Bản án số 40/2023/HS-ST ngày 04/08/2023 của TAND huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp về tội cướp tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 40/2023/HS-ST

Tên Bản án: Bản án số 40/2023/HS-ST ngày 04/08/2023 của TAND huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp về tội cướp tài sản
Tội danh: 133.Tội cướp tài sản (Bộ luật hình sự năm 1999)
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Tháp Mười (TAND tỉnh Đồng Tháp)
Số hiệu: 40/2023/HS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 04/08/2023
Lĩnh vực: Hình sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án:
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN THÁP MƯỜI
TỈNH ĐỒNG THÁP
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 40/2023/HS-ST
Ngày: 04 - 8 - 2023
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THÁP MƯỜI, TỈNH ĐỒNG THÁP
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Lê Văn Ngọc.
Các Hội thẩm nhân dân: Bà Nguyễn Thị Hồng N2, Bí thư xã Đoàn.
Ông Lê Văn Vững, Cán bộ hưu trí.
- Thư ký phiên tòa: Ông Hồ Tấn Đạt - Thư ký Tòa án.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp
tham gia phiên tòa: Ông Nguyễn Hữu Hậu - Kiểm sát viên.
Ông Nguyễn Tiến Sang- Kiểm sát viên.
Ngày 04 tháng 8 N1 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tháp ời,
tỉnh Đồng Tháp mở phiên a xét xử thẩm công khai trực tiếp vụ án hình s
sơ thẩm thụ lý số: 28/2023/TLST-HS ngày 10 tháng 6 N1 2023, theo Quyết định
đưa vụ án ra xét xử số: 34/2023/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 7 N1 2023, đối với
các bị cáo:
1/ Họ tên: Trần N T, sinh ngày 22/12/2006, tại tỉnh Đồng Tháp; giới
tính: Nam; nơi trú: ấp 4, xã A, huyện B, tỉnh Đồng Tháp; nghề nghiệp: m
thuê; trình độ học vấn: 06/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo:
Không; con ông Trần Văn N, sinh N1: 1984 (sống) Bùi Thị Mỹ L, sinh
N1: 1971 (sống); Gia đình 02 anh em, bị cáo con lớn trong gia đình; vợ,
con: chưa ; tiền án, tiền sự: Không; tạm giữ: ngày 09/01/2023, tạm giam:
Ngày 12/01/2023. Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Tháp
Mười và có mặt tại phiên tòa.
2/ Họ tên: Huỳnh Văn T, sinh ngày: 25/5/2005, tại tỉnh Đồng Tháp;
giới tính: Nam; nơi trú: p 3, A, huyện B, tỉnh Đồng Tháp; nghề nghiệp:
2
Làm thuê; trình độ học vấn: 04/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo:
Không; con ông Huỳnh Văn H, N1 sinh: 1980 (chết) Huỳnh Thị T1, sinh
N1: 1981 (chết); Gia đình 02 anh em, bị cáo con lớn trong gia đình; vợ,
con: Chưa ; Tiền sự, tiền án: Không; tạm giữ: Ngày 09/01/2023, tạm giam:
Ngày 12/01/2023; Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Tp
Mười và có mặt tại phiên tòa.
3/ Họ tên: Huỳnh Văn Đức T3, sinh ngày: 07/6/2006, tại tỉnh Đồng
Tháp; giới tính: Nam; nơi trú: Ấp Bình Linh, Bình Thạnh, huyện B, tỉnh
Đồng Tháp; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: 08/12; quốc tịch: Việt
Nam; dân tộc: kinh; tôn giáo: không; con ông Nguyễn N1, sinh N1: 1970
(sống) và Nguyễn Thị N2, sinh N1: 1969 (sống); Gia đình 04 chị em, bị
cáo con út trong gia đình; vợ, con: Chưa có; Tiền sự, tiền án: không; tạm giữ:
ngày 09/01/2023, tạm giam: Ngày 12/01/2023; Hiện đang bị tạm giam ti Nhà
tm gi Công an huyn Tháp i có mt tại phiên tòa.
4/ Họ và tên: Trần Huỳnh T, sinh ngày: 11/5/2006, tại tỉnh Đồng Tháp;
giới tính: Nam; nơi trú: ấp 4, A, huyện B, tỉnh Đồng Tháp; nghề nghiệp:
Làm thuê; trình độ học vấn: 05/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: kinh; tôn giáo:
không; con ông Trần Văn T4, sinh N1: 1967 (sống) và bà Huỳnh Ngọc T5, sinh
N1: 1970 (sống); Gia đình 02 anh em, bị cáo con lớn trong gia đình; vợ,
con: Chưa có; Tiền sự, tiền án: không; tạm giữ: Ngày 09/01/2023, tạm giam:
Ngày 12/01/2023; Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Tp
Mười và có mặt tại phiên tòa.
- Người đại diện theo pháp luật của bị cáo Trần N T bà i Thị Mỹ L,
sinh N1 1971. Nơi trú: p 4, A, huyện B, tỉnh Đồng Tháp. (có mặt tại
phiên tòa).
- Người đại diện theo pháp luật của bị cáo Huỳnh Văn T ông Nguyễn
Hữu Tâm, sinh N1 1961. Nơi trú: Ấp 3, xã A, huyện B, tỉnh Đồng Tháp. (có
mặt tại phiên tòa).
- Người đại diện theo pháp luật của bị cáo Nguyễn Văn Đức T3 ông
Nguyễn Bé N1, sinh N1 1970. Nơi trú: Ấp Bình Linh, Bình Thạnh, huyện
B, tỉnh Đồng Tháp. (có mặt tại phiên tòa).
- Người đại diện theo pháp luật của bị cáo Trần Huỳnh T ông Trần Văn
T4, sinh N1 1967. Nơi trú: Ấp 4, A, huyện B, tỉnh Đồng Tháp. (có mặt tại
phiên tòa).
3
Người bào chữa cho bị cáo Trần N T, bị cáo Huỳnh Văn T, bị cáo Nguyễn
Văn Đức T3 và bị cáo Trần Huỳnh T là Luật sư Ngô Thị Thanh - Luật sư ký hợp
đồng thực hiện trợ giúp pháp của Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh
Đồng Tháp. (có mặt tại phiên tòa).
- Bị hại: Nguyễn Văn G, sinh N1 1988 (có mặt)
Nơi cư trú: Ấp Mỹ T, xã Phú Điền, huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp.
Nguyễn Thị M, sinh N1 1981 (có đơn xét xử vắng mặt)
Nơi cư trú: Ấp 2, xã Láng Biển, huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
Nguyễn Thị Cẩm T, sinh N1 1994 (có mặt)
i trú:p nh Linh, xã Bình Thạnh, huyện B, tỉnh Đồng Tháp.
* Người làm chứng:
Trương Quang T6, sinh N1 1979 (vắng mặt)
Nơi cư trú: Ấp 2, xã Láng Biển, huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp.
Đặng Thanh T7, sinh N1 1982 (vắng mặt)
Nơi cư trú: Ấp 4, xã Láng Biển, huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp.
Trần Hồng T8, sinh N1 1979 (vắng mặt)
i trú: Ấp 1, Mỹ Hiệp, huyện B, tỉnh Đồng Tháp.
Châu Gia K, sinh N1 1993 (vắng mặt)
Nơi cư trú: Ấp 2, xã Mỹ Thọ, huyện B, tỉnh Đồng Tháp
Nguyễn Hữu T9, sinh N1 1995 (vắng mặt)
Nơi trú: 246A, ấp Vĩnh Hòa, T Ngãi, thành phố Vĩnh Long, tỉnh
Vĩnh Long.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các T3 liệu có trong hồ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung
vụ án được tóm tắt như sau:
Các bị cáo Trần N T (sinh ngày 22/12/2006, i trú ấp 4, A, huyện
B, tỉnh Đồng Tháp), Nguyễn Văn Đức T3 (sinh ngày 07/6/2006, nơi trú ấp
Bình Linh, Bình Thạnh, huyện B, tỉnh Đồng Tháp), Huỳnh Văn T (sinh ngày
25/5/2005, nơi trú ấp 3, A, huyện B, tỉnh Đồng Tháp) Trần Huỳnh T
(sinh ngày 11/5/2006, nơi trú ấp 4, A, huyện B, tỉnh Đồng Tháp) là bạn
quen biết ngoài xã hội với nhau; riêng T Huỳnh T còn mối quan hệ họ
4
hàng (T gọi Huỳnh T bằng chú). Do thiếu sự quan tâm, giáo dục từ phía gia đình
nên các bị cáo đều đã nghỉ học, tH xuyên tụ tập chơi bời lêu lổng. Để tiền
tiêu xài cá nhân, các bị cáo thực hiện 02 vụ cướp T3 sản. Hành vi của các bị cáo
được thực hiện như sau:
*Vụ thứ nhất: sự tham gia của Trần N T, Nguyễn Văn Đức T3, Huỳnh
Văn T:
Vào khoảng 21 giờ ngày 03/01/2023, Trần N T Nguyễn Văn Đức T3
uống rượu tại một quán gần Ủy ban nhân dân Bình Thạnh (thuộc ấp Bình
Linh, Bình Thạnh, huyện B, tỉnh Đồng Tháp). Trong lúc uống rượu, T rủ T3
đi trộm cắp T3 sản thì T3 đồng ý đi. Đến khoảng 23 giờ cùng ngày, cả hai nghỉ
uống rượu. T điều khiển xe tô biển số 66F1- 479.50 chở T3 đến ntrọ của
Huỳnh Văn T thuê gần chợ đầu mối trái cây thuộc xã Mỹ Hiệp, huyện B rủ T
cùng đi trộm cắp T3 sản tT đồng ý. T điều khiển xe chở T3 và T đi trên tuyến
quốc lộ 30 hướng về khu du lịch Xẻo Quýt thuộc ấp 4, xã Mỹ Hiệp, huyện B,
tỉnh Đồng Tháp. Khi đi được một đoạn thì T nói đi ăn trộm không tiền nhiều
rủ T3, T tìm chặn người đi đường để cướp T3 sản thì T3 T đồng ý. T điều
khiển xe về nhà của T ấp 4, xã A, huyện B rồi kêu T3 vào nhà lấy một con dao
dài khoảng 25cm, cán bằng nhựa màu xanh dương, lưỡi bằng kim loại, mũi
dao nhọn mục đích dùng làm hung khí đe dọa cướp T3 sản. Xong T điều khiển
xe biển số 66F1- 479.50 chở T ngồi giữa, T3 ngồi sau cầm con dao đi
hướng từ xã A, huyện B đến ấp Mỹ Thạnh, Thanh Mỹ, huyện Tháp Mười,
mục đích để tìm người đi đường chặn cướp T3 sản.
Đến khoảng 02 giờ ngày 04/01/2023, khi các bị cáo đang điều khiển xe
đến tuyến lộ nhựa nông thôn thuộc tổ 2, ấp Mỹ Thạnh, Thanh Mỹ thì T nhìn
thấy anh Nguyễn n G một nh điều khiển xe chạy phía trước, trên xe
chở nhiều can nhựa đựng cá. T điều khiển xe đuổi theo, chạy vượt lên ép
chặn đầu xe của anh G lại. Bị xe của T chặn đầu, anh G dừng xe lạingồi trên
xe. T3 xuống xe đi đến đứng cặp bên trái sau lưng anh G, cầm dao bằng tay phải
kề vào vùng bụng đe dọa kêu anh G “đưa tiền”. T đứng phía trước cặp bên
tay trái của anh G tiếp tục đe dọa hỏi “tiền đâu”. Lo sợ bị T3 đâm, anh G tháo Ti
bên trong tiền một bóp đựng tiền cùng các loại giấy tờ y thân đang đeo
trước bụng ra cầm trên tay, chưa kịp đưa thì bị T giật lấy. T3, T lên xe để T điều
khiển chở đi; vừa đi T vừa đe dọa “tui tha cho ông lần này” nhằm mục đích cho
anh G sợ không đuổi theo. Khi đến đoạn đường gần cầu thu phí Thanh Mỹ
(thuộc ấp Mỹ Thạnh, xã Thanh Mỹ), T3 ném bcon dao. T lấy hết tiền trong Ti
trong bóp ra m bỏ các T3 sản, giấy tờ còn lại bên đường. T điều khiển
5
xe chở T3 T về phòng trọ của T thuê. T,T T3 cùng kiểm đếm số tiền cướp
được là 22.000.000 đồng, xong đưa cho T cất giữ rồi cả ba ngủ tại phòng trọ của
T. Đến khoảng 03 giờ ngày 04/01/2023 anh G trình báo sự việc đến Công an
Thanh Mỹ, huyện Tháp Mười.
Đến khoảng 08 giờ ngày 04/01/2023 T, TT3 đến cửa hàng mua bán xe
máy của anh Trần Hồng T8 ấp 1, Mỹ Hiệp, huyện B, sử dụng số tiền
9.000.000 đồng trong tổng số 22.000.000 đồng cướp được mua một xe
loại Sirius màu đen-trắng, biển số 66F2- 042.15 cho T sử dụng. Sau đó, cả ba
tiếp tục đến cửa hàng mua bán xe của anh Châu Gia K ở ấp 2, xã Mỹ Thọ, huyện
B sử dụng số tiền 8.000.000 đồng trong số tiền cướp được còn lại mua một chiếc
xe loại Sirius màu đen-bạc, biển số 54P7- 4211 cho T sử dụng. Tiếp đến
cả ba đem hai xe này đi sửa các bộ phận hỏng hết 1.600.000 đồng. S
tiền 3.400.000 đồng còn lại T cất giữ. Đến sáng ngày 08/01/2023, T lấy
3.600.000 đồng tiền nhân của T số tiền 3.400.000 đồng cướp được còn
lại cùng với T3 và T đến cửa ng mua bán xe của anh Nguyễn Hữu Tuấn p
Vĩnh Hòa, T Ngãi, thành phố Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long mua chiếc xe gắn
máy nhãn hiệu Espero, màu xanh-đen biển số 95EA- 044.77 giá 7.000.000 đồng
cho T3 sử dụng.
Đối với Ti đeo, bóp da cùng các giấy tờ tùy thân các bị cáo ném bỏ
trên đường bỏ chạy, anh Nguyễn Văn G sau đó tự tìm lại được.
* Vụ thứ hai: sự tham gia của Trần N T, Nguyễn Văn Đức T3, Huỳnh
Văn T và Trần Huỳnh T:
Khoảng 20 giờ 30 phút ngày 08/01/2023 Trần N T, Nguyễn Văn Đức T3
Trần Huỳnh T chơi đánh bi da A, huyện B. Lúc này, T rủ T3 tiếp tục đi
tìm người đi đường đchặn cướp T3 sản thì T3 đồng ý. Do trước đó, Huỳnh T
nghe T3 kể về việc mua xe từ tiền cướp được, nên khi nghe T rủ T3 đi cướp
T3 sản thì Huỳnh T chủ động xin đi theo với mong muốn cướp được tiền để mua
xe sử dụng như các bị can khác. T3 điều khiển xe gắn máy biển s 95EA-
044.77 chở Huỳnh T, T điều khiển xe biển số 54P7- 4211 đến nhà trọ của
Huỳnh Văn T chở T cùng đi. Cả nhóm điều khiển xe về đến gần nhà của T thì
dừng xe lại. T3 một mình điều khiển xe về nhà T lấy một con dao dài khoảng
20cm, cán bằng gỗ, lưỡi bằng kim loại, mũi nhọn trong ba của T3 đã gửi
tại nhà T trước đó rồi quay lại nơi T, Huỳnh T, T đang đợi. T3 đưa dao cho T
cầm mục đích sử dụng để đe dọa cướp T3 sản của người đi đường.
T3 điều khiển xe gắn máy biển số 95EA- 044.77 chở Huỳnh T, T điều
khiển xe mô tô biển số 54P7- 4211 chở T đi trên tuyến tỉnh lộ ĐT 850 hướng về
6
Láng Biển, huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp. Đến khoảng 22 giờ cùng
ngày, khi cả nhóm đi đến đoạn đường thuộc ấp 2, xã Láng Biển thì phát hiện chị
Trần Thị M một mình điều khiển xe theo hướng ngược lại, anh Trương
Quang T6 là chồng chị M điều khiển xe chạy phía sau. Khi xe của chM
anh T6 vừa đi qua, thì T3 T điều khiển xe quay đầu lại. T kêu T3 chở
Huỳnh T điều khiển xe chạy theo tiếp cận xe của anh T6 giả vờ hỏi đường nhằm
mục đích tách xe của anh T6 và chị M ra xa nhau để T T có thời gian chặn xe
chị M cướp T3 sản. T3 Huỳnh T đồng ý thực hiện. Cùng lúc này, T điều
khiển xe chở T đuổi theo chị M. Khi đến đoạn nhánh rẽ vào đường nông thôn
thuộc ấp 2, Láng Biển thì đuổi kịp, T điều khiển xe chặn đầu xe chị M lại. T
xuống xe đến đứng ngang phía trước bên tay trái của chị M, tay phải T cầm dao
đe dọa yêu cầu chị M “đưa tiền”. Chị M trả lời không tiền thì T dùng tay trái
lục soát trong Ti quần bên phải của chị M lấy 01 điện T1ại di động hiệu OPPO
A12, màu xanh cất vào trong Ti quần. Tiếp tục, T quan sát thấy trên cổ chị M
đeo sợi dây chuyền vàng nên dùng tay trái giật đứt sợi dây chuyền cầm trên tay
rồi lên xe T điều khiển bỏ chạy ngược lại theo hướng đi ban đầu ra đường tỉnh lộ
ĐT 850 thì gặp T3 Huỳnh T. T nói cho cả nhóm biết vừa cướp được điện
T1ại di động sợi dây chuyền vàng. Xong điện T1ại T đưa cho T cất giữ, còn
dây chuyền vàng T cầm trên tay.
Sau đó cả nhóm tiếp tục điều khiển xe về hướng Mỹ Đông, huyện
Tháp Mười để tiếp tục tìm người đi đường cướp T3 sản. Khi đi được một đoạn
thì T dùng bật lửa đốt sợi dây chuyền vàng vừa cướp được, ngi mùi khét,
nghĩ vàng giả nên T ném qua cho Huỳnh T xem làm sợi dây chuyền rơi trên
đường nên các bị cáo bỏ không nhặt lại. Sau đó các bcáo đổi xe cho nhau, T
điều khiển xe chở Huỳnh T, T3 điều khiển xe chở T rồi tiếp tục đi về hướng
Mỹ Đông, huyện Tháp Mười. Trên đường đi, c bo phát hiện người đàn
ông (không họ tên, địa chỉ) điều khiển xe đi chiều ngược lại nên cả
nhóm quay đầu xe đuổi theo nhằm mục đích để cướp T3 sản. Nhưng khi đuổi
kịp, thấy trên xe chở theo trẻ nhỏ nên các bị cáo không thực hiện hành vi
cướp T3 sản tiếp tục điều khiển xe về hướng huyện B. Trên đường đi, T ném
bỏ con dao. Khi đi đến đoạn đường gần khu du lịch Xẻo Quýt thuộc xã A, huyện
B tbị lực lượng Công an tuần tra yêu cầu dừng xe kiểm tra. T3 điều khiển xe
chở T bỏ chạy. T chHuỳnh T bị lực lượng Công an dừng xe kiểm tra cung
cấp được giấy tờ hợp l nên được cho đi. Sau đó T3 đến nhà T ngủ cùng T,
Huỳnh T về nhà của nh, T về nhà trọ của T. Đến khoảng 23 giờ ngày
08/01/2023, chM trình báo sự việc đến Công an xã Láng Biển.
7
Sau khi nhận được tin báo, Công an huyện Tháp Mười kết hợp với các
đơn vị liên quan tiến hành điều tra, truy xét đối tượng trên địa bàn huyện
Tháp Mười các địa bàn lân cận. Qua soát đối tượng, ngày 09/01/2023
quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tháp Mười tiến hành làm việc với T, T3,
T Huỳnh T. Tại quan điều tra, các bị cáo thừa nhận đã thực hin hai vụ
cướp T3 sản u trên giao nộp c T3 sản, vt chứng liên quan.
Tại Kết luận định giá T3 sản số 07/KLĐG ngày 23/3/2023 của Hội đồng
đình giá T3 sản trong tố tụng hình sự huyện Tháp Mười kết luận tại thời điểm bị
chiếm đoạt 01 bóp nam , đã qua sdụng 01 Ti đeo ngang bụng bằng vải
dù, u xanh đen, hình dạng rằn ri, , đã qua sử dụng của anh Nguyễn Văn G
có tổng giá trị là 15.000 đồng.
Tại Kết luận định giá T3 sản số 06/KLĐG ngày 23/3/2023 của Hội đồng
đình giá T3 sản trong tố tụng hình sự huyện Tháp Mười kết luận tại thời điểm bị
chiếm đoạt, điện T1ại di động hiệu Oppo A12, màu xanh trị giá 1.300.000 đồng;
01 dây chuyền vàng 18k, trọng lượng 2,8 chỉ dạng mắt xích vuông tròn, không
mặt dây chuyền trị giá 10.000.000 đồng. Tổng giá trị T3 sản bị chiếm đoạt
của chị Trần Thị M là 11.300.000 đồng.
Về vật chứng, quá trình điều tra Cơ quan điều tra đã tạm giữ:
Của bị cáo Trần N T gồm: 01 xe biển số 54P7-4211 giấy đăng
xe; 01 giấy mua bán xe biển số 54P7-4211; 01 áo khoác màu đen, số 23
phía trước; 01 nón bảo hiểm màu đen; 01 điện T1ại di động hiệu Oppo A12,
màu xanh (là điện T1ại các bị cáo cướp của chị Trần Thị M). Xét không cần
thiết tạm giữ, quan điều tra đã trao trả điện T1ại di động hiệu Oppo A12 cho
chị Trần ThM.
Của bị cáo Nguyễn Văn Đức T3 gồm: 01 điện T1ại di động hiệu Iphone,
màu hồng; 01 xe gắn máy biển số 95EA-044.77 giấy đăng xe; 01 giấy
mua bán xe biển số 95EA-044.77; 01 đôi p quai kẹp, màu đỏ, in dòng chữ
DH; 01 nón lưỡi trai màu đen; 01 áo khoác dài tay, màu đen, áo khoác loại
nón đội đầu. Xét không cần thiết tạm giữ, quan điều tra đã trao trả cho T3
điện T1ại di động hiệu Iphone.
Ngoài ra, quá trình điều tra còn thu giữ xe biển số 66F1-479.50
T3 sdụng làm phương tiện đi ớp T3 sản. Quá trình điều tra xác định xe mô
biển số 66F1-479.50 do chị Nguyễn Thị Cẩm T (chị ruột T3) đứng tên chủ sở
hữu, chị T cho ông Nguyễn N1 (cha ruột chị T) mượn s dụng. Ngày
04/01/2023 T3 tự ý lấy đi sử dụng xe thực hiện hành vi cướp T3 sản ông N1
không biết.
8
Của bị cáo Trần Huỳnh T gồm: 01 áo sơ mi dài tay màu xám; 01 quần sọt
jean màu xanh; 01 điện T1ại di động hiệu Samsung màu vàng, bị nứt màn hình.
Xét không cần thiết tạm giữ, quan điều tra đã trao trả cho T điện T1ại di
động hiệu Samsung.
Của bị cáo Huỳnh Văn T gồm: 01 điện T1i di động hiệu Oppo màu xanh;
01 xe biển số 66F2-042.15 giấy đăng xe; 01 giấy mua bán xe biển
số 66F2-042.15; 01 đôi dép o màu đỏ; 01 áo thun dài tay, u trắng sọc đen;
01 quần jean màu xanh trắng; 01 áo sơ mi sọc dài tay, màu nâu; 01 quần sọt jean
màu xám rách hai bên ống quần. Xét không cần thiết tạm giữ, quan điều tra
đã trao trả cho T điện T1ại di động hiệu Oppo.
Đối với xe biển số 66F2- 042.15 xe bị cáo Huỳnh Văn T sử
dụng số tiền cướp được của anh G để mua. Hiện tại, ông Huỳnh Hữu Tâm là ông
nội của T cùng các đại diện theo pháp luật của các bị cáo T3, T, Huỳnh T đã bồi
tH khắc phục cho bị hại xong. Xét tuy đây T3 sản bị cáo mua từ số tiền
phạm tội, tuy nhiên số tiền này đã được các đại diện theo pháp luật của các bị
cáo khắc phục xong cho bị hại từ khoản tiền nhân của hn không tịch thu
đối với xe biển số 66F2- 042.15 trao trả lại cho ông Tâm phợp
(hiện Cơ quan điều tra đã trao trả xe này cho ông Tâm).
Đối với 02 con dao mà các bị cáo sử dụng làm hung khí gây án và sợi dây
chuyền vàng cướp được của chị M, các bị cáo khai ném bỏ trên đường, Cơ quan
điều tra đã tổ chức truy tìm nhưng không tìm được.
- Về trách nhiệm dân sự:
Bị hại Nguyễn Văn G yêu cầu các bị cáo Nguyễn Văn Đức T3, Trần N T
Huỳnh n T bồi tH 22.000.000 đồng. Các bị cáo thống nhất và đã tác động
gia đình bồi tH xong.
Bị hại Trần Thị M yêu cầu các bị cáo Nguyễn Văn Đức T3, Trần N T,
Huỳnh Văn T và Trần Huỳnh T bồi tH sợi dây chuyền vàng 18kara, trọng lượng
2,8 chỉ. Các bị cáo thống nhất đã tác động gia đình mua lại sợi dây chuyền
đúng với loại vàng, trọng lượng theo yêu cầu của bị hại và đã bồi tH xong.
Đối với con dao T3 tự ý lấy sử dụng đi cướp T3 sản của anh
Nguyễn Văn G là của bà Bùi Thị Mỹ L, là mẹ ruột bị cáo T. Bà L không yêu cầu
các bị cáo bồi tH đối với con dao này.
Tại bản cáo trạng số: 28/CT-VKSTM ngày 09 tháng 6 N1 2023 của Viện
kiểm sát nhân dân huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp đã quyết định truy tố các
bị cáo Trần N T, Huỳnh Văn T, Nguyễn Văn Đức T3 Trần Huỳnh T ra Tòa
9
án nhân dân huyện Tháp Mười để xét xử về tội “Cướp T3 sản” theo quy định tại
d khoản 2 Điều 168 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa:
- Kiểm sát viên, giữ quyền công tố giữ N2 quyết định truy tố theo Cáo
trạng, khẳng định việc truy tố trên là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Trên sở phân tích tính chất, mức độ nguy hiểm cho hội do hành vi
của các bị cáo đã gây ra, N2 nhân, điều kiện dẫn đến việc thực hiện tội phạm,
nhân thân của bị cáo và quy định của pháp luật, Kiểm sát viên đề ngh:
- Về tội danh: Căn cứ Điều 168 của Bộ luật hình sự N1 2015 đề nghị Hội
đồng xét xử tuyên bố bị cáo Trần N T, Huỳnh Văn T, Nguyễn Văn Đức T3
Trần Huỳnh T phạm tội “Cướp T3 sản”.
- Về hình phạt:
+ Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 168; điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51
điểm g, o khoản 1 Điều 52, Điều 17, Điều 38, Điều 91, khoản 1 Điều 101 của
Bộ luật hình sự, đề nghị xử phạt bị cáo Trần N T hình phạt từ 05 (N1) N1 06
(Sáu) tháng đến 06 (Sáu) N1 tù.
+ Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 168; điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51, điểm
g khoản 1 Điều 52, khoản 1 Điều 54, Điều 17, Điều 38, Điều 91, khoản 1 Điều
101 của Bộ luật hình sự, đề nghị xử phạt bị cáo Huỳnh Văn T hình phạt từ 04
(Bốn) N1 06 (Sáu) tháng đến 05 (N1) N1 tù.
+ Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 168; điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51, điểm
g khoản 1 Điều 52, khoản 1 Điều 54, Điều 17, Điều 38, Điều 91, khoản 1 Điều
101 của Bộ luật hình s, đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Đức T3 từ 04
(Bốn) N1 đến 04 (Bốn) N1 06 (Sáu) tháng tù.
+ Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 168; điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51, khoản
1 Điều 54, Điều 17, Điều 38, Điều 91, khoản 1 Điều 101 của Bộ luật hình sự, đề
nghị xử phạt bị cáo Trần Huỳnh T từ 03 (Ba) N1 đến 03 (Ba) N1 06 (Sáu) tháng
tù.
- Về trách nhiệm dân sự: Đã giải quyết xong.
- Về xử vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật hình s Điều 106
của Bộ luật Tố tụng hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên xử:
- Trả lại cho chị Nguyễn Thị Cẩm T xe mô tô biển số 66F1-479.50.
- Trả lại cho bị cáo Trần N T 01 áo khoác màu đen, s23 phía trước;
01 nón bảo hiểm màu đen;
10
- Trả lại cho bị cáo Nguyễn Văn Đức T3 01 đôi dép quai kẹp, màu đỏ,
in dòng chữ DH; 01 nón lưỡi trai màu đen; 01 áo khoác dài tay, màu đen, áo
khoác loại có nón đội đầu;
- Trả lại cho bị cáo Huỳnh n T 01 đôi dép lào màu đỏ; 01 áo thun i
tay, màu trắng sọc đen; 01 quần jean màu xanh trắng; 01 áo mi sọc dài tay,
màu nâu; 01 quần sọt jean màu xám rách hai bên ống quần;
- Trả lại cho bị cáo Trần Huỳnh T 01 áo mi dài tay u xám; 01 quần
sọt jean màu xanh.
- Tịch thu n sung vào ngân sách Nhà nước: 01 xe mô biển s54P7-
4211 (kèm theo giấy đăng ký xe; 01 giấy mua bán xe biển số 54P7-4211); 01 xe
gắn máy biển số 95EA-044.77 (kèm theo giấy đăng xe; 01 giấy mua bán xe
biển số 95EA-044.77).
(Vật chứng nêu trên do Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tháp Mười giữ
theo Biên bản giao nhận vật chứng, T3 sản ngày 03/7/2023).
Người bào chữa cho bị cáo Trần N T, bị cáo Huỳnh Văn T, bị cáo Nguyễn
Văn Đức T3 và bị cáo Trần Huỳnh T là Luật sư Ngô Thị Thanh - Luật sư ký hợp
đồng thực hiện trợ giúp pháp của Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh
Đồng Tháp ý kiến: Thống thất theo tội danh cũng như các tình tiết tăng nặng
giảm nhẹ trách nhiệm nh sự các vấn đề khác Viện kiểm sát đã trình
bày, đề nghị Hội đồng xét xxem xét các tình tiết giảm nhẹ của các bị cáo trong
quá trình nghị án để giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.
Tại phiên tòa, các b cáo Trần N T, Huỳnh Văn T, Nguyễn Văn Đức T3
và Trần Huỳnh T đồng ý xét xử vắng mặt đối với bị hại Nguyễn Thị M và những
người làm Trương Quang T6, Đặng Thanh T7, Trần Hồng T8, Châu Gia K,
Nguyễn Hữu Tuấn. Đồng thời, các bcáo thừa nhận toàn bộ hành vi của mình
đúng như nội dung cáo trạng đã truy tố. Đối với phần luận tội của đại diện Viện
kiểm sát về tội danh, khung hình phạt các bị cáo không tranh luận, lời nói sau
cùng của các bị cáo là xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các T3 liệu có trong hồ sơ vụ án đã
được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về sự vắng mặt của những người tham gia tố tụng: Tại phiên tòa vắng
mặt bị hại Nguyễn Thị M những người làm chứng Trương Quang T6, Đặng
Thanh T7, Trần Hồng T8, Châu Gia K, Nguyễn Hữu Tuấn. Xét thấy, bị hại
không yêu cầu trong vụ án này đối với những người làm chứng vắng
11
mặt không do nhưng đã lời khai của những người này trong hồ sơ vụ
án, nên không gây trở ngại cho việc xét xử, vậy Hội đồng xét xvẫn tiến
hành xét xử.
[2] Về hành vi, quyết định tố tụng của quan điều trang an huyện Tp
ời, Điều tra viên trong quá trình điều tra; của Viện kiểm sát nhân dân huyện
Tháp ời Kiểm t viên trong quá trình truy tố đã thực hiện đúng về thẩm
quyền, trình tự, thtục theo quy định của Bộ luật Ttụng nh s. Qtrình điều
tra, truy tố và tại phiên tòa, bịo, bhại đều không aiý kiến hoặc khiếu nại về
nh vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó,
c hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, nời tiến hành t
tụng đã thực hiện đều hợp pp.
[3] Hội đồng xét xử nhận thấy, lời khai nhận tội của các bị cáo Trần N T,
Huỳnh Văn T, Nguyễn Văn Đức T3 Trần Huỳnh T tại phiên tòa phù hợp
với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại
những người làm chứng cùng với các T3 liệu, chứng cứ khác do cơ quan điều
tra thu thập trong hồ vụ án tại phần tranh luận các bị cáo cũng thống
nhất với lời luận tội của Kiểm sát viên. c b cáo biết rõ hành vi cướp T3 sản
của người khác vi phạm pháp luật, nhưng bản tính lười biếng, muốn tiền
tiêu xài mà không phải bỏ công sức lao động, các bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành
vi phạm tội thể hiện ý thức coi tH pháp luật. Tổng giá trị T3 sản cướp được của
cả hai lần 33.315.000 đồng. Xét về hành vi và giá trị T3 sản các bị cáo
chiếm đoạt đã đủ yếu tố cấu thành tội “Cướp T3 sản” theo quy định tại điểm d
khoản 2 Điều 168 của Bộ luật hình sự.
Khoản 2 Điều 168 Bộ luật Hình sự quy định:
“Điều 168. Tội cướp T3 sản
1. Người nào dùng lực, đe dọa dùng lực ngay tức khắc hoặc
hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự
được nhằm chiếm đoạt T3 sản, thì bị phạt tù từ 03 N1 đến 10 N1.
2. Phạm tội thuộc một trong các T hợp sau đây, thì bị phạt từ 07 N1
đến 15 N1:
.......................................................................................................................
d) Sử dụng vũ khí, phương tiện hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác;
…………………………………………………………………………………......”
[4] Hành vi phạm tội của các bị cáo nghiêm trọng đã làm ảnh hưởng
đến tình hình an ninh, trật tự, an toàn hội, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền
12
sở hữu về T3 sản của bị hại một cách trái phép. Quyền sở hữu về T3 sản
khách thể được Luật hình sự bảo vệ, nghiêm cấm mọi hành vi trái phép xâm
phạm đến, nhưng bản chất lười biếng, muốn mau chóng tiền không
phải bra công sức lao động hợp pháp, với ý thức xem tH pháp luật nên các bị
cáo đã đã hai lần thực hiện hành vi chặn xe, sử dụng hung khí là dao đe dọa đâm
để uy hiếp tinh thần của bị hại.Trong đó, lần cướp T3 sản của bị hại Nguyễn
Văn G vào ngày 04/01/2023 tại tổ 2, ấp Mỹ Thạnh, Thanh Mỹ T, T3 T
tham gia, với tổng giá trị T3 sản cướp được 22.015.000 đồng. Lần cướp T3
sản của bị hại Trần Thị M vào ngày 08/01/2023 tại ấp 2, xã Láng Biển, huyện
Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp T, T3, T Huỳnh T tham gia, với tổng giá tr
T3 sản cướp được là 11.300.000 đồng. Tổng giá trị T3 sản cướp được của cả hai
lần là 33.315.000 đồng.
Hành vi này không những vi phạm pháp luật n làm ảnh hưởng xấu
đến tình hình trật tự an ninh tại địa phương, gây tâm hoang mang lo lắng
trong nhân dân. Do đó, việc đưa các bị cáo ra xét xử công khai như m nay
cần thiết, thể hiện sự nghiêm minh của pháp luật, đồng thời nhằm mục đích giáo
dục, phòng ngừa chung trong xã hội. Xét thấy, v án có đồng phạm nhưng thuộc
T hợp giản đơn, không có tổ chức. Trong đó bị cáo Trần N T người có vai trò
chính, người khởi sướng, rủ các bị cáo khác đi cướp T3 sản, các bị cáo
Nguyễn Văn Đức T3 Huỳnh Văn T vai trò là người thực hành, bị cáo Trần
Huỳnh T vai trò người giúp sức chỉ chịu trách nhiệm hình sự đối với
một lần cướp T3 sản của chị Trần Thị M với giá trị T3 sản là 11.300.000 đồng.
[5] Các bị cáo những người chưa thành niên nhưng không tu dưỡng rèn
luyện cho bản thân lại phạm tội. Các bị cáo Trần N T, Nguyễn Văn Đức T3,
Huỳnh Văn T phạm tội hai lần trở lên quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ
luật hình sự. Bị cáo Trần N T thêm tình tiết xúi dục người dưới 18 tuổi phạm
tội, quy định tại điểm o khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. vậy, xét thấy cần
áp dụng một hình phạt nghiêm khắc tương xng với hành vi phạm tội từng
bị cáo đã gây ra, cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới đủ tác dụng
giáo dục các bị cáo trthành người công dân tốt, có ích cho gia đình hội,
biết tôn trọng, chấp hành pháp luật phòng ngừa chung cho toàn hội cũng
như đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống loại tội này.
[6] Tuy nhiên, Hội đồng xét xử cũng thấy rằng các bị cáo đã tự nguyện
bồi tH thiệt hại, khắc phục hậu quả; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên các
bị cáo được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại
điểm b, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Bị cáo Nguyễn Văn Đức T3
13
ông nội tên Nguyễn Văn Sang được Nhà nước tặng Huy chương kháng chiến
hạng nhất là tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Ngoài ra, tại thời điểm phạm tội các bị cáo đã trên 16 tuổi nhưng chưa đủ
18 tuổi nên cần áp dụng những quy định trong xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội
tại các Điều 91 và khoản 1 Điều 101 Bộ luật hình sự đối với các bị cáo.
[7] Cáo trạng số: 28/CT-VKSTM ngày 09 tháng 6 N1 2023 của Viện
kiểm sát nhân dân huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp truy tố các bị cáo Trần N
T, Huỳnh Văn T, Nguyễn Văn Đức T3 Trần Huỳnh T căn cứ, đúng
người, đúng tội, đúng pháp luật. Do đó, Hội đồng xét xử áp dụng khoản 2 Điều
168 của Bộ luật hình sxphạt các bị cáo hình phạt tương xứng với tính chất,
mức độ nguy hiểm cho hội do hành vi phạm tội của các bị cáo đã gây ra để
cải tạo, giáo dục các bị cáo và nhằm mục đích phòng ngừa chung trong xã hội.
[8] Xét đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tháp Mười
căn cứ phù hợp nên chấp nhận. Tuy nhiên, riêng về phần mức án phạt
tù, Hội đồng xét xử sẽ xem xét toàn bộ T3 liệu, chứng cứ, cũng như tình tiết
tăng nặng, giảm nhẹ của bị cáo trong vụ án y để xem t giải quyết theo quy
định pháp luật.
[9] Về trách nhiệm dân sự: Các bị cáo Nguyễn Văn Đức T3, Trần N T
Huỳnh Văn T đã bồi tH xong số tiền 22.000.000 đồng cho bị hại Nguyễn Văn G.
Bị hại không yêu cầu bồi tH gì thêm. Các bị cáo Nguyễn Văn Đức T3, Trần N T,
Huỳnh Văn T Trần Huỳnh T thống nhất bồi tH sợi dây chuyền vàng 18kara,
trọng lượng 2,8 chỉ theo yêu cầu của bị hại Trần Thị M và đã bồi tH xong. Bị hại
không yêu cầu thêm, nên Hội đồng xét xử không đặt vấn đxem xét giải
quyết.
Đối với con dao T3 tự ý lấy sử dụng đi cướp T3 sản của anh
Nguyễn Văn G là của bà Bùi Thị Mỹ L, là mẹ ruột bị cáo T. Bà L không yêu cầu
các bị cáo bồi tH đối với con dao này, nên Hội đồng xét xử không đặt vấn đề
xem xét giải quyết.
[10] Về xvật chứng: Đề nghị của Kiểm sát viên đúng với quy định
tại Điều 47 Bộ luật hình sự Điều 106 Bluật Tố tụng hình sự, nên Hội đồng
xét xử chấp nhận.
[11] Ván phí: Các b cáo Nguyễn Văn Đức T3, Huỳnh Văn T Trần
Huỳnh T bị kết tội; các bị cáo không thuộc T hợp không phải chịu án phí theo
quy định tại Điều 11 không thuộc T hợp miễn nộp án phí theo quy định tại
Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban TH
14
vụ Quốc hội. Do đó, bị cáo phải chịu án phí hình sự thẩm theo quy định tại
khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Ttụng hình sự điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị
quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban TH vụ Quốc hội.
Riêng bị cáo Trần N T gia đình hộ nghèo nên thuộc T hợp miễn nộp án phí
theo quy định tại Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban TH vụ Quốc hội.
[12] Vquyền kháng cáo: Các b cáo, bị hại người quyền lợi
nghĩa vụ liên quan quyền kháng cáo bản án này theo quy định tại Điều 331,
332 và 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
1. Căn cứ điểm d khoản 2 Điều 168; điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51 và
điểm g, o khoản 1 Điều 52, Điều 17, Điều 38, Điều 91, khoản 1 Điều 101 của
Bộ luật hình sự;
- Tuyên bố: Bị cáo Trần N T phạm tội “Cướp T3 sản”.
- Xphạt: Bcáo Trần N T 05 (N1) N1 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn chấp
hành hình phạt tù tính từ ngày 09/01/2023.
2. Căn cứ điểm d khoản 2 Điều 168; điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51, điểm g
khoản 1 Điều 52, khoản 1 Điều 54, Điều 17, Điều 38, Điều 91, khoản 1 Điều
101 của Bộ luật hình sự;
- Tuyên bố: Bị cáo Huỳnh Văn T phạm tội “Cướp T3 sản”.
- Xử phạt: Bị cáo Huỳnh Văn T 04 (Bốn) N1 09 (Chín) tháng tù. Thời hạn
chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 09/01/2023
3. Căn cứ điểm d khoản 2 Điều 168; điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51, điểm g
khoản 1 Điều 52, khoản 1 Điều 54, Điều 17, Điều 38, Điều 91, khoản 1 Điều
101 của Bộ luật hình sự;
- Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn Đức T3 phạm tội “Cướp T3 sản”.
- Xphạt: Bcáo Nguyễn Văn Đức T3 04 (Bốn) N1 . Thời hạn chấp
hành hình phạt tù tính từ ngày 09/01/2023
4. Căn cứ điểm d khoản 2 Điều 168; điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51, khoản
1 Điều Điều 54, Điều 17, Điều 38, Điều 91, khoản 1 Điều 101 của Bộ luật nh s;
- Tuyên bố: Bị cáo Trần Huỳnh T phạm tội “Cướp T3 sản”.
15
- Xphạt: Bị cáo Trần Huỳnh T 03 (Ba) N1 03 (Ba) tháng tù. Thời hạn
chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 09/01/2023
* Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng.
5. Về trách nhiệm dân sự: Đã giải quyết xong.
6. Về xử vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật hình sự Điều 106
của Bộ luật Tố tụng hình sự, tuyên xử:
- Trả lại cho chị Nguyễn Thị Cẩm T xe mô tô biển số 66F1-479.50.
- Trả lại cho bị cáo Trần N T 01 áo khoác màu đen, s23 phía trước;
01 nón bảo hiểm màu đen;
- Trả lại cho bị cáo Nguyễn Văn Đức T3 01 đôi dép quai kẹp, màu đỏ,
in dòng chữ DH; 01 nón lưỡi trai màu đen; 01 áo khoác dài tay, màu đen, áo
khoác loại có nón đội đầu;
- Trả lại cho bị cáo Huỳnh n T 01 đôi dép lào màu đỏ; 01 áo thun i
tay, màu trắng sọc đen; 01 quần jean màu xanh trắng; 01 áo mi sọc dài tay,
màu nâu; 01 quần sọt jean màu xám rách hai bên ống quần;
- Trả lại cho bị cáo Trần Huỳnh T 01 áo mi dài tay u xám; 01 quần
sọt jean màu xanh.
- Tịch thu n sung vào ngân sách Nhà nước: 01 xe mô biển s54P7-
4211 (kèm theo giấy đăng ký xe; 01 giấy mua bán xe biển số 54P7-4211); 01 xe
gắn máy biển số 95EA-044.77 (kèm theo giấy đăng xe; 01 giấy mua bán xe
biển số 95EA-044.77).
(Vật chứng nêu trên do Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tháp Mười giữ
theo Biên bản giao nhận vật chứng, T3 sản ngày 03/7/2023).
7. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Ttụng hình sự
Điều 12, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban TH vụ Quốc hội;
Buộc các bị cáo Nguyễn Văn Đức T3, Huỳnh Văn T Trần Huỳnh T
mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự
thẩm. Bị cáo Trần N T không phải chịu án phí hình sự sơ thẩm (hộ nghèo).
8. Về quyền kháng cáo:
Các bị cáo, bhại người có quyền lợi, nghĩa vliên quan (có mặt)
quyền kháng cáo bản án lên Tòa án tỉnh Đồng Tháp trong hạn 15 ngày, kể từ
ngày tuyên án.
Bhại vắng mặt quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày,
kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.
16
9. T hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của
Luật Thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành
án dân squyền thỏa T8 thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện
thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và
9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy
định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.
Nơi nhận:
- TAND tỉnh Đồng Tháp;
- VKSND tỉnh Đồng Tháp;
- Sở Tư pháp tỉnh Đồng Tháp;
- VKSND huyện Tháp Mười;
- CQ CSĐT CA huyện Tháp Mười;
- CC THADS huyện Tháp Mười;
- Bcáo;
- Bị hại;
- Người liên quan;
- Lưu: HSVA, VPTA (Đạt).
Tải về
Bản án số 40/2023/HS-ST Bản án số 40/2023/HS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất