Bản án số 43/2023/HS-ST ngày 29/12/2023 của TAND huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Mục lục
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 43/2023/HS-ST

Tên Bản án: Bản án số 43/2023/HS-ST ngày 29/12/2023 của TAND huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Tội danh: 249.Tội tàng trữ trái phép chất ma túy (Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015)
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Mỹ Lộc (TAND tỉnh Nam Định)
Số hiệu: 43/2023/HS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 29/12/2023
Lĩnh vực: Hình sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án: Bị cáo Bùi Trung Đ, sinh ngày 09 tháng 7 năm 1993 tại thành phố N, tỉnh Nam Định; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỸ LỘC, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 43/2023/HS-ST NGÀY 29/12/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29 tháng 12 năm 2023, tại Tòa án nhân dân huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 39/2023/TLST-HS ngày 29 tháng 11 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 42/2023/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 12 năm 2023, đối với:

Bị cáo Bùi Trung Đ, sinh ngày 09 tháng 7 năm 1993 tại thành phố N, tỉnh Nam Định; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: số nhà A đường T, phường L, thành phố N, tỉnh Nam Định; nơi ở hiện tại: số nhà B ô X, phường H, thành phố N, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: tự do; trình độ văn hóa: 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi Viết M (đã chết) và bà Phùng Thị H; vợ, con: chưa; tiền án, tiền sự: không; nhân thân: Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 282/QĐ-XPHC ngày 31 tháng 10 năm 2020 của Công an thành phố N, tỉnh Nam Định xử phạt tiền 3.500.000 đồng về hành vi cố ý làm hư hỏng tài sản của người khác; Bản án số 366/2020/HSST ngày 22 tháng 12 năm 2020 của Tòa án nhân dân thành phố N, tỉnh Nam Định xử phạt 01 năm tù về tội chống người thi hành công vụ; bị bắt tạm giữ từ ngày 12 tháng 10 năm 2023, chuyển tạm giam ngày 15 tháng 10 năm 2023; có mặt.

- Người chứng kiến:

1. Ông Nguyễn Đức D, vắng mặt.

2. Anh Trần Quang T, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 19 giờ 30 phút ngày 11 tháng 10 năm 2023, khi bị cáo Bùi Trung Đ đang ở nhà thì L ở thành phố N (bị cáo không biết địa chỉ, tên, tuổi cụ thể) gọi điện thoại và rủ bị cáo Đ đến nhà nghỉ Q ở xã M, huyện L, tỉnh Nam Định để sử dụng ma túy đá. Bị cáo đi taxi đến nhà nghỉ Q, gặp L rồi cùng đi lên, vào phòng ở tầng 2, bị cáo không nhớ số phòng. Sau đó, L lấy gói ma túy đá để bị cáo và L cùng sử dụng. Khi đang sử dụng ma túy thì mẹ bị cáo gọi điện bảo về nhà. Bị cáo đi về đồng thời cầm túi ma túy đá còn thừa và cất giấu ở phần giữa dép và lòng bàn chân trái, mục đích là mang về để sử dụng tiếp. Khi bị cáo ra ngoài đường đang đứng trước cổng nhà nghỉ Q để chở taxi, lúc đó là 21 giờ 30 phút, tổ công tác Công an xã Mỹ Tân, huyện Mỹ Lộc làm nhiệm vụ tuần tra kiểm soát tại thôn H, xã M phát hiện bị cáo có biểu hiện nghi vấn tội phạm về ma túy. Tổ công tác tiến hành kiểm tra phát hiện bị cáo đang cất giấu ở phần giữa dép và lòng bàn chân trái một túi ni lông màu trắng, bên trong có chứa các hạt tinh thể dạng cục màu trắng, bị cáo khai nhận đó là ma túy đá bị cáo tàng trữ để sử dụng. Ngoài ra, tổ công tác còn thu giữ của bị cáo một chiếc điện thoại di động đã qua sử dụng, màu xanh tím, nhãn hiệu Vivo. Tổ công tác đã đưa bị cáo và vật chứng về trụ sở Công an xã Mỹ Tân, huyện Mỹ Lộc lập biên bản bắt người phạm tội quả tang niêm phong vật chứng và bàn giao bị cáo cùng hồ sơ vụ án và vật chứng cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mỹ Lộc để điều tra theo thẩm quyền.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mỹ Lộc đã trưng cầu giám định chất ma túy và mẫu nước tiểu thu giữ của bị cáo Đ.

Tại Kết luận giám định số 1533/KL-KTHS ngày 13 tháng 10 năm 2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định, kết luận: Mẫu rắn tinh thể màu trắng trong một gói ni lông màu trắng, trong phong bì thư được niêm phong gửi giám định là ma túy. Loại ma túy: methamphetamine. Tổng khối lượng mẫu: 0,235 gam.

Tại Kết luận giám định số 1534/KL-KTHS ngày 13 tháng 10 năm 2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định, kết luận: Có tìm thấy thành phần chất methamphetamine trong một mẫu nước tiểu.

Đối với người thanh niên tên L đã đưa và cùng sử dụng trái phép chất ma túy với bị cáo ngày 11 tháng 10 năm 2023, do chưa xác định được tên, tuổi, địa chỉ nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mỹ Lộc không có đủ căn cứ để điều tra xử lý.

Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của bị cáo Đ là xâm phạm đến quy định của Nhà nước về quản lý các chất ma túy nên Trưởng Công an huyện Mỹ Lộc đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 12/QĐ-XPHC ngày 20 tháng 10 năm 2023 xử phạt bị cáo bằng hình thức cảnh cáo.

Đối với vật chứng bao gồm một phong bì thư niêm phong số 1533/KL-KTHS ngày 13 tháng 10 năm 2023 và một chai nhựa niêm phong số 1534/KL-KTHS của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định hoàn trả sau giám định, một chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Vivo, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mỹ Lộc chuyển Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định để xử lý.

Bản cáo trạng số 41/CT-VKS-ML ngày 27 tháng 11 năm 2023, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định truy tố bị cáo Đ về tội “tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Đ khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu trên. Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Mỹ Lộc giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo từ 01 năm 09 tháng đến 02 năm tù; về hình phạt bổ sung: không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. Về xử lý vật chứng: căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự để tịch thu tiêu hủy số lượng ma túy, tịch thu nộp ngân sách nhà nước một chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Vivo.

Bị cáo nói lời sau cùng là đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho hưởng mức án nhẹ nhất được sớm trở về với gia đình và xã hội để phụng dưỡng mẹ già ốm đau.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Công an xã Mỹ Tân, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mỹ Lộc, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Mỹ Lộc, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Đ không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Đối với người chứng kiến vắng mặt tại phiên tòa nhưng trong hồ sơ vụ án đã có lời khai của họ, được cơ quan điều tra tiến hành lấy lời khai theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo Đ: Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các chứng cứ đã thu thập trong hồ sơ vụ án như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang, bản kết luận giám định chất ma túy, lời khai của người chứng kiến cũng như toàn bộ lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra. Từ các tình tiết, chứng cứ nêu trên đủ cơ sở kết luận: Vào 21 giờ 30 phút, ngày 11 tháng 10 năm 2023, tại trước cửa nhà nghỉ Q ở thôn H, xã M, huyện L, tỉnh Nam Định, bị cáo Đ đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,235 gam methamphetamine với mục đích để sử dụng thì bị tổ công tác Công an xã Mỹ Tân, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định phát hiện, bắt quả tang. Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự. Như vậy, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Cáo trạng mà Viện Kiểm sát nhân dân huyện Mỹ Lộc truy tố là có căn cứ.

[3] Về tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội: Tệ nạn ma túy là hiểm họa của nhân loại bị xã hội lên án và loại trừ. Việc sử dụng trái phép chất ma túy gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến trật tự, an toàn xã hội. Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là xâm phạm đến khách thể được luật hình sự bảo vệ, đó là sức khỏe, tính mạng của con người trước những tác hại của ma túy và quyền quản lý độc quyền về các chất ma túy của Nhà nước.

[4] Về nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự:

Về nhân thân năm 2020, bị cáo đã bị Công an thành phố N, tỉnh Nam Định xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức phạt tiền về hành vi cố ý làm hư hỏng tài sản của người khác; bị Tòa án nhân dân thành phố N, tỉnh Nam Định xử phạt 01 năm tù về tội chống người thi hành công vụ.

Các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Từ nhận định trên, cần phải áp dụng hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội là cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới đảm bảo tính giáo dục, cải tạo đối với bị cáo và răn đe phòng ngừa chung.

[5] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy, bị cáo Đ là người không có nghề nghiệp ổn định, mục đích tàng trữ ma túy chỉ để nhằm thỏa mãn nhu cầu cá nhân, không có mục đích mua bán kiếm lời nên không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào các điểm a và c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, đối với số lượng ma túy methamphetamine là chất cấm tàng trữ, lưu hành; một chai nhựa không có giá trị cần tịch thu và tiêu hủy; một chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Vivo bị cáo Đ sử dụng liên quan đến tội phạm cần tịch thu nộp ngân sách nhà nước.

[7] Về án phí: Bị cáo Đ phải chịu án phí hình sự sơ thẩm quy định tại khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH:

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

1. Tuyên bố bị cáo Bùi Trung Đ phạm tội “tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Bùi Trung Đ 01 (một) năm 09 (chín) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 12 tháng 10 năm 2023.

Về hình phạt bổ sung: Bị cáo Bùi Trung Đ không bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền.

2. Về xử lý vật chứng:

Căn cứ vào các điểm a và c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Tịch thu và tiêu hủy số lượng ma túy methamphetamine và một chai nhựa;

tịch thu nộp ngân sách nhà nước một chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Vivo đã thu giữ (theo Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 18 tháng 10 năm 2023 giữa Công an huyện Mỹ Lộc và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định).

3. Về án phí:

Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Buộc bị cáo Bùi Trung Đ phải nộp án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (hai trăm nghìn) đồng.

4. Về quyền kháng cáo:

Căn cứ vào Điều 331 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Bị cáo Bùi Trung Đ có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người phải thi hành án có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án quy định tại Điều 7 và Điều 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.

Tải về
Bản án số 43/2023/HS-ST Bản án số 43/2023/HS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất