Bản án số 34/2023/HS-ST ngày 21/06/2023 của TAND huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam về tội cưỡng đoạt tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 34/2023/HS-ST

Tên Bản án: Bản án số 34/2023/HS-ST ngày 21/06/2023 của TAND huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam về tội cưỡng đoạt tài sản
Tội danh: 135.Tội cưỡng đoạt tài sản (Bộ luật hình sự năm 1999)
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Đông Giang (TAND tỉnh Quảng Nam)
Số hiệu: 34/2023/HS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 21/06/2023
Lĩnh vực: Hình sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án:
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TOÀ ÁN NHÂN DÂN CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
HUYỆN Đ Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
TỈNH QUẢNG NAM
Bản án số: 34/2023/HS-ST
Ngày: 21/6/2023
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Đ, TỈNH QUẢNG NAM
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán- Chủ toạ phiên toà: Ông Lê Tự Soái.
Các Hội thẩm nhân dân: Nguyễn Thị Mừng và ông Nguyễn Kim Đình.
- Thư ký phiên toà: Lê Thị Nguyệt Sương- Thư ký Toà án nhân dân huyện
Đ.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ tham gia phiên toà: Ông
Nguyễn Phước- Kiểm sát viên.
Ngày 21 tháng 6 năm 2023, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Đ, tỉnh Quảng
Nam xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ số: 25/2023/TLST-HS
ngày 12 tháng 4 m 2023, theo Quyết định đưa v án ra t xử số:
25/2023/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 5 năm 2023 Thông báo vviệc thay đổi
thời gian xét xử phiên toà hình sự sơ thẩm số: 19/2023/TB-TA ngày 29 tháng 5
năm 2023 đối với các bị cáo:
1. Nguyễn Kim T (tên gọi khác: K), sinh ngày 11/10/1994 tại huyện Đ,
tỉnh Quảng Nam; nơi đăng hộ khẩu thường trú: thôn M, xã Q, huyện Đ, tỉnh
Quảng Nam; chỗ hiện nay: khu H, thị trấn A, huyện Đ, tỉnh Quảng Nam; nghề
nghiệp: Công nhân; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn
giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Kim T (đã chết) Nguyễn Thị
L (sinh năm 1960); có vợ Nguyễn Thị Mỹ H (đã ly hôn) 01 con sinh năm
2018; tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 02/11/2022 đến nay tại Ntạm giữ Công an
huyện Đ.
2. Nguyễn Hữu C, sinh ngày 02/02/1999 tại huyện Đ, tỉnh Quảng Nam; nơi
đăng hộ khẩu thường trú chỗ hiện nay: khu N, thị trấn A, huyện Đ, tỉnh
Quảng Nam; nghề nghiệp: Thợ cơ khí; trình độ học vấn: 10/12; dân tộc: Kinh; giới
tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn H (sinh năm
1963) con Nguyễn Thị M (sinh năm 1969); bị cáo chưa vợ, con; tiền án;
tiền sự: Không.
Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 03/11/2022 đến nay tại N tạm giữ Công an
huyện Đ.
3. Nguyễn Đức N, sinh ngày 09/3/1998 tại huyện Đ, tỉnh Quảng Nam; nơi
đăng hộ khẩu thường tchỗ hiện nay: thôn P, A, huyện Đ, tỉnh Quảng
Nam; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam;
tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn D (đã chết) Nguyễn
Thị L (sinh năm 1958); bị cáo chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không.
Nhân thân:
2
- Ngày 23/11/2018, bị Toà án nhân dân qun N, thành phố Đà Nẵng x pht
15 tháng tù nhưng cho ng án treo, thi hn th thách 30 tháng về ti Hu hoi
tài sản”; chấp hành xong hình phạt t ngày 23/5/2021, đến nay đã được xoá án tích.
- Ngày 26/3/2021, Uỷ ban nhân n A ra Quyết định giáo dục tại
phưng, th trn s 109/QĐ về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma tuý”; chấp hành
xong thi hạn giáo dục tại xã, phường, th trn t ngày 27/6/2021.
Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 23/02/2023 đến nay tại ntạm giữ Công an
huyện Đ.
(Tất cả các bị cáo có mặt tại phiên tòa).
* Bhại: Ông Ngọc M, sinh năm 1993; trú tại: thôn L, Q, huyện Đ,
tỉnh Quảng Nam; vắng mặt.
* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án:
- Ông NThanh H, sinh năm 1960; trú tại: thôn L, Q, huyện Đ, tỉnh
Quảng Nam; vắng mặt.
- Nguyễn Thị L, sinh năm 1960; hộ khẩu thường trú: thôn M, Q,
huyện Đ, tỉnh Quảng Nam; chỗ ở hiện nay: khu H, thị trấn A, huyện Đ, tỉnh Quảng
Nam; có mặt.
- Trần Thị Hồng N, sinh năm 1990; trú tại: khu N, thị trấn A, huyện ,
tỉnh Quảng Nam; vắng mặt.
- Đặng Thị Thu T, sinh năm 1994; hộ khẩu thường trú: tổ 28, phường H,
quận L, thành phố Đà Nẵng; chỗ hiện nay: thôn T, Q, huyện Đ, tỉnh Quảng
Nam; có mặt.
* Người làm chứng:
- Văn Thị A, sinh năm 1989;
- Võ Thị Minh T, sinh năm 1989;
Cùng trú tại: thôn L, xã Q, huyện Đ, tỉnh Quảng Nam; có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các i liệu trong hồ vụ án diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ
án được tóm tắt như sau:
Đầu tháng 07 năm 2022, Ngọc M gọi điện thoi vay của Nguyễn Kim
T s tiền 10.000.000 đồng với lãi suất 20%/tháng. Đến khong 18 gi ngày
04/7/2022, tại quán phê gần UBND xã Q, theo yêu của T, M đồng ý viết giy
n tiền thế chấp tài sản là giấy đăng xe BKS 92E1-272.49. M giao
giấy đăng xe cho T T giao cho M s tiền 8.000.000 đồng, trong đó đã trừ
2.000.000 đng tiền lãi tháng 7/2022. Đến đầu tháng 8/2022, M tr cho T s tin
lãi là 2.000.000 đồng. Trong thời gian đầu tháng 9/2022, T nhiu ln gọi đin thoi
cho M yêu cầu tr tiền lãi nhưng M không nghe điện thoi. Do bc tc vic M
không trả tiền không nghe đin thoại nên T nảy sinh ý định đến nhà của M đ
đòi nợ.
Khong 13 gi 00 phút ngày 09/9/2022, Nguyn Kim T gọi điện thoi r
Nguyn Hu C ng đến nhà của M để đòi nợ, trước khi đi T ha hn s chia tin
cho C sau khi lấy được tiền nói C dắt xe về trong trường hợp không lấy
đưc tin. Lúc này, C đang ngồi tại quán phê với Nguyễn Đức N nên rủ N đi
cùng. C điu khiển xe mô tô BKS 92E1-139.56 ch N đi đến nhà nghỉ L ti khu H,
th trn A, huyện Đ để gp T. Trên đường đi, C nói vi N v việc cùng T đi đòi nợ
hứa hn s chia tin cho N, N đồng ý đi cùng. Khi đến nhà nghỉ L, N đứng
3
ngoài xe, C vào trong gặp T. Ti đây, T mang theo 01 cây kiếm bng kim loại dài
70cm (lưỡi kiếm bng kim loại được n màu vàng dài 49cm, chuôi kiếm bng g
dài 21cm) đưc qun quanh bằng khăn màu trắng. T để cây kiếm trên xe mô
BKS 43D1-500.03 rồi điều khin xe ch C đi đến nhà ca M, N điu khin xe ca
C chạy theo sau. Khi đến đoạn đường ĐT 609 thuộc thôn H, xã Q, T gặp Ngô
Thanh H đang chạy xe ngược chiu. T nh H dẫn lên trang trại nhà M để tìm M ly
tin, H đồng ý. Trên đường đi đến trang trại thì T ghé vào nhà M, T dựng xe ngoài
cổng, mang theo cây kiếm chun b sẵn cùng C và N đi vào nhà, H đứng cách cổng
nhà M 08 mét để chờ. Khi vào đến hiên nhà của M, T nói C và N đứng hiên nhà,
T vào nhà nhìn qua khe ca s thấy 01 xe BKS 92E1-477.69 nên dùng
chân đạp mạnh vào cửa nhà mở ca ra ri dắt xe BKS 92E1-477.69 ra
đến sân thì gặp ch Văn Thị A chị ca M là Võ Thị Minh Th. Thy T dt xe, ch
Th hi “Tại sao nhà không người bọn bây mở ca dắt xe?”. T lin tr li
“Mc n tao ttao dắt, đòi trn n à?”. Nghe T nói vậy, ch Th đáp lại “Không
l chính quyền bọn bây làm ngang nhiên thế hả, tao đi báo công an”. Khi
nghe ch Th nói sẽ đi báo Công an thì T cầm cây kiếm trên tay đưa về ng ch
Th chị A vi mục đích đe doạ không cho báo Công an và nói “Tao đéo sợ, đem
tin xung tr cho tao ri dt xe về”, sau đó T dt xe ra khỏi nhà. Do xe của M
không có chìa khóa nên T ngồi trên xe của M nhờ C điu khin xe ca T đy xe
đi, N điu khin xe ca C chạy theo sau. Trên đường đi do xe ca M b lng lp
nên T nh C dắt đến tim sửa xe đ vá. Sau đó, C điu khin xe ca T, N điu
khin xe ca C chạy hai bên xe mô tô của M do T điu khiển đ đẩy xe v nhà anh
trai ca T là Lê Nguyễn Kim Th gửi. Khi đến nhà Th, T gp v của Thành là Đặng
Th Thu Th, T gửi xe mô tô của M tại nhà Th, sau đó điều khin xe ca T v nhà, N
và C v sau. Sau khi xy ra s việc, Võ Ngọc M có đơn báo cáo đến Công an xã Q,
huyện Đ.
Ngày 07/10/2022, Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự huyện Đ kết lun:
01 xe mô nhãn hiu YAMAHA, loại xe EXCITER, màu sơn cam đen, biển s
đăng 92E1-477.69, s máy G3D4E817528, s khung 1010JY052092 giá tr
là 22.000.000 đồng.
Tại Bản cáo trạng số 26/CT-VKSĐL-HS ngày 11/4/2023 của Viện kiểm sát
nhân dân huyện Đ đã truy tố các bị cáo Nguyễn Kim T, Nguyễn Hữu C
Nguyễn Đức N về tội “Cưỡng đoạt tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều
170 của Bộ luật Hình sự năm 2015.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm như Cáo trạng đối
với các bcáo, phân tích nh chất mức độ nguy hiểm cho hội về hành vi phạm
tội và nhân thân cũng như các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của từng bị
cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 170; điểm s khoản 1
(02 tình tiết thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải), khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều
54 của Bộ luật Hình s năm 2015 cho cả ba bị cáo T, C và N.
- Xử phạt bị o Lê Nguyễn Kim T từ 30 đến 33 tháng vtội “Cưỡng đoạt
tài sản”.
- Xphạt bcáo Nguyễn Hữu C từ 24 đến 27 tháng về tội “Cưỡng đoạt tài
sản”.
- Xphạt bị cáo Nguyễn Đức N từ 18 đến 24 tháng về tội “Cưỡng đoạt tài
sản”.
Đề nghị xử lý vật chứng theo quy định pháp luật.
4
Tại phiên tòa các bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình, vật chứng bị
thu giữ như nội dung bản Cáo trạng đã nêu.
Bị hại Võ Ngọc M; những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án
các ông (bà) Ngô Thanh H, Nguyễn Thị L, Trần Thị Hồng N Đặng Thị Thu Th;
những người làm chứng các Văn Thị A Thị Minh Th khai nhận phù hợp
với lời khai của các bị cáo và sự việc như đã cung cấp trong giai đoạn điều tra.
Tại lời nói sau cùng, các bị cáo nhận thức được hành vi của bị cáo vi phạm
pháp luật, các bị cáo mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ vụ án đã được
tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng:
Tòa án tống đạt các văn bản tố tụng đối với bị hại Ngọc M để tham gia
phiên toà nhưng vắng mặt (có đơn xin xét xử vắng mặt), người quyền lợi
nghĩa vụ liên quan Trần Thị Hồng N để tham gia phiên toà nhưng vắng mặt. Tuy
nhiên, việc vắng mặt của người tham gia tố tụng này không gây trở ngại cho việc
xét xử. vậy, Hội đồng t xử tiến hành xét xvắng mặt người tham gia tố tụng
này.
Về hành vi, quyết định tố tụng của quan điều tra Công an huyện Đ, Điều
tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra,
truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố
tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo đã khai báo và
xuất trình các tài liệu chứng cứ phù hợp với quy định pháp luật không khiếu
nại về hành vi, quyết định của quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.
Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của quan tiến hành tố tụng, người tiến
hành tố tụng đều hợp pháp.
[2] Về nội dung:
{2.1} Về hành vi, căn cứ buộc tội các bị cáo: Xét lời khai nhận tội của các bị
cáo Lê Nguyễn Kim T, Nguyễn Hữu C Nguyễn Đức N tại phiên tòa phù hợp với
vật chứng thu giữ, lời khai của bị hại, người quyền lợi nghĩa vụ liên quan,
người làm chứng đến vụ án các i liu, chng c khác được cơ quan điu tra
chng minh tại hồ sơ vụ án và đã được thm tra tại phiên a. Hội đồng xét xử
đủ sđể xác định: Vào khoảng 14 giờ 00 phút ngày 09/9/2022, tại nhà ông
Ngọc C thuộc thôn L, xã Q, huyện Đ các bị cáo Lê Nguyễn Kim T, Nguyễn Hữu C
và Nguyễn Đức N có hành vi đe doạ dùng vũ lực để chiếm đoạt xe mô tô nhãn hiệu
YAMAHA, loại xe EXCITER, màu sơn cam đen, BKS 92E1-477.69 của bị hại
Võ Ngọc Tây trị giá 22.000.000 đồng.
Hành vi mà các bị cáo Nguyễn Kim T, Nguyễn Hữu C Nguyễn Đức N
bàn bạc rủ nhau đến nhà ông Võ Ngọc C (thôn L, xã Q, huyện Đ) thực hiện hành vi
đe dọa dùng lực nhằm chiếm đoạt tài sản của bị hại Ngọc M trái pháp luật
đã phạm tội “Cưỡng đoạt tài sản” với nh tiết định khung “Có tổ chứctheo quy
định tại điểm a khoản 2 Điều 170 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung
năm 2017) như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ truy tố các bị cáo
T, C và N là có căn cứ, đúng pháp luật.
{2.2} Xét hành vi phạm tội của các bị cáo đã gây ra thì thấy: Do bị hại
Ngọc M có vay tiền của bị cáo Lê Nguyễn Kim T, bị cáo T nhiều lần gọi điện thoại
5
cho M yêu cầu trả tiền lãi nhưng M không nghe điện thoại. Do bực tức việc M
không trả tiền không nghe điện thoại nên bị cáo T nảy sinh ý định đến nhà của
M để đòi nợ. Để đòi được nợ của bị hại M, bị cáo T gọi điện thoại rủ bị cáo C cùng
đến nhà của bị hai M để đòi nợ, trước khi đi bị cáo T hứa hẹn sẽ chia tiền cho bị
cáo C sau khi lấy được tiền và nói bị cáo C dắt xe mô tô về trong trường hợp không
lấy được tiền. Sau đó bcáo C nói với bị cáo N về việc cùng bị cáo T đi đòi nợ
hứa hẹn schia tiền cho bị cáo N, thì bị cáo N đồng ý đi cùng. Sau đó, các bị cáo
T, C và N đến nhà bhại M cùng thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản chiếc xe mô
của bhại trái pháp luật. Hành vi các bị cáo thực hiện việc phạm tội cưỡng
đoạt tài sản là rất táo tợn, liều lĩnh. Đây là hành vi rất nguy hiểm cho xã hội, không
chỉ trực tiếp xâm hại quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ,
còn gây ra tâm hoang mang bất bình trong đời sống nhân dân, ảnh hưởng
xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương. Do đó các bị cáo T, C N phải
chịu trách nhiệm về hành vi phạm tội của mình.
{2.3} Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội, vai trò, nhân thân tình tiết
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo:
- Bị cáo Lê Nguyễn Kim T: Trong vụ án này bị cáo T là người giữ vai trò chủ
mưu thực hiện việc phạm tội cưỡng đoạt tài sản. Bị cáo khởi xướng rủ phân
công, bàn bạc bị cáo Nguyễn Hữu C lấy tiền n cho bị o, lấy được thì bị cáo cho
tiền, nếu lấy không được thì ng bị cáo lấy xe của bị hại. Bị cáo dùng chân đạp
cửa, cầm kiếm đe doạ trực tiếp dắt xe bị hại để chiếm đoạt trái pháp luật.
vậy, theo quy định pháp luật cần phải xử phạt bị cáo nghiêm minh nhằm để răn đe
và ngăn ngừa tội phạm.
Tuy nhiên xét thấy, bị cáo không tình tiết tăng nặng trách nhiệm nh sự,
khi phạm tội bị cáo nhân thân tốt, chưa tiền án, tiền sự, phạm tội lần đầu, tài
sản phạm tội thu hồi trả lại cho bị hại, tại phiên toà hôm nay bị cáo thành khẩn khai
báo nhận tội, tỏ rõ sự ăn năn hối cải (là 02 tình tiết giảm nhthành khẩn khai báo,
ăn năn hối cải) được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm
2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Nội dung đơn xin xét xử vắng mặt b hại xin
giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, bản thân thời gian tham gia lực lượng dân quân
nòng cốt Q, con còn nhỏ, lao động chính trong gia đình tình tiết giảm nhẹ
được quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình s năm 2015 (sửa đổi, bổ
sung năm 2017). Hội đồng xét xử sẽ xem xét các tình tiết này đgiảm nhẹ một
phần hình phạt cho bị cáo khi lượng hình.
- Các bị cáo Nguyễn Hữu C Nguyễn Đức N: Các bị cáo C N đã thực
hiện việc phạm tội cưỡng đoạt tài sản cùng với bị cáo Lê Nguyễn Kim T với vai trò
đồng phạm giúp sức. Bị cáo C giữ vai trò giúp sức tích cực hơn bị cáo N, trước khi
đi đòi nợ thì bị cáo T hứa hẹn sẽ chia tiền cho bị cáo sau khi lấy được tiền và nói bị
cáo dắt xe vtrong trường hợp không lấy được tiền thì bị cáo đồng ý thực
hiện việc phạm tội theo sự bàn bạc phân công của bị cáo T. Đối với bị cáo N khi
nghe bị cáo C nói về việc cùng bị cáo T đi đòi nợ và hứa hẹn sẽ chia tiền thì bị cáo
đồng ý tham gia thực hiện việc phạm tội cùng với c bị cáo T C. Các bị o C
và N cùng hỗ trợ về mặt tinh thần cho bị cáo T thực hiện việc phạm tội cưỡng đoạt
tài sản của bị hại trái pháp luật. Bị cáo N có nhân thân xấu, ngày 23/11/2018 bị Toà
án nhân dân quận N, thành phố Đà Nẵng xphạt 15 tháng nhưng cho hưởng án
treo, thời hạn thử thách 30 tháng vtội “Huỷ hoại tài sản” đã hấp hành xong hình
phạt từ ngày 23/5/2021 (đến nay đã được xoá án tích); ngày 26/3/2021, bị Uỷ ban
6
nhân dân xã A ra Quyết định giáo dục tại xã phường, thị trấn số 109/QĐ về hành vi
sử dụng trái phép chất ma tuý, chấp hành xong thời hạn giáo dục tại xã, phường,
thị trấn tngày 27/6/2021. vậy, theo quy định của pháp luật cần phải xử phạt
các bị cáo một cách nghiêm minh tương xứng với mức độ thực hiện việc phạm tội
của từng bị cáo để răn đe và ngăn ngừa tội phạm.
Tuy nhiên xét thấy, các bị cáo không tình tiết tăng nặng trách nhiệm nh
sự, khi phạm tội các bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, bị cáo C nhân thân tốt, phạm
tội lần đầu, tài sản phạm tội thu hồi trả lại cho bị hại, tại phiên toà hôm nay các bị
cáo thành khẩn khai báo nhận tội, tỏ sự ăn năn hối cải (là 02 tình tiết giảm nhẹ
thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải) được quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ
luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Nội dung đơn xin xét xử vắng
mặt bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo, bản thân bcáo C đã tham gia
hoàn thành nghĩa vụ quân sự, bị cáo N có bà ngoại được tặng thưởng Huân chương
kháng chiến, các bị cáo hoàn cảnh gia đình khó khăn xác nhận của chính
quyền địa phương tình tiết giảm nhẹ được quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ
luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Hội đồng xét xử sẽ xem xét
các tình tiết này để giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo khi lượng hình.
{2.4} Về áp dụng Điều 54 của Bộ luật Hình sự: Các bị cáo T, C và N có nhiều
tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm nh sự quy định tại điểm s khoản 1 (02 tình tiết
giảm nhẹ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải) Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm
2015 (sửa đổi, bổ sung m 2017) nên Hội đồng xét xử áp dụng Điều 54 của Bộ
luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) để quyết định hình phạt dưới
mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng.
{2.5} Về trách nhiệm dân sự: Bị hại Ngọc M đã nhận lại tài sản và không
có yêu cầu gì thêm.
{2.6} Về xử vật chứng: Đối với 01 cây kiếm bằng kim loại dài 70cm, lưỡi
kiếm dài 49 cm, sơn màu vàng, chuôi kiếm bằng g dài 21cm công cụ dùng vào
việc phạm tội không giá trị sử dụng nên Hội đồng xét xxét thấy cần tịch thu
tiêu hủy theo quy định tại Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung
năm 2017) và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 là phù hợp quy định
pháp luật.
Đối với 01 xe nhãn hiệu PIAGO, loại xe VESPA, màu sơn trắng, BKS
431-500.03, số máy M669M5052394, số khung 6500EV038610) là phương tiện bị
cáo Nguyễn Kim T sử dụng đđi đến nông Ngọc C thực hiện hành vi
phạm tội. Quá trình điều tra, xác định xe này thuộc sở hữu của Nguyễn Kim
Tr (là chị gái của bị cáo T), hiện bà Tr đang đi xuất khẩu lao động tại Nga
chuyển giao quyền quản lý, sdụng xe cho Nguyễn Thị L (là mẹ ruột của bị
cáo T). L không biết việc bị cáo T sử dụng xe để phạm tội nên Hội đồng xét xử
xét thấy trả lại xe cho chủ quản lý hợp pháp bà Lê là phù hợp.
Trong quá trình điều tra Công an huyện Đ đã tiến hành trả lại 01 chiếc xe mô
nhãn hiệu YAMAHA, loại xe EXCITER, màu sơn cam đen, BKS 92E1-
477.69, số máy G3D4E817528, số khung 1010JY052092 (đã qua sử dụng) cho bị
hại Võ Ngọc M chủ sở hữu là phù hợp nên không đề cập giải quyết.
{2.7} Vvấn đề liên quan đến vụ án: Bị cáo Nguyễn Kim T hành vi
“Không đăng ký ngành nghề kinh doanh có điều kiện về an ninh trật tự mà cho vay
tiền cầm cố tài sản nhưng lãi suất cho vay vượt quá tlệ lãi suất theo quy định
của Bộ luật n sự”, Uỷ ban nhân dân huyện Đ đã ra Quyết định xử phạt vi phạm
7
hành chính lĩnh vực phòng chống tệ nạn hội đối với Nguyễn Kim T phù
hợp.
Đối với xe nhãn hiệu YAMAHA, loại xe SIRIUS, màu đen đỏ, BKS
92E1-139.56 phương tiện bị cáo Nguyễn Hữu C sử dụng để đi đến nhà ông
Ngọc C thực hiện hành vi phạm tội. Quá trình điều tra, xác định xe này thuộc sở
hữu của Trần Thị Hồng N, bà N không biết việc bị cáo C mượn xe để phạm tội nên
Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đ không đề cập xử lý là phù hợp.
Đối với Ngô Thanh H người đi cùng các bị cáo Lê Nguyễn Kim T, Nguyễn
Hữu C và Nguyễn Đức N đến nhà của bị hại Võ Ngọc M. Xét thấy H tuy có đồng ý
dẫn các bị cáo đến trang trại của bị hại M, nhưng việc vào nhà của M để cưỡng
đoạt tài sản là chủ đích của bị cáo T, H không biết, không tham gia giúp sức, do đó
không đề cập xử lý.
Đối với Đặng Thị Thu Th người đồng ý để b cáo T gửi xe BKS
92E1-477.69 tại nhà, Th không biết xe trên do bị cáo T cưỡng đoạt của
người khác nên không đề cập xử lý là phù hợp.
{2.8} Về án phí: Các bị cáo Nguyễn Kim T, Nguyễn Hữu C Nguyễn
Đức N phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
1. Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Kim T, Nguyễn Hữu C Nguyễn Đức
N phạm tội: “Cưỡng đoạt tài sản”.
- Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 170; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38;
Điều 54 của Bộ luật Hình snăm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) cho cả ba bị
cáo T, C và N.
+ Xử phạt bcáo Lê Nguyễn Kim T 30 (Ba mươi) tháng ; thời hạn chấp
hành hình phạt tù được tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam là ngày 02/11/2022.
+ Xử phạt bị cáo Nguyễn Hữu C 24 (Hai mươi bốn) tháng ; thời hạn chấp
hành hình phạt tù được tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam là ngày 03/11/2022.
+ Xử phạt bị cáo Nguyễn Đức N 18 (Mười tám) tháng ; thời hạn chấp hành
hình phạt tù được tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam là ngày 23/02/2023.
2. Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)
và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
Tịch thu tiêu hủy 01 (Một) cây kiếm bằng kim loại dài 70cm, lưỡi kiếm dài 49
cm, sơn màu vàng, chuôi kiếm bằng gỗ dài 21cm.
(Vật chứng trên đang được tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đ).
3. Căn cứ Nghị quyết s: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng
án phí và lệ phí Tòa án.
Buộc các bị cáo Lê Nguyễn Kim T, Nguyễn Hữu C và Nguyễn Đức N mỗi bị
cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Về quyền kháng cáo: Các bị cáo, người quyền lợi nghĩa vụ liên quan
mặt tại phiên tòa quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ
ngày tuyên án sơ thẩm. Những người tham gia tố tụng vắng mặt tại phiên tòa
quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án
hoặc bản án được niêm yết.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
8
- Các cơ quan tiến tố tụng; Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà
- Người tham gia tố tụng;
- Chi cục THADS huyện Đại Lộc;
- Vụ Giám đốc kiểm tra I);
- Lưu hồ sơ vụ án.
Lê Tự Soái
9
10
Tải về
Bản án số 34/2023/HS-ST Bản án số 34/2023/HS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất