Bản án số 32/2023/HS-ST ngày 26/04/2023 của TAND huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Mục lục
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 32/2023/HS-ST

Tên Bản án: Bản án số 32/2023/HS-ST ngày 26/04/2023 của TAND huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Tội danh: 249.Tội tàng trữ trái phép chất ma túy (Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015)
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Châu Thành (TAND tỉnh Tây Ninh)
Số hiệu: 32/2023/HS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 26/04/2023
Lĩnh vực: Hình sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án:
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH TÂY NINH

 BẢN ÁN 32/2023/HS-ST NGÀY 26/04/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 4 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 14/2023/HSST ngày 01 tháng 3 năm 2023. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 26/2023/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 4 năm 2023.

Nguyễn Văn G (K), sinh năm 1998, tại tỉnh Tây Ninh;

Nơi cư trú: ấp Bình P, xã Thái B, huyện C T, tỉnh Tây Ninh; Nghề nghiệp: Làm mướn; Trình độ văn hóa: 8/12; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Con ông Nguyễn Văn B (đã chết) và bà Nguyễn Thị C; Vợ con chưa có;

Tiền án, tiền sự: Không có;

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 04/01/2023 cho đến ngày 10/01/2023 chuyển sang tạm giam cho đến nay bị cáo có mặt tại Tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 23 giờ 00 phút ngày 04/01/2023, tại khu vực ấp Bình Phong, xã Thái Bình, huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh Công an huyện Châu Thành bắt quả tang Nguyễn Văn G có hành vi đang tàng trữ trái phép chất ma túy trong người. Thu giữ trong túi quần phía trước bên phải của G 01 bịch nylon màu trắng có 01 đầu kéo xếp viền xanh, bên trong có chứa chất tinh thể rắn màu trắng (kí hiệu M1) được niêm phong thu giữ. Khám xét nơi ở của Nguyễn Văn G thu giữ 01 đoạn ống phễu bằng thủy tinh.

Trong quá trình điều tra chứng minh được: Nguyễn Văn G là người nghiện ma túy. Vào lúc 21 giờ ngày 04/01/2023. Do có nhu cầu sử dụng ma túy nên G thuê xe taxi chở đến khu vực Cầu Mới, phường 2, thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh tìm gặp một nam thanh niên tên V (không rõ họ tên và địa chỉ) mua 01 bịch ma túy với giá 300.000 đồng, đem về nhà sử dụng. Sau khi mua ma túy xong G cất giấu trong túi quần phía trước bên phải rồi đi về nhà. Khi về đến nhà G lấy ma túy ra sử dụng thì bị bắt quả tang.

Tại Kết luận giám định số: 31/KL-KTHS ngày 06/01/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tây Ninh, kết luận: Mẫu thu giữ (kí hiệu M1) gửi đến giám định là chất ma túy, loại Methamphetamin, khối lượng 0,4309 gam.

Tại bản Cáo trạng số: 15/CT-VKSCT ngày 24 tháng 02 năm 2023, Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn G về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn G phạm tội như nêu trên và xem xét:

Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

Tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn G từ 01 năm đến 02 năm tù. Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo, do bị cáo không có tài sản.

Xử lý vật chứng theo quy định pháp luật.

Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đồng ý với quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh và không có ý kiến gì khác.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi của các cơ quan tiến hành tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Châu Thành, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về hành vi của bị cáo thực hiện: Khoảng 23 giờ 00 phút ngày 04/01/2023, tại khu vực ấp Bình Phong, xã Thái Bình, huyện Châu Thành, Cơ quan chức năng bắt quả tang Nguyễn Văn G có hành vi đang tàng trữ trái phép chất ma túy trong người, loại Methamphetamine, khối lượng 0,4309 gam.

Hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Văn G (K) đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. [3]. Vụ án mang tính chất nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chế độ quản lý độc quyền của Nhà nước về các chất ma túy và ảnh hưởng đến trật tự trị an tại địa phương. Với ý thức chủ quan, bị cáo biết rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện, cần xử lý nghiêm bị cáo để đảm bảo tính răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[4]. Xét về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của bị cáo thấy rằng: Về tình tiết tăng nặng: Không có.

Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5]. Về biện pháp tư pháp:

Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 46 Bộ luật Hình sự; khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- 01 (một) bì thư được niêm phong ghi số: 31, có chữ ký xác nhận của giám định viên Nguyễn Văn Ng và trợ lý Nguyễn Chí L và được đóng dấu tròn màu đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tây Ninh; Đây là chất ma túy bị cấm nên cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 đoạn ống dạng phiễu bằng thủy tinh là vật bị cáo G dùng vào việc phạm tội không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với người tên V bán ma túy cho G không xác định được nhân thân và địa chỉ nên tiếp tục điều tra làm rõ xử lý sau.

[6]. Về án phí: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án, buộc bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH:

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn G (K) phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn G (K) 01 (một) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 04/01/2023. Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo do bị cáo không có tài sản.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 46 Bộ luật Hình sự; khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

+ Tịch thu tiêu hủy vật chứng của bị cáo Nguyễn Văn G (K):

- 01 (một) bì thư được niêm phong ghi số: 31, có chữ ký xác nhận của giám định viên Nguyễn Văn Nguyện và trợ lý Nguyễn Chí Lợi và được đóng dấu tròn màu đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tây Ninh;

- 01 đoạn ống dạng phiễu bằng thủy tinh.

3. Về án phí:

Buộc bị cáo Nguyễn Văn G (K) phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Án hình sự sơ thẩm xử công khai, báo cho bị cáo biết được quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Tải về
Bản án số 32/2023/HS-ST Bản án số 32/2023/HS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất