Bản án số 41/2024/HNGĐ-ST ngày 15/08/2024 của TAND huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn về tranh chấp về cấp dưỡng

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 41/2024/HNGĐ-ST

Tên Bản án: Bản án số 41/2024/HNGĐ-ST ngày 15/08/2024 của TAND huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn về tranh chấp về cấp dưỡng
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp về cấp dưỡng
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Lộc Bình (TAND tỉnh Lạng Sơn)
Số hiệu: 41/2024/HNGĐ-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 15/08/2024
Lĩnh vực: Hôn nhân gia đình
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Nguyễn Thị N. Buộc anh Phạm Hồng H phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung là cháu Phạm Khánh H, sinh ngày 03/9/2006 là 2.000.000 đồng/tháng (hai triệu đồng/tháng). Thời điểm cấp dưỡng tính từ ngày 04/9/2024 cho đến khi cháu Phạm Khánh H hoặc anh Phạm Hồng H chết. Anh Phạm Hồng H không phải chịu lãi suất do chậm thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng.
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN LỘC BÌNH
TỈNH LẠNG SƠN
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập –Tự do – Hạnh phúc
Bản án số: 41/2024/HNGĐ-ST
Ngày 15-8-2024
V/v Ttranh chp u cầu thực hin
nghĩa vcấp dưỡng ni con
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LỘC BÌNH, TỈNH LẠNG SƠN
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Nguyễn Thúy Huyền
Các Hội thẩm nhân dân: Bà Nông Bích Vân và ông Hoàng Văn Vận.
- Thư ký phiên toà:Vy Thị Hằng - Thư ký Tòa án nhân dân huyện
Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn
tham gia phiên toà: Ông Hoàng Chí Dũng - Kiểm sát viên.
Ngày 15 tháng 8 năm 2024, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Lộc Bình,
tỉnh Lạng Sơn xét xử thẩm công khai vụ án Hôn nhân gia đình thụ số:
84/2024/TLST-HNGĐ, ngày 11 tháng 7 năm 2024 về việc "Tranh chấp yêu cầu
thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con" theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:
26/2024/QĐXXST-HNGĐ, ngày 22 tháng 7 năm 2024; Quyết định hoãn phiên
tòa số: 22/2024/QĐST-HNGĐ, ngày 07 tháng 8 năm 2024 Quyết định hoãn
phiên tòa số: 23/2024/QĐST-HNGĐ, ngày 12 tháng 8 năm 2024, giữa các
đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị N, sinh năm 1979; nơi trú: Số 19, Tập
thể N, khu 8, thị trấn N, huyện L, tỉnh Lạng Sơn; vắng mặt.
- Bị đơn: Anh Phạm Hồng H, sinh năm 1981; nơi cư trú tại: Số 9, khu 8 +
10, thị trấn N, huyện L, tỉnh Lạng Sơn; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo nội dung đơn khởi kiện ngày 10/7/2024, lời khai tiếp theo, nguyên
đơn chị Nguyễn Thị N trình bày:
Chị Nguyễn Thị N kết hôn với anh Phạm Hồng H năm 2006, 01 con
chung cháu Phạm Khánh H, sinh ngày 03/9/2006. Chị Nguyễn Thị N anh
Phạm Hồng H đã ly hôn theo Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thoả
thuận của các đương sự số 02/2009/QĐST-HNGĐ, ngày 02/02/2009 của Tòa án
2
nhân dân huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn. Tại quyết định này chị Nguyễn Thị N
được quyền chăm sóc, nuôi dưỡng giáo dục con chung Phạm Khánh H cho đến
khi con đủ 18 tuổi. Anh H nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con 1.000.000
đồng/tháng cho tới khi con đủ 18 tuổi. Tại thời điểm vchồng sinh con, cháu
Phạm Khánh H đã bị khuyết tật trí tuệ, nghe nói, thần kinh, tâm thần không bình
thường (biểu hiện bất thường) khi ly hôn thì cả hai chưa biết chế đđể làm
thủ tục xác nhận cháu bkhuyết tật. Do đó trong Quyết định của Tòa án chỉ giải
quyết anh Phạm Hồng H cấp dưỡng đến khi con đủ 18 tuổi tính đến ngày
03/9/2024 (con đã thành niên). Chị Nguyễn Thị N đã đơn đề nghị chính
quyền địa phương xem xét giải quyết trường hợp của cháu Phạm Khánh H
ngày 12/10/2013 cháu Phạm Khánh H đã được Uỷ ban nhân dân thị trấn N,
huyện L cấp Giấy xác nhận khuyết tật số hiệu 25 LB, dạng khuyết tật: Trí tuệ,
nghe, nói, thần kinh, tâm thần; mức độ khuyết tật: Đặc biệt nặng. Từ thời điểm
chị Nguyễn Thị N chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Phạm Khánh H đến nay cháu
Phạm Khánh H bệnh tật, ốm đau thường xuyên, không có khả năng tự lao động,
không có tài sản để tự nuôi mình, cháu sống phụ thuộc vào mẹ. Hàng tháng cháu
nhận được tiền hỗ trợ của chính quyền địa phương chi trả cho người khuyết tật
đặc biệt nặng, số tiền là 720.000 đồng. Do điều kiện hoàn cảnh gia đình đặc biệt
khó khăn một mình chNguyễn Thị N phải bươn chải lo lắng tất cả công việc
gia đình, chồng thứ hai không công ăn việc làm ổn định, con thứ hai
Nguyễn Hồng S cũng bị bệnh tim bẩm sinh (thuộc đối tượng người khuyết tật
dạng vận động mức độ đặc biệt nặng). Khi chị đi làm thì gia đình vẫn phải phân
công người nhà trông nom chăm sóc 02 con. Vợ chồng chị không thể cáng
đáng nổi để nuôi 02 con. Chị Nguyễn Thị N cần sự htrợ, cấp dưỡng nuôi
con từ phía anh Phạm Hồng H để cả hai cùng nhau chăm sóc, nuôi dưỡng cháu
Phạm Khánh H cho đến khi cháu chết.
Chị Nguyễn Thị N đề nghị Toà án xem xét giải quyết: Yêu cầu anh Phạm
Hồng H nghĩa vụ cấp dưỡng cho con chung là cháu Phạm Khánh H, sinh
ngày 03/9/2006 với mức cấp dưỡng 2.000.000 đồng/tháng (hai triệu
đồng/tháng), thời điểm cấp dưỡng tính từ ngày 04/9/2024 cho đến khi người cấp
dưỡng (anh Phạm Hồng H) hoặc người được cấp dưỡng (con Phạm Khánh H)
chết. Chị Nguyễn Thị N có đơn đề nghị giải quyết, xét xử vắng mặt.
Tại Bản tự khai ngày 19/7/2024 bị đơn anh Phạm Hồng H trình bày: Điều
kiện kết hôn, ly hôn quyền chăm sóc nuôi dưỡng con chung cháu Phạm
Khánh H, sinh ngày 03/9/2006 đúng như chị Nguyễn Thị N đã trình bày. Tại
thời điểm sinh con, cháu Phạm Khánh H vẫn bình thường, được vài năm sau gia
đình mới phát hiện cháu bị ốm suốt sau đó cháu đã bị khuyết tật trí tuệ, nghe
nói, thần kinh, tâm thần không bình thường (biểu hiện bất thường) và khi ly hôn
thì cả hai chưa làm chế độ, thủ tục xác nhận cháu bị khuyết tật. Do đó trong
Quyết định của Tòa án chỉ giải quyết anh cấp dưỡng đến khi con đủ 18 tuổi
đến ngày 03/9/2024 cháu Phạm Khánh H đã đủ 18 tuổi. Năm 2013 cháu Phạm
Khánh H đã được Uỷ ban nhân dân thị trấn N, huyện L cấp Giấy xác nhận
khuyết tật số hiệu 25 LB, dạng khuyết tật: Trí tuệ, nghe, nói, thần kinh, tâm
3
thần; mức độ khuyết tật: Đặc biệt nặng. Anh Phạm Hồng H đã kết hôn với người
vợ thứ hai từ năm 2010 và sinh được 01 con trai, đến năm 2013 vợ chồng anh đã
ly n, anh là người trực tiếp nuôi con thứ hai, trong Quyết định anh đồng ý ly
hôn, nuôi con vợ hai của anh không phải cấp dưỡng. Người vthứ hai của
anh cũng chơi bời, cờ bạc, hiện đang đi cải tạo tại trạm giam Ngọc (thỉnh
thoảng vẫn gọi điện về gặp con).
Đến nay ch Nguyễn Thị N yêu cầu anh nghĩa vụ cấp dưỡng cho con
Phạm Khánh H, sinh ngày 03/9/2006 với mức cấp dưỡng 2.000.000
đồng/tháng (hai triệu đồng/tháng) anh không nhất trí hiện tại anh đang bị
viêm gan B, chỉ định của bác shàng tháng phải uống thuốc (tiền thuốc mỗi
tháng mua 1.500.000 đồng. Về thu nhập của anh một tháng nếu làm đủ công thì
được 5.400.000 đồng (năm triệu bốn trăm nghìn đồng). Về tiền lương hàng
tháng anh có được trả tiền tạm ứng lương đầu tháng là 2.000.000. Tổng thu nhập
của anh 7.400.000 đồng/tháng. Về chi ăn uống cho 02 bố con tiền điện
nước: 4.000.000 đồng, tiền mua thuốc 1.500.000 đồng, tiền cấp dưỡng cho con
1.000.000 đồng. Chưa kể phát sinh chi phí ngoài (đám ma, đám cưới, giỗ, quỹ
khu…). Anh chỉ đồng ý cấp dưỡng cho con trai Phạm Khánh H với số tiền
1.000.000 đồng/tháng, thời điểm cấp dưỡng tính từ ngày 04/9/2024 cho đến khi
người cấp dưỡng (anh Phạm Hồng H) hoặc người được cấp dưỡng (con Phạm
Khánh H) chết.
Toà án đã ban hành Thông báo số 12 ngày 19/7/2024 về thông báo yêu
cầu anh Phạm Hồng H giao nộp tài liệu chứng cứ gồm: Các giấy tờ bệnh án, hoá
đơn chứng từ chứng minh anh Phạm Hồng H đang bị bệnh, đang phải điều trị
hàng tháng phải mua thuốc điều trị với số tiền 1.500.000 đồng/tháng, cung
cấp bản sao quyết định thuận tình ly hôn đối với người vợ thứ hai nhưng anh
không giao nộp tài liệu chứng cứ theo yêu cầu của Toà án.
Tòa án nhân dân huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn đã tiến hành tống đạt
hợp lệ Thông báo phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng
cứ và hòa giải, Quyết định đưa vụ án ra xét xử Quyết định hoãn phiên tòa
nhưng bị đơn anh Phạm Hồng H không tham gia tố tụng.
Văn bản cung cấp tài liệu chứng cứ số 1485/NĐND-TCHC, ngày
17/7/2024 của Công ty N cung cấp: Anh Phạm Hồng H hiện đang công tác tại
Công ty N. Tổng mức lương thu nhập trong 06 tháng đầu năm 2024 của anh
Phạm Hồng H 59.486.000 đồng (đã trừ bảo hiểm phí công đoàn), trung
bình mỗi tháng anh Phạm Hồng H được lĩnh số tiền lương 9.900.000
đồng/tháng.
Tại văn bản số 213/UBND ngày 06/8/2024, Uỷ ban nhân dân thị trấn N
cung cấp như sau: Cháu Phạm Khánh H, sinh ngày 03/9/2006 được Uỷ ban
nhân dân thị trấn N cấp Giấy xác nhận khuyết tật đặc biệt nặng. Cháu được
hưởng chế độ bảo trợ hội hàng với mức trợ cấp 720.000 đồng/tháng. Hiện
cháu không còn đi học, cháu không còn khả năng tự lao động đnuôi sống bản
thân. Về chi phí sinh hoạt thông thường cho một người như cháu Phạm Khánh H
4
3.000.000 đồng/tháng. Hiện cháu Phạm Khánh H đang sinh sống cùng m,
thời điểm lại gửi bà ngoại chăm sóc vì mẹ cháu đi làm không ai chăm sóc.
Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng
Sơn:
Việc chấp hành pháp luật tố tụng: T khi thvụ án trong quá trình
gii quyết vụ án, tại phiên tòa thm, Thẩm phán, Hội đồng t xử, T a
án thực hiện đúng các quy định của pháp lut tố tụng dân sự. Nguyên đơn đã thực
hiện đúng quy định tại các Điều 70, 71 Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn không
thực hiện đúng quy định tại các Điều 70, 72 Bộ luật Tố tụng dân sự. Tại phiên
tòa chị Nguyễn Thị N vắng mặt nhưng đã đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng
mặt. Bị đơn anh Phm Hồng H đã được triệu tập hợp lệ đến phiên toà xét xử lần
thứ hai nhưng vắng mặt không do. Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử
vụ án đúng quy định theo điểm a, b khoản 2 Điều 227, khoản 1, 3 Điều 228,
Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về nội dung vụ án: Chị Nguyễn Thị N kết hôn với anh Phạm Hồng H năm
2006, 01 người con chung cháu Phạm Khánh H, sinh ngày 03/9/2006. Chị
Nguyễn Thị N anh Phạm Hồng H đã ly hôn theo Quyết định công nhận thuận
tình ly n sự thoả thuận của các đương ssố 02/2009/QĐST-HNGĐ, ngày
02/02/2009 của Tòa án nhân dân huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn. Theo quyết
định này chị Nguyễn Thị N được quyền chăm sóc, nuôi dưỡng giáo dục con
chung Phạm Khánh H cho đến khi con đủ 18 tuổi. Anh Phạm Hồng H nghĩa
vụ cấp dưỡng nuôi con 1.000.000 đồng/tháng cho tới khi con đủ 18 tuổi. Tại
thời điểm ly hôn (năm 2009), anh chị chưa làm thủ tục cho cháu để được cấp
Giấy xác nhận khuyết tật. Ngày 12/10/2013 cháu Phạm Khánh H đã được Uỷ
ban nhân dân thị trấn N, huyện L cấp Giấy xác nhận khuyết tật số hiệu 25 LB,
dạng khuyết tật: Trí tuệ, nghe, nói, thần kinh, tâm thần; mức độ khuyết tật: Đặc
biệt nặng. Cháu Phạm Khánh H đã được hưởng chế độ của người khuyết tật,
hiện nay số tiền được lĩnh 720.000 đồng/tháng. Các nội dung nêu trên cả
nguyên đơn và bị đơn đều thừa nhận. Theo Quyết định công nhận thuận nh ly
hôn s thoả thuận của các đương sự thì đến ngày 03/9/2024 cháu Phạm
Khánh H đã đủ 18 tuổi thì anh Phạm Hồng H không phải cấp dưỡng nuôi con
nữa. Tuy nhiên, do cháu Phạm Khánh H bị khuyết tật đặc biệt nặng, không
khả năng lao động, không tài sản để tự nuôi sống bản thân nên chị Nguyễn
Thị N yêu cầu buộc anh Phạm Hồng H phải thực hiện nghĩa cấp dưỡng nuôi con
căn cứ. Xét thấy điều kiện hoàn cảnh của chị Nguyễn Thị N đặc biệt khó
khăn, chị Nguyễn Thị N đã lấy người chồng thứ hai (chồng không công ăn
việc làm ổn định), con thứ hai cháu Nguyễn Hồng S, sinh ngày 09/10/2022
cũng bị bệnh tim bẩm sinh (có Giấy xác nhận khuyết tật dạng vận động mức độ
đặc biệt nặng). Cháu Phạm Khánh H bệnh tật, m đau thường xuyên, không
khả năng tự lao động, không tài sản đtự nuôi mình, cháu sống phụ thuộc
vào mẹ, do vậy cần phải sự hỗ trợ, cấp dưỡng nuôi con từ phía anh Phạm
Hồng H đcả hai cùng nhau chăm c, nuôi dưỡng cháu Phạm Khánh H cho
đến khi cháu chết. Theo văn bản của UBND thị trấn N, huyện L cung cấp thì chi
5
phí trung bình để chăm sóc, nuôi dưỡng một đứa trẻ độ tuổi như cháu Phạm
Khánh H cần 3.000.000đ/tháng. Anh Phạm Hồng H đi làm thu nhập ổn định,
hiện đang công tác tại Công ty N căn cứ Bảng lương (từ tháng 01 đến tháng
06/2024) do Công ty cung cấp thì tổng mức lương thu nhập trong 06 tháng của
anh Phạm Hồng H là 59.486.000 đồng (đã trừ bảo hiểm và phí công đoàn), trung
bình mỗi tháng anh Phạm Hồng H được lĩnh số tiền lương 9.900.000
đồng/tháng. Anh Phạm Hồng H cho biết anh đang bị bệnh viêm gan B, phải điều
trị thuốc với stiền 1.500.000 đồng/tháng, tiền chăm sóc, nuôi dưỡng con trai
thứ hai theo Quyết định ly hôn… tuy nhiên anh Phạm Hồng H không cung cấp
được tài liệu, chứng cứ chứng minh. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các Điều
3, 58, 68, 69, 71, 82, 83, 107, 110, 116, 117, 118 của Luật hôn nhân và gia đình,
chấp nhận yêu cầu của chị Nguyễn Thị N buộc anh Phạm Hồng H nghĩa vụ
cấp dưỡng cho con chung cháu Phạm Khánh H, sinh ngày 03/9/2006
2.000.000 đồng/tháng (hai triệu đồng/tháng), thời điểm cấp dưỡng tính từ ngày
04/9/2024 cho đến khi người cấp dưỡng hoặc người được cấp dưỡng chết, anh
Phạm Hồng H không phải chịu lãi suất do chậm thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng
do chị Nguyễn Thị N không yêu cầu. Về án phí: Giải quyết theo quy định của
pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về thủ tục tố tụng: Nguyên đơn chị Nguyễn Thị N vắng mặt tại phiên
tòa, hồ thể hiện chị đã đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt. Bđơn anh
Phạm Hồng H đã được Toà án nhân n huyện Lộc nh, tỉnh Lạng n triệu tập
hợp lệ đến phiên t t xử lần th hai nhưng vắng mặt không do. n cứ
điểm a, b khoản 2 Điều 227, khoản 1, 3 Điều 228, Điều 238 của Bộ luật Tố tụng
n sự, Hội đồng xét xử quyết định tiến nht xử vụ án theo quy định của pháp
lut.
[2] Về quan hệ pháp luật thẩm quyền giải quyết: Nguyên đơn khởi kiện
yêu cầu bị đơn phải thực hiện việc cấp ỡng nuôi con (do con đã trưởng thành,
không khả năng lao động, không tài sản để tự nuôi mình) vậy quan hệ
pháp luật phải giải quyết "Tranh chấp yêu cầu thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng
nuôi con" quy định tại khoản 5 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn anh Phạm
Hồng H trú tại: Số 9, khu 8 + 10, thị trấn N, huyện L, tỉnh Lạng Sơn. Căn cứ
điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự,
thẩm quyền giải quyết thuộc Tòa án nhân dân huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn.
[3] Xét đối với yêu cầu cấp dưỡng nuôi con của chị Nguyễn Thị N, Hội
đồng xét xử thấy:
[4] ChNguyễn Thị N kết hôn với anh Phạm Hồng H năm 2006, 01
con chung cháu Phạm Khánh H, sinh ngày 03/9/2006. Chị Nguyễn Thị N
anh Phạm Hồng H đã ly hôn theo Quyết định công nhận thuận tình ly hôn sự
thoả thuận của các đương sự số 02/2009/QĐST-HNGĐ, ngày 02/02/2009 của
Tòa án nhân dân huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn. Theo quyết định này chị
Nguyễn Thị N được quyền chăm sóc, nuôi dưỡng giáo dục con chung Phạm
6
Khánh H cho đến khi con đủ 18 tuổi. Anh Phạm Hồng H nghĩa vụ cấp dưỡng
nuôi con 1.000.000 đồng/tháng cho tới khi con đủ 18 tuổi. Tại thời điểm ly hôn
anh chị chưa làm thủ tục cho cháu để được cấp Giấy xác nhận khuyết tật. Đến
ngày 12/10/2013 cháu Phạm Khánh H đã được Uỷ ban nhân dân thị trấn N,
huyện L cấp Giấy xác nhận khuyết tật số hiệu 25 LB, dạng khuyết tật: Trí tuệ,
nghe, nói, thần kinh, tâm thần; mức độ khuyết tật: Đặc biệt nặng. Cháu Phạm
Khánh H đã được hưởng chế độ của người khuyết tật, hiện nay số tiền được lĩnh
là 720.000 đồng/tháng. Các nội dung nêu trên cả nguyên đơn và bị đơn đều thừa
nhận. Do đó các đương sự không phải chứng minh. Theo Quyết định của Tòa án
thì tính đến ngày 03/9/2024 cháu Phạm Khánh H đã đ18 tuổi thì anh Phạm
Hồng H không phải cấp dưỡng nuôi con nữa. Tuy nhiên, do cháu Phạm Khánh
H bị khuyết tật đặc biệt nặng, không kh năng lao động, không tài sản để
tự nuôi sống bản thân nên ngày 10/7/2024 chị Nguyễn Thị N đã đơn khởi
kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc anh Phạm Hồng H phải thực hiện nghĩa cấp
dưỡng nuôi con với số tiền 2.000.000 đồng/tháng, thời điểm cấp dưỡng tính từ
ngày 04/9/2024 (là ngày cháu Phạm Khánh H đã trưởng thành) cho đến khi anh
Phạm Hồng H hoặc cháu Phạm Khánh H chết.
[5] Hội đồng xét xthấy: Xét thấy điều kiện hoàn cảnh của chị Nguyễn
Thị N đặc biệt khó khăn, một mình chị đi làm bươn chải lo toan, gánh vác tất cả
các công việc trong gia đình, ngoài việc chăm sóc nuôi dưỡng con chung là cháu
Phạm Khánh H ra thì chị Nguyễn Thị N đã lấy người chồng thứ hai (chồng
không công ăn việc làm n định), con thứ hai cháu Nguyễn Hồng S, sinh
ngày 09/10/2022 cũng bị bệnh tim bẩm sinh (có Giấy xác nhận khuyết tật dạng
vận động mức độ đặc biệt nặng). Cháu Phạm Khánh H bệnh tật, ốm đau thường
xuyên, không khả năng tlao động, không tài sản để tự nuôi mình, cháu
sống phụ thuộc vào mẹ. Khi chị đi làm thì gia đình vẫn phải phân công người
nhà trông nom chăm sóc 02 con. Do vậy cần phải shỗ trợ, cấp dưỡng
nuôi con tphía anh Phạm Hồng H để cả hai cùng nhau chăm sóc, nuôi dưỡng
cháu Phạm Khánh H cho đến khi cháu chết. Chị Nguyễn Thị N yêu cầu mức cấp
dưỡng là 2.000.000 đồng/tháng (hai triệu đồng/tháng), thời điểm cấp dưỡng tính
từ ngày 04/9/2024 cho đến khi người cấp dưỡng (anh Phạm Hồng H) hoặc người
được cấp dưỡng (con Phạm Khánh H) chết. Theo văn bản của UBND thị trấn N,
huyện L cung cấp thì chi phí trung bình để chăm sóc, nuôi dưỡng một đứa trẻ độ
tuổi như cháu Phạm Khánh H cần 3.000.000đ/tháng, ngoài ra chưa tính đến
khoản tiền thuê người trông cháu Phạm Khánh H, bởi khi chị Nguyễn Thị N
được nghỉ làm thì chị vẫn phải nhà trông con Phạm Khánh H, khi chị đi m
thì phải đưa cháu sang nhờ bà ngoại trông giúp. Theo Nghị quyết số
01/2024/NQ-HĐTP ngày 16/5/2024 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân
tối cao quy định:”…mức cấp dưỡng do Toà án quyết định nhưng không thấp
hơn một nửa tháng lương tối thiểu vùng tại nơi người cấp dưỡng đang trú”
và theo Nghị định 38/2022/NĐ-CP ngày 12/6/2022 của Chính phủ quy định mức
lương tối thiểu đối với người lao động làm việc theo hợp đồng lao động
3.250.000 đồng/tháng: 2 = 1.625.000 đồng/tháng (cao hơn mức anh Phạm Hồng
H chỉ chấp nhận 1.000.000 đồng/tháng). Anh Phạm Hồng H đi làm thu nhập
7
ổn định, hiện đang công tác tại Công ty N căn cứ Bảng lương (từ tháng 01
đến tháng 06/2024) do Công ty cung cấp thì tổng mức lương thu nhập trong 06
tháng của anh Phạm Hồng H 59.486.000 đồng (đã trừ bảo hiểm phí công
đoàn), trung bình mỗi tháng anh Phạm Hồng H được lĩnh số tiền lương
9.900.000 đồng/tháng. Anh Phạm Hồng H khai về mức lương thu nhập thấp hơn
mức lương do Công ty đã cung cấp là không phù hợp. Ngoài ra anh Phạm Hồng
H cho biết anh đang bị bệnh viêm gan B, phải điều trị thuốc với số tiền
1.500.000 đồng/tháng, tiền chăm c, nuôi dưỡng con trai thứ hai theo Quyết
định ly hôn… Toà án đã yêu cầu anh Phạm Hồng H cung cấp tài liệu chứng cứ
để chứng minh cho yêu cầu của mình là căn cứ nhưng anh Phạm Hồng H
không cung cấp được nên không căn cứ xem xét theo yêu cầu của anh Phạm
Hồng H. Chị Nguyễn Thị N yêu cầu cấp dưỡng nuôi con Phạm Khánh H với số
tiền 2.000.000 đồng/tháng, thấy số tiền lương thu nhập của anh Phạm Hồng
H, trừ đi số tiền cấp dưỡng nuôi con 2.000.000 đồng/tháng thì số tiền thu nhập
còn lại vẫn đảm bảo đchi phí cho nhân anh, gia đình, con cái các khoản
chi phí khác. Như vậy yêu cầu của chị Nguyễn Thị N căn cứ phù hợp với
các quy định của pháp luật, được Hội đồng xét xử chấp nhận thời điểm cấp
dưỡng nuôi con con Phạm Khánh H được tính từ ngày 04/9/2024 cho đến khi
anh Phạm Hồng H hoặc cháu Phạm Khánh H chết. Ngoài ra chị Nguyễn Thị N
không yêu cầu anh Phạm Hồng H phải chịu lãi suất do chậm thực hiện nghĩa vụ
cấp dưỡng nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[6] Về án phí: Bị đơn anh Phạm Hồng H phải chịu 300.000 đồng tiền án
phí cấp dưỡng theo quy định tại khoản 1 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm
a khoản 1 Điều 24, khoản 2 Điều 26 , điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH 14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 Uỷ ban Thường vụ Quốc
hội khoá 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản sử dụng án
phí và lệ phí Toà án.
[7] Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lộc Bình là
căn cứ, phù hợp với quy định của pháp luật nên được chấp nhận.
[8] Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng o bản án theo quy
định tại Điều 271, Điều 273 của Bluật Ttụng dân sự.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ các Điều 3, 58, 68, 69, 71, 82, 83, 107, 110, 116, 117, 118 của
Luật hôn nhân và gia đình;
Căn cứ vào khoản 5 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1
Điều 39, khoản 1 Điều 147, điểm a, b khoản 2 Điều 227, khoản 1, 3 Điều 228,
Điều 238, Điều 271, khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 24, khoản 2 Điều 26 , điểm a khoản 6 Điều
27 Nghị quyết s326/2016/UBTVQH 14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 Uban
8
Thường vụ Quốc hội khoá 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý
và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Nguyễn Thị N. Buộc
anh Phạm Hồng H phải nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung cháu Phạm
Khánh H, sinh ngày 03/9/2006 2.000.000 đồng/tháng (hai triệu đồng/tháng).
Thời điểm cấp dưỡng tính tngày 04/9/2024 cho đến khi cháu Phạm Khánh H
hoặc anh Phạm Hồng H chết. Anh Phạm Hồng H không phải chịu lãi suất do
chậm thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng.
2. Về án phí: Anh Phạm Hồng H phải chịu 300.000 đồng tiền án phí cấp
dưỡng để nộp ngân sách Nhà nước.
3. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bđơn vắng mặt tại phiên toà
quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án
hoặc ngày bản án được niêm yết.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành
án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự
quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án
hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành
án dân sự; thời hiệu yêu cầu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại
Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Nơi nhận:
- TAND tỉnh Lạng Sơn;
- VKSND tỉnh Lạng Sơn;
- VKSND huyện Lộc Bình;
- Chi cục THADS huyện L;
- Các đương sự;
- Lưu: Hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(đã )
Nguyễn Thúy Huyền
Tải về
Bản án số 41/2024/HNGĐ-ST Bản án số 41/2024/HNGĐ-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 41/2024/HNGĐ-ST Bản án số 41/2024/HNGĐ-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất