Bản án số 30/2025/HNGĐ-ST ngày 16/06/2025 của Tòa án nhân dân khu vực 8 - Khánh Hòa, tỉnh Khánh Hòa về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 30/2025/HNGĐ-ST

Tên Bản án: Bản án số 30/2025/HNGĐ-ST ngày 16/06/2025 của Tòa án nhân dân khu vực 8 - Khánh Hòa, tỉnh Khánh Hòa về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
Quan hệ pháp luật: Vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: Tòa án nhân dân khu vực 8 - Khánh Hòa, tỉnh Khánh Hòa
Số hiệu: 30/2025/HNGĐ-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 16/06/2025
Lĩnh vực: Hôn nhân gia đình
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Cho ly hôn, nuôi con và trả nợ vay
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
HUYỆN THUẬN NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
TỈNH NINH THUẬN
Bản án số: 30/2025/HNGĐ-ST
Ngày 16 - 6 - 2025.
V/v “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”,
“Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”.
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUẬN NAM, TỈNH NINH THUẬN
Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Thức
Các Hội thẩm nhân dân:
1. Bà Bùi Thị Thanh Yên.
2. Bà Phan Thị Hải Thanh.
Thư phiên Tòa: Ông Phan Xuân Sơn - Thư Tòa án nhân dân huyện Thuận
Nam, tỉnh Ninh Thuận.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Nam tham gia phiên tòa:
Tài Thị Cao Sâm - Kiểm sát viên.
Ngày 16 tháng 6 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thuận Nam, tỉnh
Ninh Thuận xét xử thẩm công khai vụ án thsố: 49/2025/TLST-DS ngày 29
tháng 5 năm 2025, về việc“Ly hôn, tranh chấp nuôi con chung”,“Tranh chấp hợp đồng
vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 32/2025/QĐXXST-HNGĐ ngày
30 tháng 5 năm 2025, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Ông Nguyễn T - sinh năm 1985; địa chỉ: Thôn L, P, huyện T,
tỉnh Ninh Thuận.
Bị đơn: Bùi Thị H - sinh năm 1989; địa chỉ: Thôn L, xã P, huyện T, tỉnh Ninh
Thuận.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập:
- Bà Nguyễn Thị H1 - sinh năm: 1960; trú tại: Thôn L, xã C, huyện T, tỉnh Ninh
Thuận.
- Trần Thị B - sinh năm 1978; địa chỉ: Thôn L, P, huyện T, tỉnh Ninh
Thuận;
- Bà Nguyễn Thị Đ - sinh năm 1981; địa chỉ: Thôn L, xã P, huyện T, tỉnh Ninh
Thuận.
- Hàng Thị Minh N - sinh năm 1990; địa chỉ: Thôn L, P, huyện T, tỉnh
Ninh Thuận.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Ông Hàng Ngọc S - sinh năm 1965; trú tại: Thôn L, xã C, huyện T, tỉnh Ninh
Thuận.
- Ông Trương Đa N1 - sinh năm 1976; trú tại: Thôn L, xã P, huyện T, tỉnh Ninh
Thuận.
2
- Ông Nguyễn X - sinh năm 1973; trú tại: Thôn L, P, huyện T, tỉnh Ninh
Thuận.
- Ông Nguyễn Hữu P - sinh năm 1991; trú tại: Thôn L, xã P, huyện T, tỉnh Ninh
Thuận.
(Tất cả các đương sự đều yêu cầu vắng mặt)
NI DUNG V ÁN:
Trong đơn khởi kiện ly hôn ngày 24/02/2025, các lời khai trong hồ quá
trình hòa giải, nguyên đơn ông Nguyễn T trình bày: Ông Bùi Thị H t nguyn
tìm hiểu và tiến đến chung sống, có đăng ký kết hôn tại UBND P o năm 2010. Từ
khi chung sống, vợ chồng sống hạnh phúc đến năm 2016 ông đi xuất khẩu lao động ở
Na Uy được 3 tháng trở vnước thấy vợ đối xử lạnh nhạt không do nhưng
ông vẫn tiếp tục xuất khẩu lao động gửi tiền về cho H trả nợ, nuôi con. Đến năm
2023, do H không rõ ràng về tiền bạc và tình cảm nên vợ chồng xảy ra mâu thuẫn.
Ngày 15/5/2024 ông không thể chịu đựng được nữa đã bỏ về Phú n sống đến nay.
Ông không còn tin tưởng bà H từ tiền bạc đến tình cảm và không thể tiếp tục sống với
nhau nên kiên quyết yêu cầu Tòa giải quyết ly hôn bà H.
Về con chung: Vợ chồng 02 con chung: Nguyễn Thuận A - sinh năm 2010
Nguyễn Hoài T1 - sinh năm 2014 hiện do H nuôi dưỡng. Trong quá trình vợ
chồng sống ly thân, dịp Tết năm 2024 ông có gửi cho bà H tổng cộng 41.900.000đ để
lo cho con. Ông yêu cầu giải quyết theo nguyện vọng của con, nếu con với mẹ thì
ông chấp nhận cấp dưỡng nuôi con theo yêu cầu bà H mỗi tháng 3.000.000đ/cháu đến
khi các con đủ 18 lao động được.
Về tài sản chung, vợ chồng chỉ có 01 căn nhà và đất gắn liền hiện đã ủy quyền
cho em bà H đứng tên thực hiện các giao dịch, ông đã giao cho H toàn quyền sở hữu
và không yêu cầu giải quyết.
Về nợ chung: Theo đơn khởi kiện của Nguyễn Thị H1 đòi số tiền
70.000.000đ, Trần Thị B đòi số tiền 160.000.000đ, Nguyễn Thị Đ đòi số tiền
100.000.000đ, Hàng Thị Minh N đòi số tiền 80.000.000đ nhưng ông chỉ xác nhận
cùng bà H vay của H1, bà B Đ mỗi người 30.000.000đ để mua vé đi xuất
khẩu lao động ở Na Uy và vay của bà N 20.000.000đ; lý do, mỗi năm ông đi xuất khẩu
lao động 6 tháng n tính tnăm 2014 đến năm 2024 (trừ 3 năm dịch 2019, 2020,
2021) ông đã đi 7 lần, mỗi lần máy bay dao động từ 27 triệu đến 30.000.000đ và chỉ
mua ít quà. Trong 7 lần đi có 4 lần vợ chồng tiết kiệm chuẩn bị sẵn không phải vay nên
chỉ vay 3 lần để mua vé máy bay đến 30 triệu đồng/lần/năm, có năm vay ít hơn chứ vợ
chồng không vay số tiền lớn như họ yêu cầu. Trong số tiền 70.000.000đ bà H1 đòi thì
H khai vay 1 lần 40.000.000đ đi khám bệnh năm 2024 là thời điểm ông đi về Phú
Yên sống ly thân; khi vợ chồng hàn gắn ông không biết và không sử dụng số tiền trên.
Mỗi đợt đi ông đều gửi từ 30.000.000đ 40.000.000đ về cho bà H trả nợ và nuôi con
nhưng nay H khai số nợ lớn thì ông không đồng ý, bà H kê thêm thì tự chịu trách
nhiệm. Ông chỉ chấp nhận đúng số nợ ông vay của bà H1, bà B, Đ mỗi người 30 triệu
và bà N 20 triệu, tổng cộng; 110.000.00đ, ông đồng ý trả ½ số tiền trên.
Đối với số tiền vàng vợ chồng mượn của họ hàng bên ông, cụ thể: N2 (thím
3
ông) 13 chỉ vàng 4 số 9, Nguyễn Thị L (em ruột ông) số tiền 50 triệu và 02 chỉ vàng 4
số 9, ông Nguyễn Thanh P1 (bạn ông) số tiền 30.000 Na Uy 10 triệu đồng; do những
người trên không yêu cầu thì ông tự chịu trách nhiệm trả, không yêu cầu giải quyết
trong vụ án này.
Tại biên bản lấy lời khai ngày 18/4/2025, biên bản hòa giải ngày 30/5/2025
các lời khai khác trong hồ sơ bà Bùi Thị H trình bày: Bà thống nhất lời khai ông T về
việc kết hôn, con chung. Tuy nhiên, về mâu thuẫn phát sinh do quá trình ông T đi
xuất khẩu lao động đã nghi ngờ bà ngoại tình. Mặc dù bao nhiêu lần bà muốn tự tử để
chứng minh sự trong sạch nhưng ông T vẫn luôn dằn vặt hết lần này đến lần khác
làm cho bà suy sụp phải 5 lần nhập viện. Đến ngày 15/5/2024, ông T tự bỏ đi nơi khác
sống sau đó làm đơn ly hôn thì bà thống nhất ly hôn theo yêu cầu của ông T.
Về con chung: Vợ chồng 02 con chung: Nguyễn Thuận A - sinh năm 2010
Nguyễn Hoài T1 - sinh năm 2014 hiện do bà nuôi dưỡng. Từ khi ông T bỏ đi gửi
30.000.000đ để lo cho con bệnh mua sắm tết, từ đó đến nay không gửi thêm. yêu
cầu được tiếp tục nuôi con 02 con và yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng
3.000.000đ/cháu cho đến khi các con đủ 18 tuổi lao động được theo quy định.
Về nợ chung: thống nhất số nợ của H1, B, N và Đ kiện đòi.
khẳng định đây là số nợ chung do vợ chồng vay đmua vé, quà tặng, vật dụng sinh
hoạt cho ông T đi xuất khẩu lao động ở Na Uy, gồm: Tiền vé mỗi lần đi 27.000.000đ -
30.000.000đ; tiền mua mực khô làm quà, thuốc cho ông T đưa tiền mặt cho ông
T tổng cộng khoảng 50.000.000đ/lần; số tiền còn lại giữ để lo cho con cái, trả lãi
hàng tháng cũng như mua chiếc xe máy 25.000.000đ hiện ông T đang sử dụng. vậy,
đến nay vợ chồng còn nợ: Nguyễn Thị H1 số tiền 70.000.000đ, Trần Thị B số
tiền 160.000.000đ (trong đó vay giúp cho em bà 100.000.000đ nhưng emđã trả cho
bà, sau đó đưa cho ông T); Nguyễn Thị Đ số tiền 100.000.000đ, Hàng Thị
Minh N số tiền 80.000.000đ. Toàn bộ số tiền trên do vợ chồng cùng vay nhận tiền
nhưng không làm giấy tờ. Trong đó:
- Số tiền vay của bà Nguyễn Thị H1 2 lần gồm: 1 lần 40.000.000đ vợ chồng
cùng vay và 1 lần bà vay số tiền 30.000.000đ năm 2024 ông T đã bỏ về Phú Yên sống;
vay riêng để đi khám bệnh nhưng khi vợ chồng hàn gắn báo cho ông T biết,
ông T lấy 3.000.000đ đi xét nghiệm ADN của con gái.
- Số tiền vay của Trần Thị B 2 lần, gồm: 1 lần 50.000.000đ, 1 lần 100.000.000đ
có vợ chồng cùng vay và 1 lần 10.000.000đ do bà vay mua sắm Tết năm 2023. Số tiền
vay của B mua 2 lần, số còn lại trả lãi ngân hàng từ năm 2014 đến 2023, mỗi
tháng trả lãi 3.000.000đ và trả lãi theo gốc vay tăng dần.
- Số tiền vay của bà Nguyễn Thị Đ nhiều lần tổng cộng 100.000.000đ vợ chồng
cùng vay nhưng không nhớ cụ thể thời gian, chỉ nhớ mỗi lần vay 10.000.000đ,
20.000.000đ, lần 30.000.000đ, lần 40.000.000đ để mua vé, trả lãi, mua sắm đồ trong
gia đình. Bà không xác định được số tiền vay của bà Đ để mua vé bao nhiêu lần.
- Số tiền vay của Hàng Thị Minh N 4 -5 lần tổng cộng 80.000.000đ, mục đích
để xoay sở gia đình do vợ chồng cùng vay nhưng bà người trực tiếp nhận tiền (do
ông T chở đi nhận 1 đến 2 lần), có lần bà N đem đến nhà giao có ông T (tất cả các lần
vay không nhớ cụ thể thời gian). Bà không xác định được số tiền vay của bà N để mua
4
vé là bao nhiêu lần.
Bà xác nhận, mỗi đợt ông T đi xuất khẩu lao động có gửi tiền về cho bà trả nợ, có
đợt gửi 2 lần, mỗi lần 30.000.000đ 40.000.000đ, đợt gửi 1 lần khoảng 70.000.000đ
80.000.000đ. Số tiền này dùng trả lãi cho những người cho vay nêu trên, trả lãi
ngân hàng và lo cho con cái chứ không đủ trả gốc. Mỗi tháng bà phải trả lãi mỗi người
vài triệu và trả lãi vay nhà nước khoảng 6.000.000đ -7.000.000đ. Thời gian ông T hết
hạn lao động về cũng đi làm biển thu nhập nhưng tháng không đi làm thì
phải vay thêm tiền lo ăn uống và lo bệnh cho ông T.
Về tài sản chung: Vợ chồng chỉ có căn nhà và đất hiện vợ chồng đã ủy quyền cho
em bà đứng tên thế chấp vay số tiền 1,6 tỷ đồng nên bà không yêu cầu giải quyết liên
quan đến phần này.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập:
Tại đơn khởi kiện ngày 15/4/2025, biên bản hòa giải ngày 30/5/2025 bà Nguyễn
Thị H1 trình bày: Vào ngày 19/8/2022, vợ chồng ông Nguyễn TBùi Thị H đến
nhà vay 30.000.000,đ để mua cho ông Nguyễn T đi xuất khẩu tại Na Uy. Đến
tháng 6/2023, vợ chồng ông Nguyễn T và Bùi Thị H tiếp tục đến nhà vay thêm
40.000.000,đ; tổng cộng 02 lần vay 70.000.000đ, lãi suất đều tính 2%/tháng. Hai bên
không lập giấy tờ vay, không thỏa thuận thời hạn vay mà thống nhất ông T đi xuất khẩu
lao động về trả. Sau đó H vẫn đưa tiền lãi cho hàng tháng, khi ông T vng
đem tiền lãi trả cho bà. Năm 2024 vợ chồng T, H không trtiền lãi và gốc cho đến nay
ly hôn thì yêu cầu Tòa án giải quyết: Buộc vợ chồng ông Nguyễn T Bùi
Thị H phải trách nhiệm trả số tiền gốc vay còn nợ 70.000.000đ, bà không yêu cầu
trả lãi.
Tại đơn khởi kiện ngày 15/4/2025, biên bản hòa giải ngày 30/5/2025 Trần
Thị B trình bày: Vào đầu năm 2023, vợ chồng ông Nguyễn T, bà Bùi Thị H đến nhà
vay số tiền 100.000.000,đ để ông Nguyễn T đi xuất khẩu tại Na Uy xoay snợ
nần bà không rõ. Đến cuối năm 2023, vợ chồng ông Nguyễn T, Bùi Thị H tiếp tục đến
nhà bà vay thêm 60.000.000đ để lo cho gia đình vì chưa nhận được tiền lao động; tổng
cộng 02 lần vay 160.000.000 đồng, lãi suất đều tính 2%/tháng. Hai bên không lập
giấy tờ vay, không thỏa thuận thời hạn mà thống nhất ông T đi xuất khẩu lao động có
tiền về trả. H vẫn đưa tiền lãi cho mỗi tháng 2.000.000đ, ông T trả lãi 2 lần
vào tháng 2 3 năm 2023. Sau khi vay 60.000.000đ được 2 tháng thì vợ chồng xảy
ra xung đột và từ năm 2024 đến nay vợ chồng T, H không trả tiền lãi và gốc. Hiện ông
T làm đơn ly hôn H tyêu cầu Tòa án giải quyết: Buộc vợ chồng ông Nguyễn
T, Bùi Thị H phải trách nhiệm trả số tiền gốc vay còn nợ 160.000.000đ, không
yêu cầu trả lãi.
Tại đơn khởi kiện ngày 15/4/2025, biên bản hòa giải ngày 30/5/2025 bà Nguyễn
Thị Đ trình bày: Năm 2022 và 2023 vợ chồng ông Nguyễn T và Bùi Thị H có đến n
vay 2 lần, mỗi lần 50.000.000đ đông Nguyễn T đi xuất khẩu tại Na Uy; lãi suất
2%/tháng. Hai bên không lập giấy tờ vay, không thỏa thuận thời hạn thống nhất
ông T đi xuất khẩu lao động gửi tiền về trả. H vẫn đưa tiền lãi cho hàng tháng,
khi ông T vtrả lãi. Năm 2024 vợ chồng T, H không trả tiền lãi gốc đến nay.
Hiện ông T làm đơn ly hôn bà H thì bà yêu cầu Tòa án giải quyết: Buộc vợ chồng ông
5
Nguyễn T, Bùi Thị H phải trách nhiệm trả số tiền gốc vay còn nợ 100.000.000
đồng; không yêu cầu trả lãi.
Tại đơn khởi kiện ngày 15/4/2025, biên bản hòa giải ngày 30/5/2025 Hàng
Thị Minh N trình bày: Vào ngày 08 tháng 12 năm 2022 (âm lịch), Bùi Thị H điện
thoại vay tiền của gồm 3 lần nhưng không nhớ cụ thể thời gian, chnhớ 1 lần
30.000.000đ, 1 lần 20.000.000đ và lần sau cùng 30.000.000đ; tổng cộng 3 lần
80.000.000 đồng. Hai lần bà H điện thoại vay thì bà cầm đến nhà đưa cho bà H không
ông T, có 1 lần 20 triệu bà đem xuống biển đưa cho vợ chồng ông T do bà H nhận
nhưng ông T không hỏi gì. Các lần vay bà H đều nói vay để mua đồ cho ông T đi xuất
khẩu tại Na Uy. Lãi suất vay 2%/tháng. Hai bên không lập giấy tờ vay, không thỏa
thuận thời hạn nhưng thống nhất khi nào tiền thì trả. H người trả lãi cho
hàng tháng. Năm 2024 vợ chồng ông T, bà H không trả lãi và gốc đến nay. Hiện ông
T làm đơn ly hôn thì bà yêu cầu Tòa án giải quyết: Buộc vợ chồng ông T, bà H phải
trách nhiệm trả số tiền gốc vay còn nợ 80.000.000đ, bà không yêu cầu trả lãi.
- Ông Hàng Ngọc S trình bày: Ông biết vợ ông (bà Nguyễn Thị H1) cho vợ chồng
ông T, H vay số tiền 70.000.00vào năm 2022, ông cũng đồng ý việc cho vay trên.
Nay ông thống nhất toàn bộ ý kiến yêu cầu của H1 buộc vợ chồng ông T, H
phải trả lại số tiền 70.000.000đ, không yêu cầu trả lãi.
- Tại biên bản m việc ngày 28/5/2025, ông Trương Đa N1 trình bày: Việc vợ
ông (bà Nguyễn Thị Đ) cho vợ chồng ông T, bà H vay số tiền 100.000.000đ ông không
biết, tuy nhiên đến nay vợ ông khởi kiện đòi vchồng ông T2, H số tiền trên thì ông
thống nhất toàn bộ ý kiến và yêu cầu của bà Đ.
- Tại biên bản làm việc ngày 28/5/2025, ông Nguyễn X trình bày: Việc vợ ông
(Trần Thị B) cho vợ chồng ông T, bà H vay tiền ông không biết nhưng đến nay vợ ông
kiện đến tòa đòi vợ chồng ông T, bà H số tiền vay 160.000.00đ thì ông thống nhất theo
yêu cầu bà B.
- Tại biên bản hòa giải ngày 30/5/2025, ông Nguyễn Hữu P trình bày: Ông thống
nhất toàn bý kiến và yêu cầu của vợ ông (Hàng ThMinh N), không bổ sung gì thêm.
Trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Nam phát
biểu ý kiến như sau:
- Việc tuân theo pháp luật tố tụng của những người tiến hành tố tụng trong vụ án
đã thực hiện đúng quy định của pháp luật.
- Việc tuân theo pháp luật tố tụng của người tham gia tố tụng dân sự đã thực hiện
đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định của pháp luật.
- Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi
kiện của nguyên đơn ông Nguyễn T: Công nhận ông Nguyễn T Bùi Thị H tự
nguyện thuận tình ly hôn; giao bà H tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung; ông T
cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 3.000.000đ/cháu đến khi con đủ 18 tuổi, lao động được.
Về nợ chung, do các bên cho vay đều thừa nhận không lập giấy vay nhưng ông T,
bà H đã chấp nhận toàn bộ số nợ, trong đó: Ông T chấp nhận vay của bà B, bà H1, bà
Đ mỗi người 30.000.000đ và N 20.000.000đ; ông đồng ý trả ½ số nợ này, phần còn
lại ông không chấp nhận. H xác nhận toàn bộ số tiền yêu cầu nợ chung nhưng
không giấy tờ chứng minh nên H phải chịu trách nhiệm đối với phần vượt; vậy
6
chấp nhận yêu cầu độc lập của bà H1, bà B, bà Đ, bà N buộc ông T có trách nhiệm trả
cho H1, B, Đ mỗi người 15.000.000đ và trả cho N 10.000.000đ; buộc
H trách nhiệm trả cho B 145.000.000đ, H1 55.000.000đ, bà Đ 85.000.000đ,
bà N 70.000.000đ.
Về án phí, đề nghị giải quyết theo quy định pháp luật.
NHẬN ĐNH CA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu trong hồ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa
sau khi nghe đương sự trình bày tại phiên tòa, ý kiến của Viện kiểm sát Hội đồng
xét xử nhận định:
[1]. Căn cứ yêu cầu vắng mặt của các đương sự phù hợp quy định tại khoản 1
Điều 228 BLTTDS nên Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án.
[2]. Về quan hệ pháp luật thẩm quyền giải quyết: Nguyên đơn ông Nguyễn
T khởi kiện yêu cầu ly hôn, giải quyết nuôi con chung với bà Bùi Thị H trú tại P,
huyện T; Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập yêu cầu vợ chồng
ông T, bà H trả toàn bộ số tiền vay. Căn cứ khoản 3 điều 26, khoản 1 điều 28, điểm a
khoản 1 điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự, xác định yêu cầu khởi kiện của ông T, yêu cầu
độc lập của người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thuộc thẩm quyền giải quyết của
Tòa án nhân dân huyện Thuận Nam. Căn cứ điều 195 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án
tiến hành thụ vụ án và xác định quan hệ pháp luật “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con’,
“Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”.
[3]. Về quan hệ hôn nhân: Căn cứ Trích lục kết hôn số: 91/TLKH-BS ngày
20/02/2015 của Ủy ban nhân dân P, huyện T (viết tắt: UBND xã P), Hội đồng xét
xử khẳng định ông Nguyễn T, Bùi Thị H chung sống đăng kết hôn số: 21/2010
ngày 25/02/2010, là hôn nhân hợp pháp.
[4]. Tình trạng hôn nhân: Ông Nguyễn T, Bùi Thị H đều xác nhận vợ chồng
chung sống với nhau hoàn toàn tự nguyện. Về mâu thuẫn, quá trình chung sống do
các bên không tin tưởng tình cảm tiền bạc nên xảy ra cãi vã; mặc vợ chồng đã
từng sống ly thân rồi tự hàn gắn nhưng cũng không hạnh phúc nên đến tháng 5/2024,
ông T tự bỏ nhà đi tiếp tục sống ly thân đến nay. Quá trình Tòa giải quyết đã tạo
điều kiện về thời gian cũng như kiên trì hòa giải nhưng ông T vẫn kiên quyết yêu cầu
giải quyết ly hôn; điều đó cho thấy hôn nhân gia ông T, bà H đã đến mức trầm trọng,
đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được; nay ông T, bà
H thống nhất ly hôn phù hợp quy định tại Điều 55 Luật Hôn nhân gia đình nên
công nhận.
[5]. Về con chung: Căn cứ Bản sao giấy khai sinh số 249/2010 và Bản sao giấy
khai sinh số 260/2014 cùng ngày 20/02/2025 do Ủy ban nhân dân xã P cấp và lời khai
của ông T, bà H khẳng định: Vợ chồng ông T, bà H 02 người con chung là Nguyễn
Thuận A - sinh năm 2010 Nguyễn Hoài T1 - sinh năm 2014 hiện do H nuôi
dưỡng. Tại biên bản lấy lời khai của cháu Nguyễn Thuận A Nguyễn Hoài T1 ngày
18/4/2025 đều có nguyện vọng sống với mẹ, phù hợp ý kiến của ông T, bà H nên căn
cứ điều 81 Luật Hôn nhân gia đình công nhận việc thỏa thuận nuôi con nêu trên.
7
Ông T, bà H thống nhất ông T cấp dưỡng nuôi con mỗi cháu 3.000.000đ/tháng đến khi
các con đủ 18 tuổi, lao động được là phù hợp quy định pháp luật nên công nhận.
[6]. Về tài sản chung: Vợ chồng có 01 căn nhà xây và diện tích đất gắn liền, vợ
chồng đã tự thỏa thuận không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.
[7]. Xét yêu cầu độc lập của Trần Thị B, Nguyễn Thị Đ, Nguyễn Thị
H1, Nguyễn Thị Minh N3 thấy rằng: B đòi vợ chồng ông T, H số tiền vay
160.000.000đ; bà Đ đòi vợ chồng ông T, bà H số tiền vay 100.000.000đ; bà H1 đòi vợ
chồng ông T, bà H số tiền vay 70.000.000đ và N3 đòi vợ chồng ông T, bà H số tiền
vay 80.000.000đ nhưng không giấy tờ chứng minh việc vay tiền. Quá trình giải
quyết vụ án, ông T và bà H thừa nhận toàn bộ số tiền trên nên căn cứ Điều 72 Bộ luật
tố tụng dân sự xác định việc các bên vay tiền là có thật, không phải chứng minh thêm.
Về trách nhiệm trả nợ: Trong số tiền vay trên, ông T thừa nhận nợ chung của vợ
chồng gồm số tiền vay của B, Đ, H1 mỗi người 30.000.000đ N3
20.000.000đ, tổng cộng 110.000.000đ nên H không phải chứng minh phần này. Đối
với số tiền còn lại gồm: Số tiền vay của bà B còn lại 130.000.000đ thì bà H thừa nhận
vay giúp cho em 100.000.000đ, sau khi em bà trả tđã đưa cho ông T nhưng
không được ông T thừa nhận. Số tiền của H1 còn lại 40.000.000đ, bà H thừa nhận
tự vay 30.000.000đ để khám bệnh cho trong thời gian vợ chồng sống ly thân cũng
như số tiền còn lại của bà Đ 70.000.000đ và bà N3 80.000.000đ ông T đều không thứa
nhận, H cũng không có chứng cứ chứng minh nợ chung nên bà H phải tự chịu trách
nhiệm trả. vậy, buộc ông T phải nghĩa vụ trả ½ số nợ chung, cụ thể: 110.000.000đ
: 2 = 55.000.000đ, trong đó: Trả cho bà Trần Thị B, bà Nguyễn Thị Đ, bà Nguyễn Thị
H1 mỗi người 15.000.000đ và trả cho bà Hàng Thị Minh N 10.000.000đ. Buộc bà Bùi
Thị H phải có nghĩa vụ trả cho Trần Thị B 15.000.000đ (nợ chung) + 130.000.000đ
(nợ riêng) = 145.000.000đ; trả cho Nguyễn Thị Đ 15.000.000đ (nợ chung) +
70.000.000đ (nợ riêng) = 85.000.000đ; trả cho Nguyễn Thị H1 15.000.000đ (nợ
chung) + 40.000.000đ (nợ riêng) = 55.000.000đ trả cho Hàng Thị Minh N
10.000.000đ (nợ chung) + 60.000.000đ (nợ riêng) = 70.000.000đ. B, H1, Đ,
N không yêu cầu tính lãi ông T, H ng không yêu cầu về tiền lãi đã trả nên
không xem xét.
Xét đề nghị của kiểm sát viên tại phiên tòa với các nội dung nêu trên là căn cứ pháp
luật nên chấp nhận.
[8]. Án phí dân sự thẩm: Căn cứ điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự, điều 12,
điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của
Ủy ban thường vụ Quốc hội 14: Ông Nguyễn T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm gồm:
300.000đ về yêu cầu ly hôn, 300.000đ về cấp dưỡng nuôi con và 2.750.000đ về nghĩa
vụ trả nợ chung. Bà Bùi Thị H chịu 15.000.000đ án phí dân sự sơ thẩm về nghĩa vụ trả
nợ chung.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐNH:
Căn cứ khoản 3 điều 26, khoản 1 điều 28, điểm a khoản 1 điều 35, khoản 1 điều
227, khoản 1 điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điều 463, 465 Bộ luật Dân sự; các
8
điều 55, 57, 59, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 27 Nghị quyết
số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội 14.
Tuyên xử:
Về hôn nhân: Công nhận việc thuận tình ly hôn giữa ông Nguyễn T Bùi
Thị H.
Về trách nhiệm nuôi con: Công nhận sthỏa thuận nuôi con của ông Nguyễn T,
Bùi Thị H; giao Bùi Thị H tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung Nguyễn
Thuận A - sinh năm 2010 Nguyễn Hoài T1 - sinh năm 2014. Ông Nguyễn T
nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con mỗi cháu 3.000.000đ/tháng, kể từ tháng 7/2025 đến khi
con đủ 18 tuổi, lao động được.
Người trực tiếp nuôi con cùng các thành viên trong gia đình không được cản trở
việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.
Về tài sản chung: Vợ chồng xác định 01 căn nhà xây cấp 4 diện tích đất
gắn liền tự thỏa thuận không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.
Về nợ chung: Chấp nhận yêu cầu độc lập của bà Trần Thị B, bà Nguyễn Thị Đ,
Nguyễn Thị H1 và bà Hàng Thị Minh N tranh chấp đòi số tiền nợ vay.
Buộc ông Nguyễn T phải nghĩa vụ: Trả cho bà Trần Thị B, bà Nguyễn Thị Đ,
Nguyễn Thị H1 mỗi người 15.000.000đ trả cho bà Hàng Thị Minh N
10.000.000đ.
Buộc Bùi Thị H phải nghĩa vtrả cho Trần Thị B 15.000.000đ (nợ
chung) + 130.000.000đ (nợ riêng) = 145.000.000đ; trả cho Nguyễn Thị Đ
15.000.000đ (nợ chung) + 70.000.000đ (nợ riêng) = 85.000.000đ; trả cho Nguyễn
Thị H1 15.000.000đ (nợ chung) + 40.000.000đ (nợ riêng) = 55.000.000đ; 15.000.000đ
trả cho Hàng Thị Minh N 10.000.000đ (nợ chung) + 60.000.000đ (nợ riêng) =
70.000.000đ.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi
thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu
khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2
Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.
Về án phí dân sự sơ thẩm:
- Ông Nguyễn T chịu án phí dân sự thẩm gồm: 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng)
về yêu cầu ly hôn, 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) về cấp dưỡng nuôi con 2.750.000đ
(Hai triệu bảy trăm năm mươi ngàn đồng) về nghĩa vụ trả n chung, được tính trừ vào
số tiền tạm ứng án phí 300.000đ đã nộp tại biên lai thu tiền số 0004864 ngày 12 tháng
3 năm 2025 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thuận Nam. Ông T còn phải nộp
3.050.000đ (Ba triệu không trăm năm mươi ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.
- Bùi Thị H chịu 15.000.000đ án phí dân sự thẩm về nghĩa vụ trả nợ chung.
- Hoàn trả cho Trần Thị B số tiền 4.000.000đ (Bốn triệu đồng) tạm ứng án
phí đã nộp tại biên lai thu tiền số 0004884 ngày 21 tháng 4 năm 2025 của Chi cục Thi
hành án dân sự huyện Thuận Nam.
9
- Hoàn trả cho Nguyễn Thị H1 số tiền 1.750.000đ (Một triệu bảy trăm năm
mươi ngàn đồng) tạmng án phí đã nộp tại biên lai thu tiền số 0004885 ngày 21 tháng
4 năm 2025 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thuận Nam.
- Hoàn trả cho Nguyễn Thị Đ số tiền 2.500.000đ (Hai triệu năm trăm ngàn
đồng) tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai thu tiền số 0004883 ngày 21 tháng 4 năm 2025
của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thuận Nam.
- Hoàn trả cho bà Hàng Thị Minh N 2.000.000đ (Hai triệu đồng) tạm ứng án phí
đã nộp tại biên lai thu tiền số 0004886 ngày 21 tháng 4 năm 2025 của Chi cục Thi hành
án dân sự huyện Thuận Nam.
Trường hợp bản án thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân s
thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận
thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi
hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành
án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Đương sự đều vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời
hạn 15 ngày nhận được bản án hoặc tống đạt hợp lệ.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
- TAND tỉnh Ninh Thuận; THẨM PHÁN-CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- VKSND huyện Thuận Nam;
- Chi cục THADS huyện Thuận Nam; Đã ký
- UBND xã Phước Diêm;
- Các đương sự;
- Lưu.
Nguyễn Thị Thức
Tải về
Bản án số 30/2025/HNGĐ-ST Bản án số 30/2025/HNGĐ-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 30/2025/HNGĐ-ST Bản án số 30/2025/HNGĐ-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất