Bản án số 28/2020/HS-ST ngày 24/12/2020 của TAND TX. Sa Pa, tỉnh Lào Cai về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Mục lục
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 28/2020/HS-ST

Tên Bản án: Bản án số 28/2020/HS-ST ngày 24/12/2020 của TAND TX. Sa Pa, tỉnh Lào Cai về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Tội danh: 249.Tội tàng trữ trái phép chất ma túy (Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015)
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND TX. Sa Pa (TAND tỉnh Lào Cai)
Số hiệu: 28/2020/HS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 24/12/2020
Lĩnh vực: Hình sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án:
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ SA PA - TỈNH LÀO CAI

BẢN ÁN 28/2020/HS-ST NGÀY 24/12/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 24 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở nhà văn hóa tổ 01, phường Sa Pa, thị xã Sa Pa, tỉnh Lào Cai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 27/2020/TLST- HS ngày 20 tháng 11 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 28/2020/QĐXXST- HS ngày 14 tháng 12 năm 2020 của Tòa án nhân dân thị xã Sa Pa đối với bị cáo:

Vũ Xuân Ch; Tên gọi khác: Không; Sinh ngày 09/10/1966 tại Vĩnh Bảo, Hải Phòng;

Nơi cư trú: Tổ 05, phường S, thị xã SP, tỉnh LCi; Nghề nghiệp: Lao động tự do;Trình độ học vấn: 7/12; Dân tộc: Kinh;Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Vũ Văn V, sinh năm 1935 và bà Nguyễn Thị S, sinh năm 1937; Hiện đang cư trú tại: Xã Vĩnh Phong, huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng. Bị cáo có vợ là Nguyễn Thị Ng, sinh năm 1972, bị cáo có 02 con, con lớn sinh năm 2000, con nhỏ sinh năm 2003. Vợ con bị cáo đều cư trú tại: Tổ 05, phường S, thị xã SP, tỉnh LCi;

- Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân, bị cáo là đối tượng nghiện chất ma túy. Bị cáo Vũ Xuân Ch bị tạm giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thị xã Sa Pa từ ngày 26/10/2020. Có mặt tại phiên tòa - Người có quyền lợi liên quan: Anh Vũ Hồng Q; Địa chỉ: Tổ 3, phường Phan Si Păng, thị xã Sa Pa, tỉnh Lào Cai. Vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt Người có quyền lợi liên quan: Chị Vũ Thị Thu Th; Địa chỉ: Tổ 05, phường S, thị xã SP, tỉnh LCi. Vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt - Người đại diện theo ủy quyền của người có quyền lợi liên quan: Bà Nguyễn Thị Ng; Địa chỉ: Tổ 05, phường S, thị xã SP, tỉnh LCi. Có mặt - Người làm chứng: Ông Tống Văn Ng; ông Trần Minh T; Địa chỉ: Tổ 03, phường Phan Si Păng, thị xã Sa Pa, tỉnh Lào Cai. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào hồi 17 giờ 30 phút, ngày 26/10/2020 tổ công tác Công an thị xã SaPa phối hợp với Công an phường Phan Si Păng làm nhiệm vụ tại khu vực đường Điện Biên Phủ thuộc tổ 3 phường Phan Si Păng thị xã Sa Pa, tỉnh Lào Cai thì phát hiện Vũ Xuân Ch, sinh năm 1966, nơi cư trú: Tổ 05, phường S, thị xã SP, tỉnh LCi, điều khiển xe mô tô nhãn hiệu ESPERO BKS 24HB – 053.96 có biểu hiện nghi vấn về tội phạm ma túy. Tổ công tác tiến hành kiểm tra phát hiện và thu giữ tại lòng bàn tay trái của Vũ Xuân Ch 01 gói nilon màu đen, bên trong chứa chất bột khô, vón cục màu trắng, Vũ Xuân Ch khai nhận là Heroin, Ch mua về để sử dụng cho bản thân. Tổ công tác đã mời người chứng kiến và lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong vật chứng theo quy định. Ngoài ra tổ công tác còn thu giữ của Vũ Xuân Ch 01 xe mô tô nhãn hiệu ESPERO BKS 24HB – 053.96 đã qua sử dụng.

Ngày 27/10/2020 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Sa Pa đã ra quyết định trưng cầu giám định số 73 gửi Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lào Cai giám định về ma túy và gửi toàn bộ số vật chứng đã thu giữ của Vũ Xuân Ch đi giám định. Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lào Cai tiến hành đồng nhất mẫu và trích 0,09 (không phẩy không chín) gam chất bột khô màu trắng từ 0,40 gam chất bột khô màu trắng đã thu giữ của Vũ Xuân Ch để giám định. Số vật chứng còn lại 0,31 (không phẩy ba mươi mốt) gam chất bột khô màu trắng cùng toàn bộ mẫu niêm phong cũ được tái niêm phong, hoàn trả có quan trưng cầu.

Tại kết luận giám định số 224/GĐMT, ngày 29/10/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lào Cai kết luận 0,40 (không phẩy bốn mươi) gam chất bột khô vón cục màu trắng gửi giám định là loại ma túy Heroin.

Quá trình điều tra Vũ Xuân Ch đã khai nhận vào khoảng 17 giờ ngày 26/10/2020 Vũ Xuân Ch điều khiển xe mô tô nhãn hiệu ESPERO BKS 24HB – 053.96 từ nhà ở tổ 5, phường Sa Pa đến nhà bà Vũ Thị Thái ở tổ 3, phường Phan Si Păng để mua ma túy về sử dụng, khi đến nơi thì cổng khóa, Vũ Xuân Ch gọi thì thấy Vũ Hồng Q (sinh năm 1988 trú tại tổ 3, phường Phan Si Păng) đi ra, thấy Q, Ch hỏi “có ma túy không bán lại cho anh một ít”. Q đáp “bao nhiêu”, Ch nói 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng), sau đó Q đi vào nhà khoảng 2 phút sau Q đi ra, Ch đưa cho Q 300.000 đồng qua khe cửa cổng, Q đưa lại cho Ch 01 gói nilon màu đen, bên trong chứa ma túy, sau đó Ch cầm ở lòng bàn tay trái rồi điều khiển xe máy để đi về nhà tại tổ 5, phường Sa Pa. Khi đến khu vực tổ 3, phường Phan Si Păng thì bị lực lượng Công an kiểm tra phát hiện, bắt giữ. Tại cơ quan điều tra Vũ Xuân Ch thành khẩn khai báo hành vi phạm tội của mình.

Đối với Vũ Hồng Q theo lời khai của Vũ Xuân Ch là người bán số ma túy trên cho Ch, quá trình điều tra Vũ Hồng Q không thừa nhận việc bán ma túy cho Ch. Ngoài lời khai của Vũ Xuân Ch ra không có tài liệu nào khác để chứng minh, do đó không có đủ căn cứ để xử lý đối với Vũ Hồng Q.

Tại bản cáo trạng số 24/CT-VKS-SP ngày 20/11/2020 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Sa Pa truy tố bị cáo Vũ Xuân Ch về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Sa Pa giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Vũ Xuân Ch phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật Hình sự. Điểm s khoản 1 Điều 51- Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Vũ Xuân Ch từ 01 năm 03 tháng tù đến 01 năm 06 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tuyên tịch thu tiêu hủy: 01 bì thư tái niêm phong in sẵn của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lào Cai, mặt trước có ghi “Vật chứng còn lại sau trích mẫu giám định thu giữ trong vụ Vũ Xuân Ch “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Phát hiện bắt giữ ngày 26/10/2020 tại tổ 03, phường Phan Si Păng, thị xã Sa Pa, tỉnh Lào Cai.

Đối với 01 (một) chiếc xe mô tô nhãn hiệu ESPERO BKS 24HB – 053.96 bị cáo sử dụng, quá trình điều tra, xác định chiếc xe trên là của chị Vũ Thị Thu Th, sinh năm 2000; trú tại tổ 5, phường Sa Pa, thị xã Sa Pa. Chị bg là con gái của bị cáo, chị Th đi học và để xe ở nhà, chị Th không biết việc bị cáo Ch lấy xe để sử dụng, chị Th cũng không biết và không liên quan gì đến hành vi phạm tội của bị cáo nên ngày 19/11/2020, Cơ quan CSĐT Công an thị xã Sa Pa đã ra Quyết định xử lý vật chứng số 17 trả lại chiếc xe máy cho chủ ở hữu là phù hợp.

Tuyên án phí và quyền kháng cáo đối với bị cáo, bị hại theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa bị cáo Vũ Xuân Ch đồng ý với tội danh và điều luật mà Viện kiểm sát nhân dân thị xã Sa Pa đã truy tố đối với bị cáo, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Sa Pa, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Đối với Vũ Hồng Q theo lời khai của Vũ Xuân Ch là người bán ma túy cho Ch, quá trình điều tra Lê Hồng Q không thừa nhận việc bán ma túy cho Ch. Ngoài lời khai của Vũ Xuân Ch ra không có tài liệu nào khác để chứng minh, do đó không có đủ căn cứ để xử lý đối với Vũ Hồng Q là phù hợp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa hôm nay bị cáo Vũ Xuân Ch đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bị cáo như đã khai tại cơ quan điều tra. Lời khai nhận tội của bị cáo được chứng minh bằng các tài liệu chứng cứ khác như: Biên bản bắt giữ người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ và biên bản niêm phong vật chứng, bản kết luận giám định số 224/GĐMTngày 29/10/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lào Cai, lời khai của bị cáo cùng toàn bộ các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó đã có đủ căn cứ để kết luận: Ngày 26/10/2020 bị cáo Vũ Xuân Ch đã có hành vi tàng trữ 0,40 gam Heroin với mục đích để sử dụng cho bản thân thì bị phát hiện bắt giữ. Hành vi nêu trên của bị cáo Vũ Xuân Ch đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật Hình sự.

Hành vi của bị cáo Vũ Xuân Ch là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước là khách thể được pháp luật hình sự bảo vệ đồng thời gây mất trật tự trị an tại địa phương.

Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, có sự hiểu biết về xã hội cũng như pháp luật của nhà nước. Bị cáo nhận thức được hành vi "Tàng trữ trái phép chất ma túy" là vi phạm pháp luật, song do chơi bời nên bị cáo đã mắc vào tệ nạn nghiện chất ma túy nên bị cáo đã thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng cho bản thân, nên cần phải xử lý bị cáo nghiêm khắc trước pháp luật.

[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng;

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tiền án, tiền sự, tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Do đó bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51- Bộ luật hình sự 2015.

[4] Về hình phạt chính: Hội đồng xét xử xét thấy đối với bị cáo cần có một mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo. Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo và đề nghị của Viện kiểm sát. Hội đồng xét xử quyết định áp dụng hình phạt tù có thời hạn để trừng trị, đồng thời tạo điều kiện để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người công dân lương thiện, có ích cho gia đình và xã hội.

[5] Về hình phạt bổ sung: Tại khoản 5 Điều 173 quy định: "Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng". Song xét thấy điều kiện kinh tế của bị cáo khó khăn, bị cáo không có tài sản riêng gì, nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Về vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tuyên tịch thu tiêu hủy: 01 bì thư tái niêm phong in sẵn của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lào Cai, mặt trước có ghi “Vật chứng còn lại sau trích mẫu giám định thu giữ trong vụ Vũ Xuân Ch “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.Phát hiện bắt giữ ngày 26/10/2020 tại tổ 03, phường Phan Si Păng, thị xã Sa Pa, tỉnh Lào Cai.

Đối với 01 (một) chiếc xe mô tô nhãn hiệu ESPERO BKS 24HB – 053.96 bị cáo sử dụng, quá trình điều tra, xác định chiếc xe trên là của chị Vũ Thị Thu Th, sinh năm 2000; trú tại tổ 5, phường Sa Pa, thị xã Sa Pa. Chị Th là con gái của bị cáo, chị Th đi học và để xe ở nhà, chị Th không biết việc bị cáo Ch lấy xe để sử dụng, chị Th cũng không biết và không liên quan gì đến hành vi phạm tội của bị cáo nên ngày 19/11/2020, Cơ quan CSĐT Công an thị xã Sa Pa đã ra Quyết định xử lý vật chứng số 17 trả lại chiếc xe máy cho chủ ở hữu là phù hợp.

[8] Về án phí: Bị cáo Vũ Xuân Ch phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH:

[1] Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Vũ Xuân Ch phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

[2] Về hình phạt: Căn cứ điểm c khoản 1 điều 249; Điểm s khoản 1, điều 51 của Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Vũ Xuân Ch 01(một) năm 03 (ba) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam bị cáo 26/10/2020.

[3] Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy: 01 bì thư tái niêm phong in sẵn của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lào Cai, mặt trước có ghi “Vật chứng còn lại sau trích mẫu giám định trong vụ án Vũ Xuân Ch có hành vi phạm tội về ma túy phát hiện (thu giữ) ngày 26/10/2020 tổ 03, phường Phan Si Păng, thị xã Sa Pa, tỉnh Lào Cai.

Toàn bộ vật chứng của vụ án đã được Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Sa Pa Ch giao cho Chi cục thi hành án dân sự thị xã Sa Pa theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 20/11/2020.

[4] Về án phí: Áp dụng khoản 2 điều 135 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Toà án buộc bị cáo Vũ Xuân Ch phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

[5] Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Người có quyền lợi liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án.

Trường hợp bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Tải về
Bản án số 28/2020/HS-ST Bản án số 28/2020/HS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất