Bản án số 32/2025/DS-PT ngày 10/09/2025 của TAND tỉnh Quảng Trị về tranh chấp hợp đồng mua bán nhà
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 32/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 32/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 32/2025/DS-PT
| Tên Bản án: | Bản án số 32/2025/DS-PT ngày 10/09/2025 của TAND tỉnh Quảng Trị về tranh chấp hợp đồng mua bán nhà |
|---|---|
| Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng mua bán nhà |
| Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
| Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Quảng Trị |
| Số hiệu: | 32/2025/DS-PT |
| Loại văn bản: | Bản án |
| Ngày ban hành: | 10/09/2025 |
| Lĩnh vực: | Dân sự |
| Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Thông tin về vụ/việc: | Công ty CP R - ông Đặng Hữu Q tranh chấp HĐ mua bán nhà ở hình thành trong tương lai |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TỈNH QUẢNG TRỊ Độc lập -Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 32/2025/DSPT
Ngày: 10/9/2025
“V/v Tranh chấp hợp đồng mua bán
nhà ở hình thành trong tương lai”
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG TRỊ
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Bà Hoàng Thị Thanh Nhàn
Các Thẩm phán: Dương Viết Hải và bà Từ Thị Hải Dương
- Thư ký phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Tú Anh - Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh
Quảng Trị.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Trị: Bà Nguyễn Thị Lan
Anh – Kiểm sát viên tham gia phiên toà.
Trong ngày 10 tháng 9 năm 2025, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị
xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 19/2025/TLPT- DS ngày 16
tháng 7 năm 2025, về việc “Tranh chấp hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong
tương lai”. Do Bản án dân sự sơ thẩm số 22/2025/DS-ST ngày 05/6/2025 của Toà
án nhân dân thành phố Đồng Hới (nay là Tòa án nhân dân khu vực 1 – tỉnh Quảng
Trị) bị kháng cáo, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 24/2025/QĐ-
PT ngày 08/8/2025, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Công ty cổ phần R. Địa chỉ: Số 52-54 đường V, phường A,
thành phố Đà Nẵng (Số 52-54, đường V, phường A, quận S, thành phố Đà Nẵng
cũ). Đại diện theo pháp luật: Ông Trần Ngọc T, chức vụ: Tổng Giám đốc; Đại diện
theo ủy quyền:
1.1. Ông Phạm Văn V, chức vụ: Phó Tổng giám đốc khối vận hành (theo
giấy ủy quyền số: 79/2024/RGG – GUQ ngày 24/10/2024); vắng mặt
1.2. Ông Trần Văn M, sinh năm: 1976, chức vụ: Giám đốc điều hành dự án
(theo giấy ủy quyền số: 80/2024/RGG – GUQ ngày 24/10/2024); vắng mặt
1.3. Bà Thái Thị H, sinh năm: 1997 – chức vụ: Chuyên viên pháp chế doanh
nghiệp (theo giấy ủy quyền số: 81/2024/RGG – GUQ ngày 24/10/2024). Có mặt
2. Bị đơn: Ông Đặng Hữu Q, sinh năm: 1959. Địa chỉ: Số 78 đường H,
phường Đ, tỉnh Quảng Trị (Số 78 đường H, phường B, thành phố Đ, tỉnh Quảng
Bình cũ). Ông Quang có mặt
2
Đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Thế T, sinh năm: 1983; địa chỉ: đường
L, phường Đ, tỉnh Quảng Trị (đường L, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình cũ). Có mặt
khi xét xử, vắng mặt khi tuyên án.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
3.1. Bà Hoàng Thị L, sinh năm: 1964; Địa chỉ: Số 79 đường H, phường Đ,
tỉnh Quảng Trị (Số 79 đường H, phường B, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình cũ).
Vắng mặt.
Đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Thế T, sinh năm: 1983; địa chỉ: đường
L, phường Đ, tỉnh Quảng Trị (đường L, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình cũ). Có mặt
khi xét xử, vắng mặt khi tuyên án.
3.2. Ngân hàng TMCP Q; Địa chỉ trụ sở chính: Số 18 đường L, phường Y,
thành phố Hà Nội (Số 18 đường L, phường T, quận C, TP. Hà Nội cũ); Người đại
diện theo pháp luật: Ông Lưu Trung T - Chức vụ: Chủ tịch Hội đồng quản trị; Đại
diện theo ủy quyền: Ông Trần Văn Đ - Giám đốc Ngân hàng TMCP Q - Chi nhánh
Đà Nẵng; Địa chỉ: Tầng T, tầng L, tầng 6, số 174 đường L, phường H, thành phố
Đà Nẵng (Tầng T, tầng L tầng 6, số 174 đường L, phường H, quận H, thành phố
Đà Nẵng cũ). Đại diện theo ủy quyền tham gia tố tụng: Ông Hoàng Văn N. Chuyên
viên xử lý nợ. Địa chỉ: Số 18 đường Q, phường Đ, tỉnh Quảng Trị (Số 18 đường Q,
phường Đ, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình cũ). Có mặt
Do có kháng cáo của nguyên đơn ông Đặng Hữu Q.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
* Trong đơn khởi kiện đề ngày 27/6/2024 và lời khai trong quá trình tố
tụng, ông Đặng Hữu Q và người đại theo ủy quyền của ông Q thống nhất trình
bày:
Ngày 14/9/2022, ông Đặng Hữu Q ký Hợp đồng mua bán nhà ở hình thành
trong tương lai số BN1LK2045/2022/HĐMB-RLQB với Công ty Cổ phần Đ (nay
là Công ty cổ phần R) để mua căn hộ tại lô LK2.51, thuộc Dự án khu đô thị Bảo
Ninh 1, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình, giá mua bán là 13.268.656.000 đồng. Ông
Q đã thanh toán tổng cộng 11.941.790.400 đồng (90% giá trị căn hộ), gồm 25%
bằng vốn tự có, tương ứng số tiền 3.317.164.000 và 65% tương ứng số tiền
8.624.626.400 đồng do Ngân hàng TMCP Q cho vay theo thỏa thuận ba bên và
hợp đồng vay.
Tuy nhiên, đến ngày 08/12/2023, Công ty cổ phần R thông báo ông Q còn
nợ 5% tương ứng 663.432.800 đồng và cho rằng ông Q vi phạm nghĩa vụ thanh
toán, dù khoản này thuộc trách nhiệm giải ngân của ngân hàng. R cũng đơn
phương ngừng hỗ trợ lãi suất vay ngân hàng từ tháng 12 năm 2023. Ngoài ra, tính
đến tháng 9 năm 2023, R chưa bàn giao nhà là vi phạm tiến độ bàn giao nhà đã
cam kết (sau 360 ngày kể từ thời điểm khởi công xây dựng vào tháng 11/2021), vi
phạm khoản 6, Điều 12 của hợp đồng. Do đó, ông Q có quyền đơn phương chấm
dứt hợp đồng mua bán nhà ở đã ký kết và yêu cầu Công ty cổ phần R bồi thường.
3
Cụ thể, ông Q khởi kiện yêu cầu Tòa án:
- Tuyên bố chấm dứt Hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai số
BN1LK2045/2022/HĐMB-RLQB ký ngày 14/9/2022 do Công ty R vi phạm nghĩa
vụ bàn giao nhà.
- Buộc Công ty R hoàn trả toàn bộ số tiền mà ông Q đã thanh toán là
11.941.790.400 đồng.
- Buộc Công ty R thanh toán lãi chậm trả với mức lãi suất là 0,05%/ngày
tính trên tổng giá trị mà ông Q đã thanh toán nói trên từ ngày 23/10/2023 (45 ngày
kể từ ngày 07/9/2023) đến ngày khởi kiện 27/6/2024 là 245 ngày: 11.941.790.400
đồng x 0,05% x 245 = 1.462.869.324 đồng.
- Buộc Công ty R thanh toán khoản tiền lãi phát sinh từ đợt thanh toán đầu
tiên (14/9/2022 đến 27/6/2024) là 580.503.700 đồng.
Tổng cộng toàn bộ số tiền mà ông Đặng Hữu Q khởi kiện yêu cầu Công ty
Cổ phần R phải thanh toán là 13.985.163.424 đồng.
Ông Đặng Hữu Q không chấp nhận yêu cầu phản tố của Công ty cổ phần R,
không chấp nhận yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Ngân
hàng TMCP Q.
* Người đại diện theo ủy quyền của Công ty cổ phần R (R) trình bày:
Về việc ký kết hợp đồng mua bán căn hộ và tiến độ thanh toán như ông
Đặng Hữu Q trình bày là đúng. Công ty cổ phần R không đồng ý với toàn bộ yêu
cầu khởi kiện của ông Đặng Hữu Q. Công ty cổ phần R đã thực hiện đúng Hợp
đồng mua bán nhà hình thành trong tương lai số BN1LK2045/2022/HĐMB-RLQB
ngày 14/9/2022, ông Q mới là bên vi phạm nghĩa vụ thanh toán, cụ thể:
Về tình trạng pháp lý: Công ty cổ phần R là Chủ đầu tư và đại diện liên danh
thực hiện Dự án Khu đô thị Bảo Ninh 1 (theo Quyết định số 855/QĐ-UBND ngày
24/03/2020 về việc phê duyệt Kết quả lựa chọn nhà đầu tư thực hiện Dự án Khu đô
thị Bảo Ninh 1 và Hợp đồng ủy quyền với Công ty Cổ phần Tập đoàn Đ ngày
15/12/2021). Tại thời điểm ký hợp đồng, Công ty có đầy đủ tư cách pháp lý và
điều kiện để ký hợp đồng mua bán căn nhà LK2.51 theo Văn bản số 1138/SXD-
QLN ngày 30/05/2022 của Sở Xây dựng tỉnh Quảng Bình về việc thông báo nhà ở
hình thành trong tương lai đủ điều kiện được bán, cho thuê mua.
Ngày 28/12/2022, nhà đã được xây dựng hoàn thành phần thô và được bàn
giao cho ông Q đúng tiến độ, có biên bản bàn giao ký ngày 28/12/2022. Đến tháng
07/2023, đã hoàn thành nghiệm thu và đủ điều kiện cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất và nhà ở. Ngày 31/10/2022, đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất căn LK2.51.
Ngày 13/01/2023, Ngân hàng TMCP Q đã giải ngân số tiền 8.642.626.400
đồng cho ông Q vay để thanh toán tiền mua căn hộ nói trên.
Theo hợp đồng đã ký, ông Q phải thanh toán 5% giá trị sản phẩm còn lại
tương ứng với số tiền 663.432.800 đồng trước ngày 15/01/2023. Tại phụ lục 02 của
Hợp đồng quy định về tiến độ thanh toán “Chậm nhất là ngày 15/01/2023 hoặc
Bên B nhận được Thông báo từ Công ty cổ phần Đ về việc căn nhà đủ điều kiện để
cấp giấy chứng nhận và sang tên bên B (tùy thuộc điều kiện nào đến trước)…”.
Như vậy, căn cứ quy định tại Hợp đồng và Thông báo việc căn nhà đủ điều
4
kiện được cấp giấy chứng nhận thì ngày 15/01/2023 là ngày phát sinh nghĩa vụ
thanh toán số tiền 663.432.800 đồng của bên mua nhà. Tuy nhiên, từ ngày
03/02/2023 cho đến 23/4/2024, Công ty R đã gửi nhiều thông báo yêu cầu thanh
toán, ông Q vẫn không thực hiện. Việc ông Q chậm thanh toán dẫn đến ngân hàng
không giải ngân cho vay để thanh toán 5% giá trị còn lại của sản phẩm. Tính đến
nay, tổng số tiền ông Q còn phải thanh toán cho Công ty cổ phần R là
1.326.865.600 đồng, tương ứng với 10% giá trị còn lại của căn hộ.
Ngày 09/12/2024, Tòa án nhân dân thành phố Đồng Hới đã thụ lý yêu cầu
phản tố của Công ty cổ phần R, cụ thể như sau: Công ty cổ phần R yêu cầu Tòa án
buộc ông Đặng Hữu Q tiếp tục thực hiện Hợp đồng mua bán nhà hình thành trong
tương lai số BN1LK2045/2022/HĐMB-RLQB, cụ thể là phải thanh toán cho Công
ty cổ phần R số tiền là: 1.549.447.304 đồng. Trong đó: Số tiền gốc còn lại phải
thanh toán: 1.326.865.600 đồng; Số tiền lãi phải thanh toán: 663.432.800 đồng x
0,05%/ngày x 671 ngày là 222.581.704 đồng (Lãi chỉ tính trên số tiền: 663.432.800
đồng, tạm tính từ ngày 15/01/2023 đến ngày 15/11/2024).
* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập Ngân hàng
TMCP Q(MB) trình bày:
Ông Đặng Hữu Q và bà Hoàng Thị L có vay vốn tại Ngân hàng TMCP Q
theo Hợp đồng tín dụng số 0001.22.304.23220074.TD ngày 28/12/2022 và các
Khế ước nhận nợ kèm theo. Tính đến ngày 24/11/2024, dư nợ của ông Đặng Hữu
Q và bà Hoàng Thị L tại MB là 8.797.130.452 đồng, gồm: Nợ gốc: 8.574.717.499
đồng; Nợ lãi: 222.412.953 đồng.
Tài sản bảo đảm: Quyền tài sản phát sinh từ Hợp đồng mua bán nhà ở riêng
lẻ hình thành trong tương lai số BN1LK2045/2022/HĐMB-RLQB ngày
14/09/2022 ký giữa Ông Đặng Hữu Q và Công ty cổ phần Đ, đối với căn hộ ký
hiệu LK2.51 (4.5 tầng, diện tích sàn xây dựng khoảng 409,42m²), thuộc dự án R tại
xã Bảo Ninh, TP. Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình.
Sau khi vay vốn, ông Q và bà L đã không thực hiện đúng nghĩa vụ trả gốc và
lãi theo đúng cam kết trong hợp đồng, khế ước nhận nợ nêu trên. Vì vậy, đến ngày
26/9/2024, toàn bộ khoản nợ của ông Q, bà L tại MB đã chuyển nợ quá hạn. Ngân
hàng đã nhiều lần làm việc với ông Q, bà L để yêu cầu trả nợ nhưng bên vay không
hợp tác. Ngày 09/12/2024, Tòa án nhân dân thành phố Đồng Hới đã thụ lý yêu cầu
độc lập của Ngân hàng đối với ông Đặng Hữu Q và bà Hoàng Thị L, cụ thể:
MB yêu cầu Tòa án buộc ông Đặng Hữu Q và bà Hoàng Thị L phải thanh
toán toàn bộ khoản nợ (nợ gốc, nợ lãi, tiền phạt) phát sinh từ Hợp đồng tín dụng số
0001.22.304.23220074.TD ngày 28/12/2022 và các Khế ước nhận nợ đã ký kết.
Trường hợp bên vay không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ
trả nợ, đề nghị Tòa án tuyên MB có quyền yêu cầu Cơ quan thi hành án kê biên,
phát mại tài sản bảo đảm để thu hồi nợ.
- Trường hợp Hợp đồng mua bán nhà ở bị chấm dứt, MB có quyền thay mặt
bên vay nhận khoản thanh toán từ Công ty cổ phần R để thu hồi nợ. Phần tiền còn
lại (nếu có) sẽ được chuyển vào tài khoản của ông Đặng Hữu Q tại MB.
- Nếu số tiền thu được từ xử lý tài sản bảo đảm không đủ thanh toán toàn bộ
khoản nợ, ông Q và bà L vẫn phải tiếp tục thanh toán phần còn thiếu cho MB.
5
* Trình bày của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan bà Hoàng Thị
L:
Bà Hoàng Thị L và người đại diện theo ủy quyền của bà L thống nhất như ý
kiến trình bày của ông Đặng Hữu Q.
* Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 22/2025/DS-ST ngày 05/6/2025 của Tòa án
nhân dân thành phố Đi, tỉnh Quảng Bình (nay là Tòa án nhân dân khu vực 1 – tỉnh
Quảng Trị) đã quyết định:
1. Đình chỉ xét xử yêu cầu khởi kiện của Đặng Hữu Q đối với Công ty cổ
phần R. Xác định lại địa vị tố tụng trong vụ án: Nguyên đơn trở thành bị đơn và bị
đơn trở thành nguyên đơn.
2. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công ty cổ phần R đối với
bị đơn ông Đặng Hữu Q.
Buộc ông Đặng Hữu Q tiếp tục thực hiện Hợp đồng mua bán nhà hình thành
trong tương lai số BN1LK2045/2022/HĐMB-RLQB ký ngày 14/9/2022 giữa bên
mua ông Đặng Hữu Q với bên bán Công ty cổ phấn Đất Xanh Miền Trung (nay là
Công ty cổ phần R). Buộc ông Đặng Hữu Q có nghĩa vụ thanh toán cho Công ty cổ
phần R số tiền còn lại của Hợp đồng mua bán nhà với tổng số tiền là
1.616.122.301 đồng (Một tỷ, sáu trăm mười sáu triệu, một trăm hai mươi hai
nghìn, ba trăm linh một đồng). Trong đó:
Số tiền gốc còn lại phải thanh toán: 1.326.865.600 đồng (Một tỷ, ba trăm
hai mươi sáu triệu, tám trăm sáu mươi lăm nghìn, sáu trăm đồng);
Số tiền lãi phải thanh toán: 663.432.800 đồng x 0,05%/ 1 ngày x 872 ngày =
289.256.701 đồng (Lãi chỉ tính trên số tiền: 663.432.800 đồng, tạm tính từ ngày
15/01/2023 đến ngày xét xử sơ thẩm là 05/06/2025)
Kể từ ngày tiếp theo của ngày 05/6/2025 cho đến khi thi hành án xong, ông
Đặng Hữu Q còn phải thanh toán cho Công ty cổ phần R khoản tiền lãi của số tiền
còn phải thi hành án theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong Hợp đồng
mua bán nhà hình thành trong tương lai số BN1LK2045/2022/HĐMB-RLQB ký
ngày 14/9/2022
3. Chấp nhận yêu cầu độc lập của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan
Ngân hàng TMCP Q đối với ông Đặng Hữu Q và bà Hoàng Thị L.
Buộc ông Đặng Hữu Q và bà Hoàng Thị L phải trả cho Ngân hàng TMCP Q
số tiền nợ tính đến ngày 05/6/2025 là: 9.327.964.670 đồng (Chín tỷ, ba trăm hai
mươi bảy triệu, chín trăm sáu mươi tư nghìn, sáu trăm bảy mươi đồng), trong đó:
Nợ gốc: 8.624.626.400 đồng; nợ lãi trong hạn: 714.067.957 đồng; nợ lãi quá hạn:
39.179.214 đồng
Kể từ ngày tiếp theo của ngày 05/6/2025 cho đến khi thi hành án xong, ông
Đặng Hữu Q và bà Hoàng Thị L còn phải thanh toán cho Ngân hàng TMCP Q
khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất mà các bên thỏa
thuận trong Hợp đồng cho vay số 0001.22.304.23220074.TD, Văn bản nhận nợ
LD2301328885 ngày 28/12/2022.
Trường hợp trong hợp đồng tín dụng đã ký kết các bên có thỏa thuận về việc
điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng cho vay thì lãi suất
6
mà khách hàng vay phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng cho vay theo quyết
định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất
của ngân hàng cho vay.
Trong trường hợp ông Đặng Hữu Q và bà Hoàng Thị L không thực hiện
nghĩa vụ hoặc thực hiện nghĩa vụ trả nợ không đầy đủ cho Ngân hàng TMCP Q thì
Ngân hàng có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền kê biên,
xử lý tài sản đã thế chấp là Quyền tài sản phát sinh từ Hợp đồng mua bán/ nhà ở
riêng lẻ hình thành trong tương lai số BN1LK2045/2022/HĐMB-RLQB ngày
14/09/2022 và các phụ lục, văn bản sửa đổi, bổ sung hợp đồng mua bán kèm theo
ký kết giữa ông Q và Công ty Cổ phần Đ (Chủ đầu tư) về việc mua bán/chuyển
nhượng Nhà ở riêng lẻ, Số tầng 4.5, Ký hiệu nhà ở: LK2.51, tổng diện tích sàn xây
dựng (tạm tính): 409,42 m
2
(theo bản vẽ), Mục đích sử dụng: Nhà ở riêng lẻ, Thời
hạn sử dụng: Lâu dài thuộc dự án Khu đô thị Bảo Ninh 1 1 theo Hợp đồng thế
chấp số 78842.22.304.23220074.BĐ ngày 28/12/2022 ký giữa Ngân hàng TMCP
Qvà ông Đặng Hữu Q, bà Hoàng Thị L.
Trường hợp toàn bộ số tiền thu được từ việc bán/xử lý tài sản bảo đảm vẫn
không đủ thanh toán hết các nghĩa vụ trả nợ của ông Đặng Hữu Q và bà Hoàng
Thị L đối với Ngân hàng TMCP Qthì ông Đặng Hữu Q và bà Hoàng Thị L vẫn
phải có nghĩa vụ thanh toán hết khoản nợ đó cho Ngân hàng TMCP Q.
Trường hợp Hợp đồng mua bán nhà hình thành trong tương lai số
BN1LK2045/2022/HĐMB-RLQB bị chấm dứt thì các bên thực hiện theo Cam kết
hợp tác quản lý tài sản ba bên số 17177.22.304.23220074.CK ký giữa ông Đặng
Hữu Q, bà Hoàng Thị L, Công ty cổ phần Đ và Ngân hàng TMCP Q.
Ngoài ra, Bản án còn quyết định về án phí và quyền kháng cáo của đương sự
theo quy định pháp luật.
Ngày 19/6/2025, ông Đặng Hữu Q kháng cáo, đề nghị không chấp nhận toàn
bộ yêu cầu phản tố của bị đơn, không chấp nhận toàn bộ yêu cầu độc lập của người
có quyền, nghĩa vụ liên quan.
Tại phiên tòa phúc thẩm ngày 10/9/2025, ông Đặng Hữu Q vẫn giữ nguyên
nội dung kháng cáo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Trị phát biểu quan điểm giải
quyết vụ án: Về tố tụng: Trong quá trình tiến hành tố tụng, giải quyết vụ án người
tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố
tụng dân sự. Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo,
giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên
toà và căn cứ kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về tố tụng: Ngày 05/6/2025 Tòa án nhân thành phố Đồng Hới (nay là
Tòa án nhân dân khu vực 1 – tỉnh Quảng Trị) xét xử và ban hành bản án dân sự sơ
thẩm số 22/2025/DS-ST. Trong thời hạn, bị đơn ông Đặng Hữu Q làm đơn kháng
7
cáo đúng trong hạn luật định, đã nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm đúng quy định
tại Điều 272 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
[2]. Về nội dung: Kháng cáo của ông Đặng Hữu Q cho rằng Hội đồng xét xử
sơ thẩm vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng khi không tạm đình chỉ vụ án để chờ
kết quả giải quyết của cơ quan liên quan và sai lầm nghiêm trọng trong việc áp
dụng pháp luật dẫn đến việc ra bản án không đúng, gây thiệt hại đến lợi ích hợp
pháp của ông Q. Hội đồng xét xử thấy:
[2.1]. Về kháng cáo không đình chỉ vụ án để chờ kết quả giải quyết của cơ
quan Thuế và Sở Xây dựng tỉnh Quảng Bình (nay là tỉnh Quảng Trị).
Nhận thấy, cấp sơ thẩm đã đưa vụ án ra xét xử vào ngày 05/6/2025 nhưng
ngày 29/5/2025 Chi Cục thuế khu vực XI đã có Kết luận số 2458/KL-CCTKV.XI,
kết luận việc ông Đặng Hữu Q tố cáo Công ty cổ phần R bán hàng không xuất hóa
đơn là không đúng. Đối với việc ông Q gửi đơn tố cáo đến Sở Xây dựng nhưng
ngày 27/5/2025 đã có Biên bản ghi nhận việc rút tố cáo của ông Đặng Hữu Q. Như
vậy, trước khi xét xử sơ thẩm đã có kết quả giải quyết của của các cơ quan liên
quan nên không có lý do để tạm đình chỉ vụ án theo Điều 214 TTBLDS.
[2.1]. Về kháng cáo cho rằng cấp sơ thẩm đã sai lầm nghiêm trọng trong
việc áp dụng pháp luật dẫn đến việc ra bản án không đúng, gây thiệt hại đến lợi ích
hợp pháp của ông Q. HĐXX thấy:
Cả nguyên đơn và bị đơn đều thống nhất xác nhận sự việc hai bên đã ký kết
Hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai số BN1LK2045/2022/HĐMB-
RLQB ký ngày 14/9/2022 với nội dung ông Đặng Hữu Q đồng ý mua và Công ty
cổ phần R đồng ý bán tài sản là căn hộ ký hiệu LK2.51, thuộc Dự án Khu đô thị
Bảo Ninh 1, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình, giá mua bán là 13.268.656.000 đồng.
Hợp đồng được ký kết giữa ông Đặng Hữu Q với người đại diện hợp pháp của
Công ty cổ phần R, thỏa mãn các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng dân sự theo
quy định tại các Điều 117, 119; các điều 385, 430 của Bộ luật dân sự, Luật kinh
doanh bất động sản. Vì vậy, làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa các bên tham
gia ký kết hợp đồng.
[2.1.1]. Về việc đình chỉ yêu cầu khởi kiện của ông Đặng Hữu Q do ông Q
rút yêu cầu là hoàn toàn tự nguyện, phù hợp với quy định của pháp luật, bị đơn
không có ý kiến về việc rút khởi kiện của ông Q, đồng thời bị đơn vẫn giữ nguyên
yêu cầu độc lập nên cấp sơ thẩm đã căn cứ vào Điều 244, 245 BLTTDS chấp nhận
và đình chỉ xét xử đối với yêu cầu của ông Q, xác định lại địa vị tố tụng của các
đương sự là hoàn toàn đúng quy định.
[2.1.2]. Xét về yêu cầu của Công ty cổ phần R: Nguyên đơn Công ty cổ phần
R buộc bị đơn ông Đặng Hữu Q tiếp tục thực hiện Hợp đồng mua bán nhà hình
thành trong tương lai số BN1LK2045/2022/HĐMB-RLQB, phải trả số tiền còn lại
của hợp đồng đã ký kết với tổng số tiền gốc và lãi là: 1.616.122.301 đồng (Một tỷ,
sáu trăm mười sáu triệu, một trăm hai mươi hai nghìn, ba trăm linh một đồng).
Trong đó: Số tiền gốc còn lại phải thanh toán:1.326.865.600 đồng, số tiền lãi phải
thanh toán: 663.432.800 đồng x 0,05%/ngày x 872 ngày = 289.256.701 đồng (Lãi
8
chỉ tính trên số tiền: 663.432.800 đồng, tạm tính từ ngày 15/01/2023 đến ngày xét
xử sơ thẩm là 05/06/2025). Hội đồng xét xử xét thấy:
Công ty cổ phần R và ông Đặng Hữu Q đã ký Hợp đồng mua bán nhà hình
thành trong tương lai số BN1LK2045/2022/HĐMB-RLQB. Giá mua bán nhà theo
quy định tại Điều 3 và phụ lục 2 của Hợp đồng là 13.268.656.000 đồng, tiến độ
thanh toán được chia làm 03 đợt. Đến nay, nguyên đơn xác nhận bị đơn đã thanh
toán được số tiền 11.941.790.400 đồng, tương ứng 90% giá trị sản phẩm; còn phải
thanh toán 1.326.865.600 đồng, tương ứng 10% giá trị sản phẩm.
Tại khoản 2 Điều 4 của Hợp đồng có quy định: “Bên Mua thực hiện việc
thanh toán cho Bên Bán theo tiến độ thanh toán quy định tại Phụ lục 02 của Hợp
đồng này”. Tại Điểm a Khoản 2 Điều 9 Hợp đồng quy định nghĩa vụ của bên mua
là: “Thanh toán đầy đủ và đúng hạn theo quy định tại Hợp đồng”.
Tại Phụ lục 02 Hợp đồng về tiến độ thanh toán quy định ông Đặng Hữu Q
phải thanh toán số tiền 5% tổng giá trị sản phẩm, tương ứng 663.432.800 đồng vào
thời gian: “Chậm nhất là ngày 15/01/2023 hoặc Bên B nhận được thông báo từ
Công ty Cổ phần Đ về việc căn nhà đủ điều kiện để cấp giấy chứng nhận và sang
tên Bên B (tùy thuộc điều kiện nào đến trước) …”.
Như vậy, căn cứ quy định tại Hợp đồng và Thông báo về việc căn nhà đủ
điều kiện được cấp Giấy chứng nhận thì ngày 15/01/2023 là ngày phát sinh nghĩa
vụ thanh toán số tiền 663.432.800 đồng của bên mua. Từ ngày 03/02/2023 đến
ngày 23/4/2024 bên bán đã gửi các Thông báo yêu cầu bên mua ông Đặng Hữu Q
thực việc thanh toán theo tiến độ của Hợp đồng nhưng ông Quang không thực hiện.
Tức là bên mua đã vi phạm khoản 2 Điều 4, Khoản 2 Điều 9 Hợp đồng. Đồng thời,
do ông Đặng Hữu Q vi phạm nghĩa vụ thanh toán phần của mình nên Ngân hàng
cũng không đồng ý giải ngân tiếp khoản vay còn lại tương ứng 5% giá trị sản phẩm
để thanh toán do ông Đặng Hữu Q. Do đó, tổng số tiền mua căn hộ còn lại mà ông
Đặng Hữu Q cần phải thanh toán cho Công ty R là: 1.326.865.600 đồng (một tỷ ba
trăm hai mươi sáu triệu tám trăm sáu mươi lăm nghìn sáu trăm đồng), tương ứng
10% giá trị sản phẩm và tiền lãi phát sinh theo Hợp đồng đã ký.
Mặt khác, việc bên mua ông Đặng Hữu Q cho rằng do bên bán Công ty
Regal Group chậm thực hiện nghĩa vụ giao nhà nên bên mua có quyền không tiếp
tục thanh toán số tiền còn lại. Hội đồng xét xử thấy rằng: Về nội dung bàn giao
nhà, tại Phụ lục 01 của Hợp đồng quy định về thời hạn bàn giao dự kiến là: “Nhà
thô trong vòng 360 ngày kể từ ngày khởi công xây dựng (không kể các ngày thứ 7,
chủ nhật và ngày lễ) chưa bao gồm gói quà tặng... Bên Bán sẽ phát hành thông báo
cụ thể đến Bên Mua về thời gian bàn giao và thực hiện đúng các điều khoản quy
định tại Hợp đồng”. Thời điểm khởi công công trình là tháng 11/2021, như vậy sau
360 ngày, cộng thêm 115 ngày (các ngày thứ 7, chủ nhật và ngày lễ) thì thời hạn
cuối cùng mà bên bán phải bàn giao nhà là tháng 02/2023. Tuy nhiên, đến ngày
28/12/2022, giữa ông Q và Công ty R đã ký Biên bản bàn giao nhà thể hiện việc
bên bán Công ty R đã bàn giao toàn bộ phần thô căn nhà LK2.51 tại Khu đô thị
Bảo Ninh 1, thành phố Đ cho bên mua ông Đặng Hữu Q. Quá trình giải quyết vụ
án, ông Q cho rằng tại thời điểm hai bên ký Biên bản bàn giao nhà thì công trình
vẫn chưa hoàn thành nhưng ông buộc phải ký Biên bản bàn giao nhà nhằm đủ điều
9
kiện để Ngân hàng cho vay thanh toán. Tuy nhiên, ông Q không có tài liệu, chứng
cứ chứng minh về nội dung này. Tại biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày
07/01/2025 của Hội đồng cũng thể hiện tài sản mua bán hiện hữu là: Căn LK2.51
thuộc Dự án Khu đô thị - Du lịch Quốc tế Regal Legend Quảng Bình, “Khu đô thị
Bảo Ninh 1” tại thôn H, xã B, thành phố Đ. Về tài sản trên đất: Có 01 ngôi nhà cấp
3 gồm 4,5 tầng: Kết cấu móng bê tông cốt thép, kết hợp xây đá học hoặc gạch. Kết
cấu phần thân: Khung dầm, sàn bê tông cốt thép chịu lực, phần mái xây tường thu
hồi trên có lợp ngói. Tường xây bao che bằng gạch, dày khoảng 22cm tô trát hoàn
chỉnh, chiều cao trần khoảng 3,6m, cầu thang thô, nền nhà để nền bê tông, hệ thống
tường bao che bên ngoài ốp đá tự nhiên, trong nhà đã hoàn thiện phần thô. Hệ
thống cửa cuốn ở mặt tiền ngôi nhà, các hệ thống cửa khác bằng nhôm kính. Có hệ
thống ánh sáng bên ngoài ngôi nhà, hệ thống trong nhà chưa có, hệ thống bếp và
nhà vệ sinh chưa có.
Do đó, Hội đồng xét xử có cơ sở xác định thời điểm bàn giao nhà giữa bên
mua và bên bán là ngày 28/12/2022 như chứng cứ Biên bản bàn giao nhà nguyên
đơn cung cấp là đúng thực tế. Từ đó việc bên mua ông Đặng Hữu Q cho rằng bên
bán Công ty R đã chậm thực hiện nghĩa vụ bàn giao nhà nên ông có quyền đơn
phương chấm dứt hợp đồng theo khoản 6, Điều 12 của Hợp đồng là không có cơ sở
chấp nhận.
Về yêu cầu tính lãi: Căn cứ thỏa thuận của các bên quy định tại khoản 1
Điều 12 của hợp đồng đã ký về lãi “Trường hợp đến hạn thanh toán cho các đợt
thanh toán quy định tại khoản 2 Điều 4 hợp đồng mà bên mua không/chậm thanh
toán đúng tiến độ và đúng các hình thức được quy định thì bên bán có quyền yêu
cầu bên mua thanh toán ngay khoản tiền chậm thanh toán, đồng thời bên mua sẽ
chịu lãi suất chậm trả với mức lãi suất 0.05% ngày kể từ ngày bên mua vi
phạm…”. Theo đó, thời điểm xác định bên mua vi phạm tiến độ thanh toán là ngày
15/01/2023, được xác định là ngày phát sinh lãi đối với số tiền 5% giá trị sản phẩm
mà bên mua có nghĩa vụ thanh toán theo quy định tại Phụ lục 02 của Hợp đồng. Từ
những phân tích trên, Hội đồng xét xử sơ thẩm xác định: Hợp đồng mua bán nhà ở
hình thành trong tương lai số BN1LK2045/2022/HĐMB-RLQB ký ngày 14/9/2022
giữa bên mua ông Đặng Hữu Q với bên bán Công ty cổ phần R vẫn còn hiệu lực,
bên bán không vi phạm nghĩa vụ về việc bàn giao nhà, bên mua vi phạm nghĩa vụ
thanh toán nên toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công ty cổ phần R đối
với bị đơn ông Đặng Hữu Q là có cơ sở, cần được chấp nhận.
[2.1.3.] Xét yêu cầu yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan
Quá trình giải quyết vụ án, bên vay ông Đặng Hữu Q, bà Hoàng Thị L và
bên cho vay Ngân hàng TMCP Q (MB) thống nhất thừa nhận đã cùng nhau ký Hợp
đồng cho vay số 0001.22.304.23220074.TD, Văn bản nhận nợ LD2301328885
ngày 28/12/2022 nên thuộc trường hợp sự kiện không phải chứng minh theo Điều
92 Bộ luật tố tụng dân sự.
Việc ký kết hợp đồng tín dụng là hoàn toàn tự nguyện và tuân thủ các quy
định của pháp luật cả về hình thức và nội dung theo quy định tại Điều 385, 386,
388, 398, 401, 465, 466 Bộ luật dân sự năm 2015 và Điều 91, 95 Luật tổ chức tín
10
dụng 2010 sửa đổi bổ sung năm 2017. Thực hiện theo thỏa thuận trong hợp đồng
cho vay và thỏa thuận ba bên, ngân hàng MB đã giải ngân cho ông Đặng Hữu Q và
bà Hoàng Thị L số tiền vay 8.626.624.400 đồng bằng việc MB chuyển khoản cho
Công ty Regal Group để thanh toán tiền theo hợp đồng mua bán nhà ở riêng lẻ hình
thành trong tương lai ký kết giữa bên mua ông Đặng Hữu Q với bên bán Công ty
R. Tài sản đảm bảo là: Quyền tài sản phát sinh từ Hợp đồng mua bán/ nhà ở riêng
lẻ hình thành trong tương lai số BN1LK2045/2022/HĐMB-RLQB ngày
14/09/2022 và các phụ lục, văn bản sửa đổi, bổ sung hợp đồng mua bán kèm theo
ký kết giữa Ông/Bà Đặng Hữu Q và Công ty Cổ phần Đ.
Quá trình thực hiện hợp đồng, ông Đặng Hữu Q và bà Hoàng Thị L mới chỉ
thực hiện thanh toán được số tiền nợ gốc là 49.908.901 đồng và Công ty R hỗ trợ
trả lãi số tiền 1.601.463.161 đồng. Ngày 25/9/2024 ông Đặng Hữu Q và bà Hoàng
Thị L đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ nên kể từ ngày 26/9/2024 Ngân hàng TMCP Q
đã chuyển toàn bộ khoản vay sang nợ quá hạn và đề nghị thu hồi nợ trước hạn đối
khoản vay này là đúng với quy định Hợp đồng cho vay đã ký kết.
Kể từ thời điểm khoản vay bị chuyển nợ quá hạn, Ngân hàng TMCP Q đã
thực hiện thông báo nợ quá hạn đến ông Đặng Hữu Q và bà Hoàng Thị L và yêu
cầu ông, bà thanh toán nợ nhưng bị đơn đã không thanh toán. Như vậy, kể từ khi
phát sinh dư nợ, ông Đặng Hữu Q và bà Hoàng Thị L không thanh toán đúng hạn
theo cam kết trả nợ gốc và nợ lãi mà các bên đã thỏa thuận trong Hợp đồng cho
vay, Văn bản nhận nợ đã ký kết nên Ngân hàng TMCP Q khởi kiện yêu cầu Tòa án
buộc bị đơn ông Đặng Hữu Q và bà Hoàng Thị L thanh toán toàn bộ khoản nợ gốc
và các khoản nợ lãi phát sinh là có cơ sở chấp nhận.
Căn cứ quy định tại các Điều 91, 95 Luật các tổ chức tín dụng; Điều 463,
466 Bộ luật Dân sự, Hội đồng xét xử cần buộc ông Đặng Hữu Q và bà Hoàng Thị
L phải trả cho Ngân hàng TMCP Q số tiền nợ tạm tính đến ngày 05/6/2025 là:
9.327.964.670 đồng, trong đó: Nợ gốc: 8.624.626.400 đồng; nợ lãi trong hạn:
714.067.957 đồng nợ lãi quá hạn: 39.179.214 đồng và phải tiếp tục trả tiền lãi kể từ
sau ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi thanh toán xong nợ theo mức lãi suất mà các
bên đã thỏa thuận tại Hợp đồng tín dụng đã ký kết.
Về xem xét Hợp đồng thế chấp:
Để bảo đảm cho khoản vay của mình, ông Đặng Hữu Q và bà Hoàng Thị L
thế chấp tài sản thuộc quyền sở hữu của mình là Quyền tài sản phát sinh từ Hợp
đồng mua bán/ nhà ở riêng lẻ hình thành trong tương lai số
BN1LK2045/2022/HĐMB-RLQB ngày 14/09/2022 và các phụ lục, văn bản sửa
đổi, bổ sung hợp đồng mua bán kèm theo ký kết giữa ông Q và Công ty Cổ phần Đ
(Chủ đầu tư) về việc mua bán/chuyển nhượng Nhà ở riêng lẻ, Số tầng 4.5, Ký hiệu
nhà ở: LK2.51, tổng diện tích sàn xây dựng (tạm tính): 409,42 m2 (theo bản vẽ),
Mục đích sử dụng: Nhà ở riêng lẻ, Thời hạn sử dụng: Lâu dài thuộc dự án Khu đô
thị Bảo Ninh 1 theo Hợp đồng thế chấp số 78842.22.304.23220074.BĐ ngày
28/12/2022 ký giữa Ngân hàng TMCP Qvà ông Đặng Hữu Q, bà Hoàng Thị Lan.
Hợp đồng thế chấp nêu trên đã được công chứng hợp lệ và tài sản thế chấp
đã được đăng ký giao dịch bảo đảm theo đúng quy định của pháp luật nên có hiệu
lực kể từ thời điểm đăng ký. Trường hợp ông Đặng Hữu Q, bà Hoàng Thị L không
11
trả nợ cho Ngân hàng, thì tài sản đã thế chấp sẽ được xử lý để thu hồi nợ theo yêu
cầu của Ngân hàng TMCP Q là phù hợp với quy định tại Điều 298, 299, 318, 319,
322 Bộ luật dân sự nên cần được chấp nhận.
Trong trường hợp sau khi xử lý tài sản đảm bảo không đủ trả nợ thì ông
Đặng Hữu Q, bà Hoàng Thị L có nghĩa vụ tiếp tục trả nợ cho đến khi trả hết khoản
nợ cho Ngân hàng.
Trường hợp Hợp đồng mua bán bị chấm dứt thì các bên thực hiện theo Cam
kết hợp tác quản lý tài sản ba bên số 17177.22.304.23220074.CK ký giữa ông
Đặng Hữu Q, bà Hoàng Thị L, Công ty cổ phần Đ và Ngân hàng TMCP Q.
[2.1.4.] Như vậy, cấp sơ thẩm đã xem xét một cách toàn diện khi giải quyết
yêu cầu khởi kiện, yêu cầu độc lập căn cứ theo thỏa thuận của các bên, phù hợp với
quy định của pháp luật. Tại phiên tòa phúc thẩm, người kháng cáo không nộp thêm
chứng cứ mới nên kháng cáo của ông Quang là không có cơ sở để chấp nhận.
[3]. Về án phí phúc thẩm: Ông Đặng Hữu Q, bà Hoàng Thị L phải chịu án
phí nhưng do ông, bà là người cao tuổi, có đề nghị miễn án phí nên thuộc trường
hợp được miễn nộp tiền án phí dân sự phúc thẩm.
[4]. Các nội dung khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị
kháng nghị nên Hội đồng xét xử phúc thẩm không xem xét.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 308 BLTTDS; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14
ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa
án; Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn ông Đặng Hữu Q, giữ nguyên Bản án
sơ thẩm.
Áp dụng các điều: 116, 117, 118, 119, 299, 318, 319, 322, 385, 386, 388,
398, 401, 423, 463, 465, 466 Bộ luật dân sự; các điều 55, 57 Luật kinh doanh bất
động sản; các Điều 91, 95 Luật các tổ chức tín dụng; Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công ty cổ phần R đối với
bị đơn ông Đặng Hữu Q.
1.1. Buộc ông Đặng Hữu Q tiếp tục thực hiện Hợp đồng mua bán nhà hình
thành trong tương lai số BN1LK2045/2022/HĐMB-RLQB ký ngày 14/9/2022 giữa
bên mua ông Đặng Hữu Q với bên bán Công ty cổ phấn Đ (nay là Công ty cổ phần
R).
1.2. Buộc ông Đặng Hữu Q có nghĩa vụ thanh toán cho Công ty cổ phần R
số tiền còn lại của Hợp đồng mua bán nhà với tổng số tiền là 1.616.122.301 đồng
(Một tỷ, sáu trăm mười sáu triệu, một trăm hai mươi hai nghìn, ba trăm linh một
đồng). Trong đó:
Số tiền gốc còn lại phải thanh toán: 1.326.865.600 đồng (một tỷ, ba trăm hai
mươi sáu triệu, tám trăm sáu mươi lăm nghìn, sáu trăm đồng);
12
Số tiền lãi phải thanh toán: 663.432.800 đồng x 0,05%/ 1 ngày x 872 ngày =
289.256.701 đồng (Lãi chỉ tính trên số tiền: 663.432.800 đồng, tính từ ngày
15/01/2023 đến ngày xét xử sơ thẩm là 05/06/2025)
Kể từ ngày tiếp theo của ngày 05/6/2025 cho đến khi thi hành án xong, ông
Đặng Hữu Q còn phải thanh toán cho Công ty cổ phần R khoản tiền lãi của số tiền
còn phải thi hành án theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong Hợp đồng mua
bán nhà hình thành trong tương lai số BN1LK2045/2022/HĐMB-RLQB ký ngày
14/9/2022.
2. Chấp nhận yêu cầu độc lập của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan
Ngân hàng TMCP Qđối với ông Đặng Hữu Q và bà Hoàng Thị L.
Buộc ông Đặng Hữu Q và bà Hoàng Thị L phải trả cho Ngân hàng TMCP
Qsố tiền nợ tính đến ngày 05/6/2025 là: 9.327.964.670 đồng (Chín tỷ, ba trăm hai
mươi bảy triệu, chín trăm sáu mươi tư nghìn, sáu trăm bảy mươi đồng), trong đó:
Nợ gốc: 8.624.626.400 đồng; nợ lãi trong hạn: 714.067.957 đồng; nợ lãi quá hạn:
39.179.214 đồng
Kể từ ngày tiếp theo của ngày 05/6/2025 cho đến khi thi hành án xong, ông
Đặng Hữu Q và bà Hoàng Thị L còn phải thanh toán cho Ngân hàng TMCP
Qkhoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất mà các bên thỏa
thuận trong Hợp đồng cho vay số 0001.22.304.23220074.TD, Văn bản nhận nợ
LD2301328885 ngày 28/12/2022.
Trường hợp trong hợp đồng tín dụng đã ký kết các bên có thỏa thuận về việc
điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng cho vay thì lãi suất mà
khách hàng vay phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng cho vay theo quyết định
của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của
ngân hàng cho vay.
Trong trường hợp ông Đặng Hữu Q và bà Hoàng Thị L không thực hiện
nghĩa vụ hoặc thực hiện nghĩa vụ trả nợ không đầy đủ cho Ngân hàng TMCP Q thì
Ngân hàng có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền kê biên, xử
lý tài sản đã thế chấp là Quyền tài sản phát sinh từ Hợp đồng mua bán/ nhà ở riêng
lẻ hình thành trong tương lai số BN1LK2045/2022/HĐMB-RLQB ngày
14/09/2022 và các phụ lục, văn bản sửa đổi, bổ sung hợp đồng mua bán kèm theo
ký kết giữa ông Quang và Công ty Cổ phần Đ (Chủ đầu tư) về việc mua
bán/chuyển nhượng Nhà ở riêng lẻ, Số tầng 4.5, Ký hiệu nhà ở: LK2.51, tổng diện
tích sàn xây dựng (tạm tính): 409,42 m2 (theo bản vẽ), Mục đích sử dụng: Nhà ở
riêng lẻ, Thời hạn sử dụng: Lâu dài thuộc dự án Khu đô thị Bảo Ninh 1 1 theo Hợp
đồng thế chấp số 78842.22.304.23220074.BĐ ngày 28/12/2022 ký giữa Ngân hàng
TMCP Q và ông Đặng Hữu Q, bà Hoàng Thị L.
Trường hợp toàn bộ số tiền thu được từ việc bán/xử lý tài sản bảo đảm vẫn
không đủ thanh toán hết các nghĩa vụ trả nợ của ông Đặng Hữu Q và bà Hoàng Thị
L đối với Ngân hàng TMCP Q thì ông Đặng Hữu Q và bà Hoàng Thị L vẫn phải có
nghĩa vụ thanh toán hết khoản nợ đó cho Ngân hàng TMCP Quân Đội.
Trường hợp Hợp đồng mua bán nhà hình thành trong tương lai số
BN1LK2045/2022/HĐMB-RLQB bị chấm dứt thì các bên thực hiện theo Cam kết

13
hợp tác quản lý tài sản ba bên số 17177.22.304.23220074.CK ký giữa ông Đặng
Hữu Q, bà Hoàng Thị L, Công ty cổ phần Đ và Ngân hàng TMCP Q.
3. Về án phí dân sự phúc thẩm: Ông Đặng Hữu Q, bà Hoàng Thị L được
miễn án phí dân sự phúc thẩm.
Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị
kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án (10/9/2025).
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
- VKSND T.Quảng Trị; THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TOÀ
- THADS KV1;
- TAND KV1; (đã ký)
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án;
Hoàng Thị Thanh Nhàn
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 30/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 29/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 29/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 29/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 26/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 26/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 26/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 25/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 22/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 19/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Bản án số 909/2025/DS-PT ngày 14/09/2025 của TAND TP. Hồ Chí Minh về tranh chấp hợp đồng mua bán nhà
Ban hành: 14/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 12/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 08/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 05/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 04/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 25/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 25/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 22/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 20/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm