt bị cáo Trần Văn H từ 06 (sáu) tháng đến 12 (mười hai) tháng tù cho
hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách theo quy định.
Về trách nhiệm dân sự: Bị hại chị Tạ Thanh T2 đã nhận lại tài sản, tiền bồi
thường, không yêu cầu bồi thường thêm nên đề nghị Hội đồng xét xử ghi nhận.
Về vật chứng: Đề nghị Hội đồng tuyên trả lại cho bị cáo H 01 (một) xe mô tô
nhãn hiệu Honda, loại RSX và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia có đặc điểm
theo biên bản giao nhận vật chứng đề ngày 17/5/2023 giữa Cơ quan điều tra Công an
huyện Châu Thành với Chi cục Thi hành án dân sự huyện Châu Thành.
Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Bị cáo Trần Văn H thừa nhận đã thực hiện hành vi đúng như Cáo trạng truy tố,
bị cáo không tranh luận thêm.
Lời nói sau cùng của bị cáo: Đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo mức án nhẹ
nhất.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh
tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Châu
Thành, tỉnh Tây Ninh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh
Tây Ninh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm
quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại
phiên tòa bị cáo; bị hại không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết
định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi,
quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện
đều hợp pháp.
Tại phiên tòa người bị hại có đơn xin xét xử vắng mặt. Xét thấy lời khai của
người bị hại trong quá trình giải quyết vụ án đã rõ, Hội đồng xét xử quyết định xét xử
vắng mặt người bị hại, theo quy định tại Điều 292 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
[2] Tại phiên tòa bị cáo Trần Văn H thừa nhận toàn bộ hành vi như sau: vào
khoảng hơn 13 giờ, tại nhà của chị Tạ Thanh T2, địa chỉ ấp Suối Muồn, xã Thái Bình,
huyện Châu Thành, Tây Ninh, bị cáo H đã có hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của
chị T2 gồm 01 túi xách màu đen bên trong có số tiền 32.950.000 đồng và một số giấy
tờ cá nhân. Hành vi của bị cáo chiếm đoạt tài sản của chị T2 đủ định lượng và các yếu
tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật

4
Hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh
truy tố bị cáo H về tội trộm cắp tài sản quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật
Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật, không oan sai đối với
bị cáo
[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm
phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất trật
tự trị an tại địa phương. Bị cáo làm nghề Bảo vệ nhận thức được hành vi của bị cáo
là vi phạm pháp luật. Nhưng vì động cơ tư lợi muốn có tiền tiêu xài, bị cáo đã cố ý
trực tiếp thực hiện hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của chị T2. Do đó, cần có hình
phạt tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi bị cáo đã
thực hiện, nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung
[4] Khi lượng hình phải xem xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình
sự cho bị cáo.
[4.1] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: không có
[4.2] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: sau khi phạm tội bị cáo đã tự
nguyện đến cơ quan điều tra đầu thú; quá trình điều tra, truy tố, xét xử vị cáo có thái
độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo đã tác động gia đình bồi thường thêm
cho người bị hại số tiền 18.000.000 đồng, người bị hại không yêu cầu bồi thường
thêm và có đơn xin bãi nại cho bị cáo, nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy
định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành đề nghị áp
dụng Điều 65 của Bộ luật Hình sự; Nghị Quyết 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018
của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao xử phạt bị cáo từ 06 (sáu) tháng
đến 12 (mười hai) tháng tù cho hưởng án treo. Xét thấy tài sản bị cáo chiếm đoạt của
chị T2 là số tiền 32.950.000 đồng và một số giấy tờ tùy thân quan trọng, giá trị tài sản
lớn. Bị cáo có nhân thân xấu đã từng bị Tòa án nhân dân huyện Châu Thành xử phạt
04 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, theo bản án số 09/HSST ngày 19/5/1997, sau
khi chấp hành án xong bị cáo không cải tạo bản thân, tu chí làm ăn mà tiếp tục phạm
tội. Do đó không có căn cứ cho bị cáo được hưởng án treo. Cần cách ly bị cáo ra khỏi
đời sống xã hội một thời gian để bị cáo cải tạo tốt bản thân và đảm bảo an ninh trật tự
tại địa phương.
[5] Về biện pháp tư pháp:
[5.1] Về bồi thường thiệt hại:
Bị hại chị Tạ Thanh T2 không yêu cầu bị cáo bồi thường, nên Hội đồng xét xử
ghi nhận.
[5.2] Về xử lý vật chứng:
Vật chứng thu giữ của bị cáo gồm: 01 (một) nhẫn vàng, bên trong có chữ
“KIM BÌNH 2 PHƯỚC VINH”, trọng lượng 01 (một) chỉ (3,75 gram) vàng 24K;
01 (một) nhẫn vàng, bên trong có chữ “KIM BÌNH 2 CHI”, trọng lượng 02 (hai)
chỉ (7,5 gram) vàng 24K; 01 (một) dây chuyền vàng dạng mắc xích, trọng lượng
5
03 (ba) chỉ (11,25 gram) vàng 24K; 01 (một) túi vải màu đen; 01 (một) căn cước
công dân số 072172000514, mang tên Tạ Thanh T2, cấp ngày 05/01/2018; 01
(một) căn cước công dân số 072172000514, mang tên Tạ Thanh T2, cấp ngày
21/6/2021; 01 (một) giấy phép lái xe hạng A1, số 721102002478, mang tên Tạ
Thanh T2; 01 (một) thẻ thanh toán ngân hàng Sacombank, số thẻ
9704030288546770, mang tên Tạ Thanh T2; 01 (một) giấy thẻ bảo hiểm y tế, mã
số GD 4727222654476, mang tên Tạ Thanh T2; 01 (một) giấy đăng ký mô tô, xe
máy, số 0090800, mang biển số 70H2-9495; 01 (một) giấy chứng nhận đăng ký mô
tô, xe máy số 025923, mang biển số 70B1-250.69. Những vật chứng trên bị cáo
dùng tiền trộm cắp của chị T2 để mua được. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an
huyện Châu Thành có quyết định xử lý vật chứng số 19/QĐ-CSĐT ngày 29/3/2023
trả lại cho chị T2 là có căn cứ. Hiện nay chị Tạ Thanh T2 đã nhận đủ các vật chứng
trên.
Ngoài ra còn thu giữ của bị cáo 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, Model:
TA-1174, màu đen, số Imel 1: 357705108741268, số Imel 2: 357705108741276 (đã
qua sử dụng), vật chứng này không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo nên
tuyên trả lại cho bị cáo.
Vật chứng 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu HONDA, loại xe: hai bánh từ 50-175
cm
3
; số loại WAVE RSX FI; dung tích xi lanh 109.1; màu xe: màu đen xanh, biển số
70D1-536.41, số máy: JA38E0354895; số khung: RLHJA3820GY164112, chủ xe
Trần Văn H; tình trạng xe đã qua sử dụng, nguyên chiếc (không bị đục sửa), không
thu giữ được giấy tờ xe. Bị cáo dùng xe để đi đến nhà bị hại thực hiện hành vi phạm
tội trộm cắp tài sản, sau khi trộm cắp tài sản bị cáo dùng xe để tẩu thoát nên cần tuyên
tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước. Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Châu
Thành, tỉnh Tây Ninh đề nghị tuyên trả lại cho bị cáo là không có căn cứ.
Các vật chứng trên hiện đang được lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự
huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh.
[6] Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt chính là phạt tù, bị cáo còn có thể
phải chịu hình phạt bổ sung là phạt tiền được quy định tại khoản 2 Điều 35; khoản
5 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Tuy Nên, Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo không có tài
sản nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[7] Về án phí: Bị cáo Trần Văn H là người cao tuổi và có đơn xin miễn án phí
nên thuộc trường hợp được miễn nộp án phí.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Tuyên bố bị cáo Trần Văn H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
1. Căn cứ khoản 1 Điều 173, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 của
Bộ luật Hình sự.
6
Xử phạt bị cáo Trần Văn H 09 (chín) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù
tính từ ngày 20/02/2023.
2. Về bồi thường thiệt hại: Ghi nhận bị hại chị Tạ Thanh T2 không yêu cầu bị
cáo bồi thường thêm.
3. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 46, Điều 47; Điều 48 Bộ luật hình
sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;
Tuyên trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, Model: TA-
1174, màu đen, số Imel 1: 357705108741268, số Imel 2: 357705108741276 (đã qua
sử dụng);
Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu HONDA,
loại xe: hai bánh từ 50-175 cm
3
; số loại WAVE RSX FI; dung tích xi lanh 109.1; màu
sơn xe: màu đen xanh, biển số 70D1-536.41, số máy: JA38E0354895; số khung:
RLHJA3820GY164112, chủ xe Trần Văn H; tình trạng xe đã qua sử dụng, nguyên
chiếc (không bị đục sửa), không thu giữ được giấy tờ xe.
Các vật chứng trên hiện đang được lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự
huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh.
4. Về án phí: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm d khoản 1
Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường
vụ Quốc hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ
phí Tòa án. Bị cáo Trần Văn H được miễn nộp án phí.
Bị cáo được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị
hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận
được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.
Nơi nhận:
- Phòng KTNV.TAND tỉnh Tây Ninh;
- VKSND tỉnh Tây Ninh.
- VKSND huyện Châu Thành;
- Chi cục THADS huyện Châu Thành;
- Công an huyện Châu Thành;
- Cơ quan THAHS Công an huyện Châu
Thành;
- Bị cáo;
- Bị hại;
- Lưu kho, hồ sơ.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(đã ký)
Nguyễn Thị Kim Ngân
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 28/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 15/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 14/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 14/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 12/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 06/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 05/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 01/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 27/02/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 23/02/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 16/02/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Bản án số 04/2024/HS-PT ngày 05/02/2024 của TAND TP. Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình về tội trộm cắp tài sản
Ban hành: 05/02/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Bản án số 14/2024/HS-ST ngày 05/02/2024 của TAND huyện Hòa Vang, TP. Đà Nẵng về tội trộm cắp tài sản
Ban hành: 05/02/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 01/02/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 31/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 31/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 31/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 31/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 30/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 30/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm