Bản án số 39/2020/HS-ST ngày 27/04/2020 của TAND TP. Phủ Lý, tỉnh Hà Nam về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng tội danh
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 39/2020/HS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 39/2020/HS-ST
Tên Bản án: | Bản án số 39/2020/HS-ST ngày 27/04/2020 của TAND TP. Phủ Lý, tỉnh Hà Nam về tội tàng trữ trái phép chất ma túy |
---|---|
Tội danh: | 249.Tội tàng trữ trái phép chất ma túy (Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015) |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND TP. Phủ Lý (TAND tỉnh Hà Nam) |
Số hiệu: | 39/2020/HS-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 27/04/2020 |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ án: |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TOÀ ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ PHỦ LÝ
TỈNH HÀ NAM
Bản án số: 39/2020/HS-ST
Ngày 27 - 4 - 2020
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập -Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƢỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHỦ LÝ- TỈNH HÀ NAM
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Bà Nguyễn Thị Mai Oanh.
Các Hội thẩm nhân dân: Ông Trịnh Văn Chi và bà Nguyễn Thị Chương.
- Thư ký phiên toà: Ông Đỗ Xuân Lập – Thư ký Toà án nhân dân thành
phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam
tham gia phiên toà: Bà Nguyễn Thị Thúy Tình - Kiểm sát viên.
Ngày 27 tháng 4 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý,
tỉnh Hà Nam, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 32/2020/TLHS-
HS ngày 06 tháng 3 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số
38/2020/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 4 năm 2020, đối với bị cáo:
Lƣơng Ngọc A, sinh năm 1990 tại Hà Nam; nơi cư trú: Tổ dân phố B,
phường T, thành phố P, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn
hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam;
con ông Lương Ngọc B và bà Mai Thị H; vợ, con: Chưa có; tiền án: Ngày
24/11/2011, Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam xử phạt 08 năm tù
về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt, tạm giữ từ
ngày 09/12/2019 và chuyển tạm giam từ ngày 18/12/2019 đến nay; Có mặt.
* Ngƣời làm chứng: Anh Phạm Tiến D, sinh năm 1981; Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung
vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 10 giờ ngày 09/12/2019, tổ công tác Công an phường T, thành phố
P làm nhiệm vụ tại khu vực đường T thuộc tổ dân phố B, phường T, thành phố P
phát hiện Lương Ngọc A đang đi bộ cầm theo bình thủy tinh có cắm ống hút ở
tay trái có biểu hiện nghi vấn liên quan đến tội phạm về ma túy nên yêu cầu kiểm
tra. Ngọc A thả từ tay trái xuống đường 02 túi nilon thì bị lực lượng Công an phát
hiện thu giữ, kiểm tra bên trong 01 túi màu trắng có kẹp nhựa viền màu xanh bên
trong chứa chất bột màu trắng dạng cục, 01 túi màu trắng có kẹp nhựa viền màu
xanh bên trong có 02 viên nén màu hồng và các mảnh viên nén màu hồng bị vỡ.
Ngọc A khai nhận chất bột màu trắng và các viên nén màu hồng trong 02 túi
2
nilon trên là ma túy của Ngọc A cất giữ để sử dụng. Lực lượng Công an đã lập
biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Lương Ngọc A, thu giữ vật chứng
gồm:
- 02 túi nilon màu trắng đều có kẹp nhựa viền màu xanh, trong đó 01 túi có
kích thước 3 x 3cm chứa chất bột màu trắng dạng cục, 01 túi có kích thước 1,5 x
1,5cm chứa 02 viên nén màu hồng và các mảnh viên nén màu hồng bị vỡ (được
niêm phong trong phong bì ký hiệu QT01);
- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Mobiistar màu đen (được niêm phong
trong phong bì ký hiệu QT02); 01 bình thủy tinh màu trắng bên trong không có
gì, một đầu phía trên có lỗ tròn bị vỡ cắm ống hút nước.
Ngày 09/12/2019, Cơ quan CSĐT - Công an thành phố Phủ Lý thi hành
Lệnh khám xét khẩn cấp đối với chỗ ở của Lương Ngọc A. Quá trình khám xét
thu giữ:
- 01 túi nilon màu trắng có kẹp nhựa, miệng túi có viền màu xanh bên
trong có 07 viên nén màu hồng (được niêm phong trong phong bì ký hiệu KX01);
05 túi nilon màu trắng có kẹp nhựa, miệng túi có viền màu xanh, bên trong mỗi
túi đều có chứa chất tinh thể màu trắng (được niêm phong trong phong bì ký hiệu
KX02), các vật chứng nêu trên thu trên giường tại phòng ngủ tầng 2;
- 01 túi nilon màu trắng có kẹp nhựa, miệng túi có viền màu xanh bên
trong chứa chất tinh thể màu trắng (được niêm phong trong phong bì ký hiệu
KX03) thu trên móc màn trên giường tại phòng ngủ tầng 2;
- 01 túi nilon màu trắng có kẹp nhựa, miệng túi có viền màu xanh bên
trong chứa 15 viên nén màu hồng, được niêm phong trong phong bì ký hiệu
KX04, thu trên mặt bàn tại phòng ngủ tầng 2.
Tại bản kết luận giám định số 214/PC09-MT ngày 13/12/2019 của Phòng
kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hà Nam kết luận:
“- Mẫu bột màu trắng dạng cục trong phong bì ký hiệu QT01 gửi giám
định là ma túy, có khối lượng 0,036g, loại Heroine.
- Mẫu viên nén màu hồng và các mảnh viên nén màu hồng trong phong bì
ký hiệu QT01 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,251g loại
Methamphetamine;
- Mẫu viên nén màu hồng trong phong bì ký hiệu KX01 gửi giám định là
ma túy, có khối lượng 0,703g loại Methamphetamine;
- Mẫu tinh thể màu trắng trong phong bì ký hiệu KX02 gửi giám định là
ma túy, có khối lượng 0,716g loại Methamphetamine;
- Mẫu tinh thể màu trắng trong phong bì ký hiệu KX03 gửi giám định là
ma túy, có khối lượng 0,019g loại Methamphetamine;
- Mẫu viên nén màu hồng trong phong bì ký hiệu KX04 gửi giám định là
ma túy, có khối lượng 1,528g loại Methamphetamine”.
Tại bản cáo trạng số 39/CT-VKS-PL ngày 05/3/2020, Viện kiểm sát nhân
dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam truy tố Lương Ngọc A về tội “Tàng trữ trái
phép chất ma túy” theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự
205, sửa đổi bổ sung 2017 (Sau đây viết tắt là Bộ luật Hình sự).
* Tại phiên tòa:
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý trình bày luận tội:
Giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo như đã nêu trong bản cáo trạng, không thay
3
đổi, bổ sung gì thêm. Sau khi phân tích tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi
phạm tội và nhân thân của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử:
+ Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51;
điểm h khoản 1 Điều 52 Điều 38; Điều 50 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Lương
Ngọc A từ 36 đến 42 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Không áp
dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
+ Về xử lý vật chứng: Đề nghị áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự và
Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số Heroine và
Methamphetamine hoàn trả sau giám định và 01 bình thủy tinh màu trắng; trả lại
bị cáo 01 điện thoại di động nhãn hiệu Mobiistar.
- Bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng như bản cáo trạng đã
truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã
được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, trong
quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy
định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và
những người tham gia tố tụng không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về
hành vi, quyết định của cơ quan tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành
vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã
thực hiện đều hợp pháp.
[2] Đối với người tham gia tố tụng là người làm chứng vắng mặt tại phiên
tòa nhưng trong hồ sơ vụ án đã có đầy đủ lời khai của họ, được cơ quan điều tra
tiến hành lấy lời khai theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, nên Hội
đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử theo quy định pháp luật.
[3] Về tội danh: Tại phiên tòa, bị cáo Lương Ngọc A đã khai, thừa nhận
toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện
kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đã nêu. Lời khai nhận của bị cáo được thẩm
tra tại phiên tòa phù hợp với: biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản thu
giữ, niêm phong vật chứng, kết luận giám định về chất ma túy, lời khai của người
làm chứng và các tài liệu khác có trong hồ sơ của vụ án. Hội đồng xét xử có đủ
cơ sở để kết luận: Khoảng 10 giờ ngày 09/12/2019, tại tổ dân phố B, phường T,
thành phố P, tỉnh Hà Nam, Lương Ngọc A cất giữ trái phép 0,036 gam chất ma
túy, loại Heroine và 0,251 gam chất ma túy, loại Methamphetamine, mục đích để
sử dụng thì bị tổ công tác Công an phường T, thành phố P phát hiện bắt quả tang.
Ngoài ra, Lương Ngọc A còn cất giữ trái phép tại chỗ ở của mình 2,966 gam chất
ma túy, loại Methamphetamine mục đích để sử dụng.
Hành vi nêu trên của bị cáo đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma
túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật
Hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đối với bị cáo
là có căn cứ, phù hợp pháp luật.
[4] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối
với bị cáo:

4
Về nhân thân: Bị cáo là người có nhân thân xấu, có 01 tiền án về tội phạm
ma túy thuộc trường hợp rất nghiêm trọng nay lại phạm tội nghiêm trọng về ma
túy thể hiện thái độ coi thường bất chấp pháp luật.
Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo có 01 tiền án về tội “Mua bán trái phép chất
ma túy (chưa được xóa án tích). Nên lần phạm tội này bị cáo phải chịu tình tiết
tăng nặng là “Tái phạm” theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình
sự.
Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đều thành
khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình; bị cáo có thời gian tham gia quân
đội, gia đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm
nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
[5] Về hình phạt chính, hình phạt bổ sung:
- Hình phạt chính: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm
phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy và
các chất gây nghiện, gây mất trật tự trị an trong xã hội và là nguyên nhân phát
sinh các tội phạm khác. Vì vậy, việc xét xử nghiêm minh hành vi phạm tội này là
cần thiết, với mức hình phạt tương xứng tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội
của hành vi phạm tội bị cáo đã thực hiện. Xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm
nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo,thấy cần thiết phải cách ly bị cáo
ra khỏi xã hội một thời gian nhất định mới có tác dụng cải tạo, giáo dục đối với bị
cáo và nâng cao hiệu quả công cuộc đấu tranh, phòng chống tội phạm.
- Hình phạt bổ sung: Bị cáo là người nghiện ma túy, bản thân là lao động
tự do, mục đích tàng trữ để sử dụng nên không cần thiết phải áp dụng hình phạt
bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[6] Về nguồn gốc số ma túy thu giữ của Lương Ngọc A: Quá trình điều tra
không đủ căn cứ để xác định được nguồn gốc số Heroine, Methamphetamine đã
thu giữ và người đã bán trái phép chất ma túy cho Lương Ngọc A. Do đó không
có căn cứ để xử lý trong vụ án này.
[7] Xử lý vật chứng:
- Đối với số Heroine và Methamphetamine hoàn trả sau giám định cùng
toàn bộ bao gói mẫu vật thu giữ của bị cáo được hoàn trả sau giám định là vật
chứng của vụ án và 01 bình thủy tinh màu trắng là dụng cụ để bị cáo sử dụng trái
phép chất ma túy không có giá trị sử dụng, cần tịch thu tiêu hủy.
- Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Mobiistar thu giữ của bị cáo, đây
là tài sản hợp pháp của bị cáo không liên quan đến vụ án nên cần trả lại cho bị
cáo nhưng cần tạm giữ để đảm bảo công tác thi hành án.
[8] Về án phí và quyền kháng cáo bản án: Bị cáo thực hiện theo quy định
của pháp luật.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51;
điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 47; Điều 50 Bộ luật Hình sự.
Căn cứ các Điều 106, 136, 331, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.
Căn cứ Luật Phí và Lệ phí của Quốc hội.
5
Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của
Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý
và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
[1] Tuyên bố bị cáo Lương Ngọc A phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma
túy”.
[2] Xử phạt bị cáo Lương Ngọc A 48 (Bốn mươi tám) tháng tù, thời hạn tù
tính từ ngày 09/12/2019.
[3] Xử lý vật chứng:
- Tịch thu tiêu hủy:
+ 01 (một) phong bì được niêm phong mặt trước ghi “Mẫu vật hoàn trả
QT01” số: 214/PC09-MT”.Tại mép dán mặt sau có các chữ ký của Đỗ Thị Hồng
H, Trần Thị Thu H, 01 (một) chữ ký có đóng dấu chức danh Phó trưởng phòng
Trung tá Nguyễn Thị Lan H, 03 (ba) dấu tròn đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự
Công an tỉnh Hà Nam.
+ 01 (một) phong bì được niêm phong mặt trước ghi “Mẫu vật hoàn trả
KX01” số: 214/PC09-MT”.Tại mép dán mặt sau có các chữ ký của Đỗ Thị Hồng
H, Trần Thị Thu H, 01 (một) chữ ký có đóng dấu chức danh Phó trưởng phòng
Trung tá Nguyễn Thị Lan H, 03 (ba) dấu tròn đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự
Công an tỉnh Hà Nam.
+ 01 (một) phong bì được niêm phong mặt trước ghi “Mẫu vật hoàn trả
KX02” số: 214/PC09-MT”.Tại mép dán mặt sau có các chữ ký của Đỗ Thị Hồng
H, Trần Thị Thu H, 01 (một) chữ ký có đóng dấu chức danh Phó trưởng phòng
Trung tá Nguyễn Thị Lan H, 03 (ba) dấu tròn đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự
Công an tỉnh Hà Nam.
+ 01 (một) phong bì được niêm phong mặt trước ghi “Mẫu vật hoàn trả
KX03” số: 214/PC09-MT”.Tại mép dán mặt sau có các chữ ký của Đỗ Thị Hồng
H, Trần Thị Thu H, 01 (một) chữ ký có đóng dấu chức danh Phó trưởng phòng
Trung tá Nguyễn Thị Lan H, 03 (ba) dấu tròn đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự
Công an tỉnh Hà Nam.
+ 01 (một) phong bì được niêm phong mặt trước ghi “Mẫu vật hoàn trả
KX04” số: 214/PC09-MT”.Tại mép dán mặt sau có các chữ ký của Đỗ Thị Hồng
H, Trần Thị Thu H, 01 (một) chữ ký có đóng dấu chức danh Phó trưởng phòng
Trung tá Nguyễn Thị Lan H, 03 (ba) dấu tròn đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự
Công an tỉnh Hà Nam.
+ 01 (một) bình thủy tinh màu trắng, bên trong không chứa đồ vật tài sản
gì, một đầu phía trên có lỗ tròn bị vỡ.
- Trả lại bị cáo Lương Ngọc A: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu
Mobiistar, màu đen, loại có bàn phím bấm, số IMEI: 352310024374495. Nhưng
tiếp tục tạm giữ để đảm bảo công tác thi hành án.
(Tình trạng vật chứng như trong biên bản giao nhận vật chứng lập ngày
06/3/2020 giữa Cơ quan CSĐT Công an thành phố Phủ Lý với Chi cục Thi hành
án dân sự thành phố Phủ Lý).
[4] Án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo Lương Ngọc A phải nộp:
200.000đ (Hai trăm nghìn đồng).
Án xử công khai sơ thẩm, bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày
kể từ ngày tuyên án.
6
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án
dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền
thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị
cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân
sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành
án dân sự.
Nơi nhận:
- TAND tỉnh Hà Nam;
- VKSND tỉnh Hà Nam;
- Trại tạm giam Công an tỉnh Hà Nam;
- VKSND TP Phủ Lý;
- CQCSĐT CA TP Phủ Lý;
- Cơ quan THAHS Công an TP Phủ Lý;
- Chi cục THADS TP Phủ Lý;
- Bị cáo;
- Lưu hồ sơ.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(Đã ký)
Nguyễn Thị Mai Oanh
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 03/04/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 29/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 29/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 22/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 15/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 14/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 08/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 07/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 07/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 05/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 04/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 01/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 23/02/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 06/02/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 06/02/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 06/02/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 06/02/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 05/02/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 05/02/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 05/02/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm