Bản án số 27/2025/DS-ST ngày 17/04/2025 của TAND huyện U Minh Thượng, tỉnh Kiên Giang về đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng về tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 27/2025/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 27/2025/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 27/2025/DS-ST
Tên Bản án: | Bản án số 27/2025/DS-ST ngày 17/04/2025 của TAND huyện U Minh Thượng, tỉnh Kiên Giang về đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng về tài sản |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng về tài sản |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND huyện U Minh Thượng (TAND tỉnh Kiên Giang) |
Số hiệu: | 27/2025/DS-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 17/04/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Ông H yêu cầu ông T bồi thường thiệt hại về tài sản với số tiền 56.000.000 đồng |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
HUYỆN U MINH THƯỢNG Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
TỈNH KIÊN GIANG
Bản án số: 27/2025/DS-ST
Ngày: 31/03/2025.
“Tranh chấp dân sự về bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng”
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN U MINH THƯỢNG
- Với thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Ông Danh Hoàng
Các Hội thẩm nhân dân:
1. Ông Nguyễn Hoàng Hổ
2. Ông Lê Hoàng Vũ
- Thư ký phiên tòa: Bà Thị Thúy Kiều là Thư ký Tòa án nhân dân huyện
U Minh Thượng, Kiên Giang.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện U Minh Thượng: Ông Phạm
Hoàng Anh – Kiểm sát viên.
Trong các ngày 12, 31 tháng 03 năm 2025 tại trụ sở Tòa án nhân dân
huyện U Minh Thượng, tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý
số: 93/2024/TLST- DS, ngày 07 tháng 10 năm 2024 về việc tranh chấp hợp
đồng dân sự về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, theo Quyết định đưa vụ án
ra xét xử số: 22/2025/QĐXX-DS, ngày 18 tháng 02 năm 2025 giữa các đương
sự:
1. Nguyên đơn:
- Ông Lê Thanh H, sinh năm 1986 (Có mặt).
Địa chỉ: Ấp Lê Minh B, xã Thạnh Yên A, huyện U Minh Th, tỉnh Kiên G.
- Ông Nguyễn Hoàng K, sinh năm 1979 (Có mặt).
Địa chỉ: Ấp An Hòa, xã Định An, huyện Gò Q, tỉnh Kiên G.
Chỗ ở hiện nay: Ấp Trung Đ, xã An Minh B1, huyện U Minh T1, tỉnh
Kiên G.
2. Bị đơn:
2
- Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1973 (Có mặt).
- Bà Phạm Thị Thu N, sinh năm 1977 (Vợ ông Thắng – Có mặt).
Địa chỉ: Ấp Trung Đ, xã An Minh B1, huyện U Minh T1, tỉnh Kiên G.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện ngày 05/8/2024 và các lời khai trong quá trình giải
quyết vụ án nguyên đơn ông Lê Thanh H, ông Nguyễn Hoàng K trình bày:
Ông Lê Thanh H và ông Nguyễn Hoàng K (Sau đây gọi tắt là ông H, ông
K) thỏa thuận hợp tác trồng cây dừa dứa và cây chuối, có hợp đồng hợp tác ngày
12/6/2020 trên phần đất ông K, tọa lạc ấp Trung Đ, xã An Minh B1, huyện U
Minh T1, tỉnh Kiên G. Sau gần 04 năm trồng thì khoảng 16 giờ ngày 16/4/2024,
ông Nguyễn Văn T (Gọi tắt là ông T) đi ra khu vực rẫy cặp ranh đất ông K để
làm cỏ, cuốc đất, trồng rau. Quá trình làm cỏ ông T có dùng quẹt gas (bật lửa)
đốt cỏ khô cặp mé kênh giáp đất ông H, ông K đang trồng cây chuối, cây dừa đã
làm cháy khoảng 20m. Sau đó, ông T dùng nước dập lửa và đi vào nhà. Sau khi
ông T vào nhà thì ngọn lửa tiếp tục cháy. Hậu quả làm cháy toàn bộ 89 cây dừa
dứa và 77 bụi chuối xiêm.
Căn cứ Quyết định số 1223/QĐ-UBND ngày 20/5/2022 của Ủy ban nhân
dân tỉnh Kiên Giang về việc ban hành quy định giá bồi thường cây trồng, vật
nuôi là thủy sản trên địa bàn tỉnh Kiên Giang năm 2022 thì thiệt hại thực tế xảy
ra phải được xác định có giá trị, như sau:
- 89 cây dừa thuộc loại A, có giá 1.091.000đ x 89 cây = 97.099.000 đồng;
Cây dừa đang thu hoạch nhưng bị thiệt hại, do đó để thu hoạch 89 cây dừa
như hiện nay phải mất thời gian trồng và chăm sóc trong vòng 03 năm 10 tháng
(tính từ ngày xảy ra thiệt hại ngày 16/4/2024 đến ngày 16/02/2028), 01 buồng
dừa bằng 12 trái, 01 cây dừa = 10 buồng/năm. Vậy 01 cây dừa bằng 120 trái
dừa/năm. Tổng cộng 89 cây x 120 trái = 10.680 trái. Năm 2024 giá 01 trái dừa
dứa 5.000 đồng. Vậy 10.680 trái x 5.000đ = 53.400.000đ/năm.
- Mất thu nhập cây dừa trong thời gian tới (trong tương lai) là 03 năm 10
tháng x 53.400.000đ/năm = 204.700.000 đồng.
Ông H trừ chi phí chăm sóc trong 01 năm của 01 cây dừa, như: Công rửa
cây dừa, phân bón 3,5 kg, tiền thuê đất người bón phân, thuốc sâu bệnh, thuốc
dưỡng, diệt cỏ, tiền thuê đất, cụ thể:
+ Công rửa dừa: 20.000đ/cây.
+ Phân bón: 3,5kg x 20.000đ/kg phân = 70.000 đồng.
+ Tiền thuê người bón phân: 9.000 đồng.
3
+ Thuốc sâu: 01 bình phun, có giá 70.000đ, phun được 18 cây dừa. Mỗi
năm 01 cây dừa phun 06 lần (tức là 02 tháng phun lần). Vậy 01 cây dừa/năm =
70.000đ : 18 cây = 3.889đ x 6 lần = 23.300 đồng.
+ Diệt cỏ: 70.000đ/bình (bao gồm công phun), phun 04 bình/lần, mỗi năm
phun 03 lần. Tức là 70.000đ x 04 bình lần x 03 lần = 848.000đ/89 cây =
9.438đ/cây.
+ Tiền thuê đất: 4.500m
2
x 1.500.000đ = 6.750.000đ/89 cây dừa = 75.800
đồng.
Tổng chi phí 01 cây dừa/năm bằng: 20.000đ + 70.000đ + 9.000đ +
23.300đ + 9.438đ + 75.800đ = 207.538đ/năm x 04 năm x 89 cây = 73.883.000
đồng.
Sau khi khấu trừ chi phí sản xuất, nên tiền mất thu nhập trong tương lai
(03 năm 10 tháng): 204.700.000đ - 73.883.000đ = 130.817.000 đồng.
- 77 bụi chuối, trong đó 01 bụi chuối gồm các loại như sau:
+ Loại A, có 03 cây x 64.000đ/cây = 192.000 đồng;
+ Loại B, có 05 cây x 50.000đ/cây = 250.000 đồng;
+ Loại C, có 04 cây x 25.000đ/cây = 100.000 đồng.
Như vậy, 01 bụi chuối có giá là 542.000đ x 77 bụi = 41.734.000 đồng.
- Mất thu nhập cây chuối trong thời gian 12 tháng tới (Kể từ ngày xảy ra
thiệt hại ngày 16/4/2024 đến ngày 16/4/2025) là 38.268.000 đồng, cụ thể: Mỗi
tháng thu hoạch trái chuối và bắp chuối: Giá 3.189.000đ/tháng/bờ (không tính
được chi tiết buồng chuối và bắp chuối) x 12 tháng = 38.268.000 đồng.
Ông H, ông K yêu cầu vợ chồng ông T, bà Phạm Thị Thu N (Gọi tắt là
bà N) bồi thường thiệt hại tài sản thực tế và tiền mất thu nhập của cây dừa và
cây chuối trong thời gian tới, tổng cộng: 97.099.000đ + 130.817.000đ +
41.734.000đ + 38.268.000đ = 307.918.000 đồng.
Theo đơn khởi kiện ông H, ông K yêu cầu bị đơn ông T, bà N bồi thường
thiệt hại số tiền 333.075.000 đồng. Tại phiên hòa giải ông H, ông K xác định lại
yêu cầu khởi kiện, yêu cầu vợ chồng ông T, bà N bồi thường thiệt hại tổng số
tiền 307.918.000 đồng.
- Bị đơn ông Nguyễn Văn T, bà Phạm Thị Thu N (Vợ ông T) trình bày:
Ông T thừa nhận ngày 16/4/2024, vợ chồng ông T, bà N có ra rẫy, thuộc ấp
Trung Đ, xã An Minh B1, huyện U Minh T1, tỉnh Kiên G để làm cỏ, cuốc đất
trồng rau. Ông T có dùng bật lửa đốt cỏ khô cặp mé kênh giáp đất ông H, ông K
đang trồng cây chuối, cây dừa đã làm cháy khoảng 20m trên phần đất của vợ
4
chồng ông T, bà N. Sau đó, ông T có dùng nước dập lửa và vợ chồng ông T, bà
N đi vào nhà. Sau khi ông T, bà N vào nhà thì ngọn lửa tiếp tục cháy lan ra phần
đất ông H, ông K làm cháy 89 cây dừa dứa và 77 bụi chuối xiêm.
Vợ chồng ông T, bà N đồng ý bồi thường cho ông H, ông K theo bản kết
luận định giá số: 07/KL-HĐĐGTS ngày 24/5/2024 của Hội đồng định giá tài sản
trong tố tụng hình sự huyện U Minh T1, với tổng giá trị tài sản bị thiệt hại là
51.666.000 đồng. Vợ chồng ông T, bà N không đồng ý bồi thường theo yêu cầu
của phía nguyên đơn.
Tại phiên tòa:
Nguyên đơn ông H trình bày: Ông K có phần đất tọa lạc ấp Trung Đ, xã
An Minh B1, huyện U Minh T1, tỉnh Kiên G nên ông H, và ông K có thỏa thuận
hợp tác trồng cây dừa dứa và cây chuối. Năm 2020 ông K ra phần đất, còn ông
H bỏ ra vốn (Tiền), hai người cùng chồng chuối và cây dừa dứa. Ngày
16/4/2024, ông T đi ra khu vực rẫy cặp ranh đất ông K để làm cỏ, cuốc đất trồng
rau, ông T dùng quẹt bật lửa đốt cỏ khô cặp mé kênh giáp đất ông H, ông K
đang trồng cây chuối, cây dừa đã làm cháy 01 bờ líp ngang 07 mét, chiều dài
320 mét. Thiệt hại cháy toàn bộ 89 cây dừa dứa và 77 bụi chuối xiêm. Theo bản
kết luận định giá số: 07/KL-HĐĐGTS ngày 24/5/2024 của Hội đồng định giá tài
sản trong tố tụng hình sự huyện U Minh T, với giá trị tài sản bị thiệt hại là
51.666.000 đồng.
Ngày 26/12/2024 ông H, ông K có đơn không yêu cầu định giá lại tài sản
bị thiệt hại và thống nhất Bản kết luận định giá số: 07/KL-HĐĐGTS ngày
24/5/2024 để làm căn cứ cho Tòa án xem xét giải quyết.
Tại phiên tòa ông H thay đổi ý kiến đề nghị HĐXX xem xét: Buộc vợ
chồng ông T, bà N phải bồi thường thiệt hại, tổng giá trị tài sản bị thiệt hại là
307.918.000 đồng. Trong đó:
- 89 cây dừa thuộc loại A, có giá 1.091.000đ x 89 cây = 97.099.000 đồng;
- 77 bụi chuối x 542.000đ = 41.734.000 đồng.
Một bụi chuối gồm có:
+ Loại A, có 03 cây x 64.000đ/cây = 192.000 đồng;
+ Loại B, có 05 cây x 50.000đ/cây = 250.000 đồng;
+ Loại C, có 04 cây x 25.000đ/cây = 100.000 đồng.
Như vậy, 01 bụi chuối có giá là 542.000đ x 77 bụi = 41.734.000 đồng.
- Tiền mất thu nhập cây dừa dứa trong thời gian tiếp theo (tương lai) là 03
năm 10 tháng (tính từ ngày xảy ra thiệt hại ngày 16/4/2024 đến ngày
5
16/02/2028). Sau khi khấu trừ chi phí sản xuất đối với 89 cây dừa, thì ông Hoài
yêu cầu bồi thường 130.817.000 đồng.
- Tiền mất thu nhập cây chuối trong thời gian tiếp theo (tương lai) là 12
tháng (Kể từ ngày xảy ra thiệt hại ngày 16/4/2024 đến 16/4/2025). Sau khi khấu
trừ chi phí sản xuất, thì 77 bụi chuối ông Hoài yêu cầu bồi thường là 38.268.000
đồng.
Tổng cộng: 97.099.000đ + 130.817.000đ + 41.734.000đ + 38.268.000đ =
307.918.000 đồng.
Nguyên đơn ông K thống nhất với lời trình bày của ông H, không bổ sung
gì thêm.
Bị đơn ông T, bà N đồng ý bồi thường cho ông H, ông K thiệt hại cây dừa
và cây chuối theo kết luận định giá số: 07/KL-HĐĐGTS ngày 24/5/2024 của
Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện U Minh T1, với tổng giá
trị tài sản bị thiệt hại là 51.666.000 đồng.
Vợ chồng ông T, bà N không đồng ý bồi thường theo yêu cầu của phía
nguyên đơn. Do hiện nay các cây dừa dứa và bụi chuối đều phát triển tốt, cây
chuối ông H, ông K đang thu hoạch bình thường, không có thiệt hại. Đồng thời,
tại thời điểm bị cháy là mua khô, các cây trồng của ông H, ông K cũng không
tốt. Trong đó, cây chuối có bụi chết sẳn, sau này có mưa thì phát triển tươi tốt
như hiện nay. Do vậy, ông T, bà N không đồng ý bồi thường tiền mất thu nhập
cây dừa dứa, cây chuối trong thời gian tiếp theo, việc này là vô lý.
Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án:
Về thủ tục tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án đến thời điểm nghị án, Thẩm phán,
Hội đồng xét xử (HĐXX) đã thực hiện, chấp hành đúng các quy định của Bộ
luật tố tụng dân sự.
Về nội dung vụ án: Đề nghị HĐXX áp dụng Điều 92 Bộ luật tố tụng dân
sự; Điều 584, 585, 586 và Điều 589 Bộ luật dân sự để chấp nhận một phần yêu
cầu khởi kiện của nguyên đơn ông H, ông K; buộc vợ chồng ông T, bà N bồi
thường cho ông H, ông K thiệt hại về tài sản là cây dừa dứa, cây chuối bị cháy
theo Kết luận định giá số 07, số tiền 51.666.000 đồng.
Không chấp nhận yêu cầu của ông H, ông K về việc yêu cầu vợ chồng
ông T, bà N bồi thường tiền mất thu nhập của cây dừa, cây chuối trong thời gian
tới, với số tiền 169.085.000 đồng. (Trong đó, mất thu nhập cây dừa thời gian 03
năm 10 tháng, kể từ ngày xảy ra thiệt hại ngày 16/4/2024 đến 16/4/2025, bằng
6
130.817.000 đồng; mất thu nhập cây chuối trong thời gian 12 tháng kể từ ngày
xảy ra thiệt hại ngày 16/4/2024 đến 16/4/2025, bằng 38.268.000 đồng).
Nguyên đơn ông H, ông K phải chịu án phí đối với nội dung yêu cầu
không được Tòa án chấp nhận theo quy định pháp luật.
Bị đơn ông T, bà N phải chịu án phí theo quy định pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại
phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về thẩm quyền xét xử: Xét mối quan hệ tranh chấp giữa các đương sự
là tranh chấp dân sự về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Đương sự có nơi cư
trú trên địa giới hành chính huyện U Minh T1, nên căn cứ các khoản 6 Điều 26,
điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 Tòa án nhân dân
huyện U Minh T1 thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền.
[2]. Về quan hệ pháp luật: Tranh chấp giữa nguyên đơn ông H, ông K là
tranh chấp dân sự về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Cụ thể nguyên đơn
ông H, ông K yêu cầu bị đơn ông T, bà N bồi thường thiệt hại về tài sản là cây
dừa dứa, cây chuối bị đốt cháy và bồi thường tiền mất thu nhập của cây dừa, cây
chuối trong thời gian tới, với tổng số tiền 307.918.000 đồng.
[3]. Về yêu cầu của đương sự: Nguyên đơn ông H, ông K thỏa thuận hợp
tác trồng cây dừa dứa và cây chuối, bằng hợp đồng hợp tác ngày 12/6/2020 trên
phần đất của ông K, tọa lạc ấp Trung Đ, xã An Minh B1, huyện U Minh T1, tỉnh
Kiên G cặp ranh đất của vợ chồng ông T, bà N. Ngày 16/4/2024 vợ chồng ông
T, bà N dùng bật lửa đốt cỏ khô cặp mé kênh giáp đất ông H, ông K đang trồng
cây chuối, cây dừa đã làm cháy 01 bờ líp chiều ngang 07 mét, dài 320 mét, làm
cháy toàn bộ 89 cây dừa dứa và 77 bụi chuối xiêm. Ông H, ông K yêu cầu vợ
chồng T, bà N bồi thường thiệt hại cho 89 cây dừa dứa, số tiền 97.099.000 đồng,
77 bụi chuối xiêm, số tiền 41.734.000 đồng; bồi thường thiệt hại mất thu nhập
của cây dừa và cây chuối số tiền 169.085.000 đồng. (Trong đó, mất thu nhập cây
dừa trong thời gian 03 năm 10 tháng, kể từ ngày xảy ra thiệt hại ngày 16/4/2024
đến 16/4/2025, bằng 130.817.000 đồng; mất thu nhập cây chuối trong thời gian
12 tháng, kể từ ngày xảy ra thiệt hại ngày 16/4/2024 đến 16/4/2025, bằng
38.268.000 đồng). Tổng cộng yêu cầu bồi thường thiệt hại 307.918.000 đồng.
Bị đơn ông T, bà N thừa nhận ngày 16/4/2024 ông, bà có dùng bật lửa đốt
cỏ khô cặp mé kênh giáp đất ông H, ông K đang trồng cây chuối, cây dừa, đã
7
làm cháy 89 cây dừa dứa và 77 bụi chuối xiêm. Vợ chồng ông T, bà N đồng ý
bồi thường cho ông H, ông K theo kết luận định giá số 07/KL-HĐĐGTS ngày
24/5/2024 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện U Minh T1,
với giá trị tài sản bị thiệt hại là 51.666.000 đồng. Ông T, bà N không đồng ý bồi
thường thiệt hại tiền mất thu nhập trong thời gian tới đối với cây dừa dứa và cây
chuối, với số tiền 169.085.000 đồng.
[4]. Về thiệt hại vật chất:
Trong quá trình giải quyết vụ án, cũng như tại phiên tòa nguyên đơn ông
H, ông K và bị đơn ông T, bà N đều thống nhất thiệt hại gây ra gồm 89 cây dừa
dứa và 77 bụi chuối xiêm.
Ngày 14/3/2025 Tòa án đã xem xét thẩm định tại chỗ có kết quả như sau:
Phân đất của ông K bị đốt cháy là 01 bờ líp, có chiều ngang 07 mét, dài 320 mét.
Trên bờ có 89 cây dừa dứa và 77 bụi chuối. Trong đó, có 03 cây dừa dứa chết
hoàn toàn, 09 cây dừa dứa bị suy yếu nặng (Khả năng sống khoảng 20%), còn
lại 77 cây dừa dứa đang sống phát triển bình thường; 77 bụi chuối xiêm đang
sống, phát triển bình thường, hiện đang ra bắp chuối, trái chuối.
Theo Kết luận định giá số 07/KL-HĐĐGTS ngày 24/5/2024 của Hội đồng
định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện U Minh Thượng, với giá trị tài sản
bị thiệt hại 77 bụi chuối, là 7.700.000 đồng và 89 cây dừa dứa là 43.966.000
đồng, tổng cộng 51.666.000 đồng. Nguyên đơn ông H, ông K không đồng ý với
Kết quả số 07, các ông cho rằng thiệt hại thực tế 89 cây dừa dứa, số tiền
97.099.000 đồng và 77 bụi chuối xiêm, số tiền 41.734.000 đồng.
Tại văn bản số 216/2024/CV-TVAP ngày 29/11/2024 của Công ty TNHH
Định Giá Thịnh Vượng về việc trả lời Quyết định định giá tài sản số
27/2024/QĐ-ĐGTS ngày 27/11/2024 của Tòa án. Tài sản yêu cầu định giá là các
cây trồng trên đất bị đốt cháy như cây dừa, cây chuối … cây được trồng trên đất,
tọa lạc ấp Trung Đ, xã An Minh B1, huyện U Minh T1, tỉnh Kiên G. Do hiện
trạng tài sản các cây trồng trên đất đã bị đốt cháy nên Công ty không đủ cơ sở để
thực hiện định giá tài sản. Vì vậy, ngày 26/12/2024 nguyên đơn ông H, ông K có
đơn không yêu cầu định giá lại tài sản bị thiệt hại và thống nhất tài sản bị thiệt
hại theo Kết luận định giá số: 07/KL-HĐĐGTS ngày 24/5/2024 của Hội đồng
định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện U Minh T1, với giá trị tài sản bị
thiệt hại là 51.666.000 đồng để Tòa án xem xét giải quyết vụ án. Tuy nhiên, tại
phiên tòa ông H, ông K thay đổi yêu cầu xem xét bồi thường thiệt hại thực tế
cây dừa, cây chuối, tổng số tiền 138.833.000 đồng, nhưng bị đơn ông T, bà N
8
không đồng ý, mà bị đơn đồng ý bồi thường cho nguyên đơn thiệt hại thực tế
cây dừa, cây chuối theo Kết luận số 07, bằng số tiền 51.666.000 đồng. HĐXX
nhận thấy: Để đảm bảo quyền lợi ích hợp pháp của nguyên đơn, tài sản bị thiệt
hại. Trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án nhiều lần cho nguyên đơn ông H,
ông K lựa chọn Cơ quan Nhà nước hay Công ty tư nhân để định giá lại tài sản bị
thiệt hại, nhưng nguyên đơn thực hiện không được và nguyên đơn thống nhất
Kết luận định giá số 07 để Tòa án làm căn cứ giải quyết vụ án, như đã phân tích
ở phần trên. Đây là sự tự nguyện của nguyên đơn, phù hợp với quy định pháp
luật, nên HĐXX thống nhất Kết luận định giá tài sản số 07 để làm căn cứ, xem
xét bồi thường thiệt hại thực tế. Do vậy, cần chấp nhận một phần yêu cầu của
nguyên đơn, ghi nhận bị đơn ông T, bà N bồi thường cho ông H, ông K thiệt hại
thực tế cây dừa, cây chuối số tiền 51.666.000 đồng; không chấp nhận yêu cầu
của nguyên đơn số tiền 138.833.000đ – 51.666.000đ = 87.167.000 đồng.
Xét yêu cầu của nguyên đơn ông H, ông K cho rằng các cây dừa và bụi
chuối bị ông T đốt cháy, làm thiệt hại mất thu nhập trong thời gian tới, cụ thể:
Mất thu nhập cây dừa dứa trong thời gian 03 năm 10 tháng thì cây dừa mới cho
trái thu hoạch (Từ ngày xảy ra thiệt hại ngày 16/4/2024 đến ngày 16/4/2025),
sau khi trừ chi phí sản xuất thì yêu cầu vợ chồng ông T, bà N bồi thường, số tiền
130.817.000 đồng; mất thu nhập cây chuối trong thời gian 12 tháng (Từ ngày
xảy ra thiệt hại ngày 16/4/2024 đến ngày 16/4/2025), trừ chi phí sản xuất xong
yêu cầu bồi thường, số tiền 38.268.000 đồng. Tổng cộng là 169.085.000 đồng.
Ông H, ông K yêu cầu vợ chồng ông T, bà N bồi thường thiệt hại tiền mất thu
nhập cây dừa, cây chuối trong thời gian tới (phát sinh thiệt hại trong tương lai),
số tiền 169.085.000 đồng.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 584 Bộ luật dân sự: “Người nào có hành
vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền,
lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ
trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác”.
Xét thấy, việc nguyên đơn ông H, ông K yêu cầu bị đơn ông T, bà N phải
bồi thường tiền mất thu nhập 89 cây dừa dứa và 77 bụi chuối trong thời gian nêu
trên, bằng số tiền 169.085.000 đồng là không có căn cứ. HĐXX cần căn cứ vào
thiệt hại thực tế xảy ra trực tiếp và gián tiếp, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi
gây thiệt hại và thiệt hại xảy ra được định giá là 51.666.000 đồng để làm căn cứ
bồi thường. Mặt khác, thiệt hại thực tế và phải có hậu quả thực tế đến đâu thì bồi
thường đến đó, nhưng yêu cầu của nguyên đơn là yêu cầu tiền mất thu nhập
9
trong thời gian tới, hậu quả thiệt hại chưa xảy ra, nên không phù hợp quy định
pháp luật.
Xét lời đề nghị của Vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện U Minh
Thượng, tỉnh Kiên Giang phù hợp với nhận định của HĐXX, có căn cứ nên chấp
nhận.
[5].Về mức độ lỗi: Bị đơn ông T, bà N thừa nhận ngày 16/4/2024 có hành
vi dùng bật lửa đốt cỏ khô trên phần đất giáp ranh đất ông H, ông K đang trồng
cây dừa dứa, cây chuối. Hậu quả làm cháy 89 cây dừa và 77 bụi chuối của ông
H, ông K nên lỗi hoàn toàn của ông T, bà N. HĐXX xét thấy, ông T có hành vi
trái pháp luật, có lỗi gây thiệt hại về tài sản thuộc quyền sở hữu của ông H, ông
K. Các bên không tự thỏa thuận được với nhau về mức bồi thường nên vợ chồng
ông T, bà N có trách nhiệm bồi thường theo quy định tại các Điều 584, 585, 588
và Điều 589 Bộ luật dân sự.
[6]. Về án phí dân sự sơ thẩm.
Ông H, ông K khởi kiện số tiền 307.918.000 đồng được chấp nhận một
phần yêu cầu với số tiền 51.666.000 đồng, nên không chấp nhận yêu cầu với số
tiền 256.252.000 đồng.
Ông H, ông K phải chịu án phí số tiền 12.812.600 đồng (Làm tròn
12.812.000 đồng). Ông K, ông H mỗi người phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là
6.406.000 đồng, nhưng được khấu trừ số tiền tạm ứng án phí ông H đã nộp
6.326.000 đồng, theo biên lại thu số: 0000666 ngày 25/9/2024 của Chi cục Thi
hành án dân sự huyện U Minh Thượng; khấu trừ cho ông K tiền tạm ứng án phí
đã nộp 2.000.000 đồng, theo biên lại thu số: 0000667 ngày 25/9/2024 của Chi
cục Thi hành án dân sự huyện U Minh Thượng. Như vậy, ông H còn phải nộp
thêm 80.000 đồng, ông K nộp thêm 4.406.000 đồng.
Vợ chồng ông T, bà N phải chịu án phí là 2.583.300 đồng (Làm tròn
2.583.000 đồng).
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
- Căn cứ vào các Điều 26, Điều 39, Điều 92, Điều 147, khoản 1 Điều 228,
Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
- Áp dụng các Điều 584, Điều 585, Điều 588, Điều 589, khoản 2 Điều 468
của Bộ luật dân sự năm 2015; các Điều 6, khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số:
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội về án
phí, lệ phí Tòa án.
10
Tuyên xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Lê Thành H, ông
Nguyễn Hoàng K đối với ông Nguyễn Văn T, bà Phạm Thị Thu N về việc tranh
chấp dân sự về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Ghi nhận vợ chồng ông Nguyễn Văn T, bà Phạm Thị Thu N có nghĩa vụ
bồi thường cho ông Lê Thành H, ông Nguyễn Hoàng K số tiền 51.666.000 đồng
(Năm mươi mốt triệu, sáu trăm sáu mươi sáu nghìn đồng).
Các bên trực tiếp giao nhận tiền hoặc giao nhận tại Chi cục Thi hành án
dân sự huyện U Minh Thượng, tỉnh Kiên Giang.
Nếu ông T, bà N vi phạm nghĩa vụ trả nợ và kể từ ngày có đơn yêu cầu thi
hành án của ông H, ông K thì vợ chồng ông T, bà N còn phải trả lãi trên số tiền
chậm trả theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm
2015.
2. Không chấp nhận yêu cầu của ông Lê Thành H, ông Nguyễn Hoàng K
đối với ông Nguyễn Văn T, bà Phạm Thị Thu N với số tiền 256.252.000 đồng
(Hai trăm năm mươi sáu triệu, hai trăm năm mươi hai nghìn đồng).
3. Về án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch:
Vợ chồng ông T, bà N phải chịu số tiền 2.583.000 đồng (Hai triệu, năm
trăm tám mươi ba nghìn đồng).
Ông H, ông K phải chịu 12.812.000 đồng. Ông K, ông H mỗi người phải
chịu án phí dân sự sơ thẩm là 6.406.000 đồng, nhưng được khấu trừ số tiền tạm
ứng án phí ông H đã nộp 6.326.000 đồng, theo biên lại thu số: 0000666 ngày
25/9/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện U Minh Thượng; khấu trừ cho
ông K tiền tạm ứng án phí đã nộp 2.000.000 đồng, theo biên lại thu số: 0000667
ngày 25/9/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện U Minh Thượng. Như
vậy, ông H còn phải nộp thêm số tiền 80.000 đồng (Tám mươi nghìn đồng), ông
K nộp thêm số tiền 4.406.000 đồng (Bốn triệu, bốn trăm lẻ sáu nghìn đồng).
4. Quyền kháng cáo: Đương sự có mặt có quyền kháng cáo bản án trong
thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2
Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành
án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự
nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7,
7a và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện
theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự”.
11
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
- Tòa án nhân dân tỉnh KG; THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- Viện kiểm sát nhân dân huyện UMT; (Đã ký, đóng dấu)
- Chi cục Thi hành án DS huyện UMT;
- Các đương sự;
- Lưu.
Danh Hoàng
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 07/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 23/07/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 24/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 18/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 13/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 11/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 30/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 30/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 29/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 27/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 15/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 15/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 13/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 13/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 05/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 29/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 29/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 28/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 28/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 25/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm