Bản án số 24/2023/HS-ST ngày 23/03/2023 của TAND huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng tội danh
- Tải về
-
Bản án số 24/2023/HS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Thuộc tính Bản án 24/2023/HS-ST
Tên Bản án: | Bản án số 24/2023/HS-ST ngày 23/03/2023 của TAND huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy |
---|---|
Tội danh: | 197.Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy (Bộ luật hình sự năm 1999) |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND huyện Châu Thành (TAND tỉnh Tây Ninh) |
Số hiệu: | 24/2023/HS-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 23/03/2023 |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ án: |
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH TÂY NINH
BẢN ÁN 24/2023/HS-ST NGÀY 23/03/2023 VỀ TỘI TỔ CHỨC SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 23 tháng 3 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 01/2023/HSST ngày 12 tháng 01 năm 2023. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 18/2023/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 3 năm 2023 đối với các bị cáo:
1. Trần Văn L (Sáu Đ), sinh năm 1975, tại tỉnh Tây Ninh;
Nơi cư trú: ấp Nam Bến S, xã Thành L, huyện C T, tỉnh Tây Ninh; Nghề nghiệp: Làm mướn; Trình độ văn hóa: 08/12; Giới T: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông Trần Văn B (đã chết) và bà Nguyễn Thị C (còn sống); Có vợ Trần Ngọc A, có 02 người con lớn nhất sinh năm 1995, nhỏ nhất sinh năm 2003;
Tiền án, tiền sự: Không có;
- Bị cáo có nhân thân xấu: Tại bản án hình sự số 22/HSST ngày 31/3/2011 của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉn Tây Ninh xử phạt 5.000.000 đồng về tội đánh bạc, bị cáo chấp hành xong hình phạt tiền và án phí ngày 01/8/2011 (đã được xóa án tích).
- Tại quyết định xử phạt vi phạm hành chính số: 93/QĐ-XPVPHC Ngày 14/5/2019, xử phạt Trần Văn L 750.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, nộp phạt vào ngày 20/5/2019 (đã hết thời hạn bị coi là đã bị xử phạt vi phạm hành chính).
Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 19/11/2022 đến ngày 25/11/2022 chuyển tạm giam đến nay có mặt tại phiên tòa.
2. Nguyễn Thanh T, sinh năm 1984, tại tỉnh Tây Ninh;
Nơi cư trú: ấp Nam Bến S, xã Thành L, huyện C T, tỉnh Tây Ninh. Nghề nghiệp: Làm mướn; Trình độ văn hóa: 12/12; Giới T: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông Nguyễn Thanh T (đã chết) và bà Hồng Ngọc Đ (còn sống); Có vợ Lê Thị Kim Th, có 01 người con sinh năm 2012;
Tiền án, tiền sự: Không có;
Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 19/11/2022 đến ngày 25/11/2022 chuyển tạm giam đến nay có mặt tại phiên tòa.
3. Phạm Thanh L1, sinh năm 1986, tại tỉnh Tây Ninh;
Nơi cư trú: ấp Nam Bến S, xã Thành L, huyện C T, tỉnh Tây Ninh. Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ văn hóa: 11/12; Giới T: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông Phạm Văn Th (còn sống) và bà Nguyễn Thị Ti (còn sống); Có vợ Nguyễn Thị C Nh (đã ly hôn), có 02 người con lớn nhất sinh năm 2007, nhỏ nhất sinh năm 2021;
Tiền án, tiền sự: Không có;
Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 19/11/2022 đến ngày 25/11/2022 chuyển tạm giam đến nay có mặt tại phiên tòa.
4. Lý Nhật L2, sinh năm 1980, tại tỉnh Tây Ninh;
Nơi cư trú: ấp Bắc Bến S, xã Thành L, huyện C T, tỉnh Tây Ninh. Nghề nghiệp: Làm mướn; Trình độ văn hóa: 09/12; Giới T: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông Lý Văn B (còn sống) và bà Võ Thị Nh (còn sống); Có vợ Phùng Thị D (đã ly hôn), có 01 người con sinh năm 2001;
Tiền án, tiền sự: Không có;
Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 19/11/2022 đến ngày 25/11/2022 chuyển tạm giam đến nay có mặt tại phiên tòa.
Ngƣời bào chữa cho bị cáo Lý Nhật L2: Luật sư Đinh Thái H và luật sư Phạm Hồng P, thuộc Công ty luật Bảo Nguyên Minh- Đoàn luật sư tỉnh Tây Ninh.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào lúc 23 giờ ngày 19/11/2022, tại quán Karaoke S thuộc ấp Bắc S, xã L, huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh, Công an huyện Châu Thành tiến hành kiểm tra phòng số 05 phát hiện, bắt quả tang Trần Văn L, Nguyễn Thanh T, Phạm Thanh L1 và Lý Nhật L2 đang có hành vi tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy cho Trần Thị Lệ H; Nguyễn Thị Kim Y; Nguyễn Chánh T2; Nguyễn Thị Hoàng O; Nguyễn Ngọc Anh Tr và Vi Thị Ngh. Vật chứng thu giữ gồm: Thu trên bàn trong phòng số 05 một tờ tiền Việt Nam mệnh giá 2.000 đồng và một tờ tiền Việt Nam mệnh giá 20.000 đồng được cuộn tròn (ký hiệu M1), thu trên dĩa sứ màu trắng để trên bàn có chất tinh thể rắn màu trắng (ký hiệu M2) và các vật chứng liên quan đến việc sử dụng ma túy.
Quá trình điều tra chứng minh được: Vào khoảng 18 giờ ngày 19/11/2022, do có nhu cầu sử dụng ma túy nên Trần Văn L, Nguyễn Thanh T, Phạm Thanh L1 thỏa thuận với nhau hùn tiền mua ma túy về sử dụng và sẽ chia đều tiền sau khi sử dụng xong thì tất cả đồng ý. T gọi điện thoại cho Lý Nhật L2 đặt phòng tại quán Karaoke S thuộc ấp Bắc S, xã L, huyện Châu Thành để sử dụng ma túy và rủ L2 cùng tham gia sử dụng ma túy thì L2 đồng ý. Sau đó, L2 điện thoại nói cho T biết đã đặt được phòng số 05 tại quán Karaoke S và kêu T đến trước còn L2 sẽ đến sau.
L bỏ ra trước số tiền 4.000.000đ đưa cho người phụ nữ tên C (không rõ họ tên, địa chỉ) để đi mua ma túy và kêu C sau khi mua ma tuý xong thì đem đến quán Karaoke S để sử dụng. L1 rủ Nguyễn Thị Kim Y. L rủ Nguyễn Chánh T2, Nguyễn Thị Hoàng O và Trần Thị Lệ H cùng nhau đến phòng số 05 quán Karaoke S để sử dụng trái phép chất ma túy, bay lắc thì tất cả đồng ý. Tại phòng số 05 quán Karaoke S, L kêu Nguyễn Ngọc Anh Tr (thời điểm này Tr được 15 tuổi 07 tháng 28 ngày) là nhân viên của quán vào phòng để phục vụ hát karaoke. Trong lúc đang hát thì C mang ma tuý vào trong phòng rồi L nhờ C pha chế và chuẩn bị các dụng cụ để cho mọi người cùng sử dụng ma tuý thì C đồng ý. Sau khi pha chế ma tuý xong thì C đi ra về. L, T, L1, Y, H, O và Tr cùng nhau sử dụng ma tuý và bay lắc. Riêng T đang chơi game nên chưa sử dụng ma tuý. Trong lúc đang sử dụng ma túy thì Lý Nhật L2 đi vào phòng cùng tham gia sử dụng ma túy rồi L2 đi ra ngoài rủ thêm Vi Thị Ngh là nhân viên quán vào phòng để tham gia sử dụng ma túy chung nhưng Ngh chưa kịp sử dụng thì bị bắt quả tang.
Tại Kết luận giám định số: 1502 ngày 22/11/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tây Ninh, kết luận: Mẫu thu giữ, ký hiệu M2 gửi đến giám định là chất ma túy, loại Ketamine, khối lượng 0,1284 gam.
Quá trình điều tra, Trần Văn L, Nguyễn Thanh T, Phạm Thanh L1, Lý Nhật L2 đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.
Tại bản Cáo trạng số: 03/CT-VKSCT ngày 10 tháng 01 năm 2023, Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh đã truy tố các bị cáo Trần Văn L (Sáu Đ), Nguyễn Thanh T, Phạm Thanh L1 và Lý Nhật L2 về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b, c khoản 2 Điều 255 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố các bị cáo Trần Văn L, Nguyễn Thanh T, Phạm Thanh L1 và Lý Nhật L2 phạm tội như nêu trên và đề nghị xem xét:
Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.
Tình tiết giảm nhẹ: Các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm b, c khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo Trần Văn L từ 07 năm 06 tháng đến 08 năm 06 tháng tù.
Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm b, c khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh T từ 07 năm đến 08 năm tù.
Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm b, c khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo Phạm Thanh L1 07 năm đến 08 năm tù.
Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm b, c khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo Lý Nhật L2 từ 07 năm đến 08 năm tù. Xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.
Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đồng ý với quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh và không có ý kiến gì khác.
Về xử lý vật chứng: Theo quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa luật sư Đinh Thái H và luật sư Phạm Hồng Ph bào chữa cho bị cáo Lý Nhật L2 trình bày: Không thống nhất với cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát về vai trò đồng phạm của bị cáo Lý Nhật L2 trong vụ án theo điểm b, c khoản 2 Điều 255 Bộ luật hình sự. Trong vụ án này bị cáo L2 chỉ tham gia sau cùng với vai trò đồng phạm giảm đơn theo quy định tại khoản 1 Điều 255 Bộ luật hình sự. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 Điều 255 Bộ luật hình sự và xem xét bị cáo L2 có nhiều tình tiết giảm nhẹ: Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, gia đình bị cáo có công cách mạng để xét xử bị cáo Lý Nhật L2 dưới mức thấp nhất của khoản 1 Điều 225 Bộ luật hình sự.
Lời nói sau cùng của các bị cáo: Các bị cáo Trần Văn L, Nguyễn Thanh T, Phạm Thanh L1 và Lý Nhật L2 xin giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về hành vi của các cơ quan tiến hành tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Châu Thành, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2]. Về hành vi của các bị cáo thực hiện: Vào lúc 23 giờ ngày 19/11/2022, tại quán Karaoke S thuộc ấp Bắc S, xã L, huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh, Công an huyện Châu Thành tiến hành kiểm tra phòng số 05 phát hiện, bắt quả tang Trần Văn L, Nguyễn Thanh T, Phạm Thanh L1 và Lý Nhật L2 đang tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy cho Trần Thị Lệ H; Nguyễn Thị Kim Y; Nguyễn Chánh T2; Nguyễn Thị Hoàng O; Nguyễn Ngọc Anh Tr(15 tuổi 07 tháng 28 ngày) và Vi Thị Ngh. Tổng khối lượng ma tuý thu giữ là 0,1284 gam ma tuý loại Ketamine. Hành vi phạm tội của các bị cáo Trần Văn L (Sáu Đ), Nguyễn Thanh T, Phạm Thanh L1 và Lý Nhật L2 đủ yếu tố cấu thành tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b, c khoản 2 Điều 255 Bộ luật Hình sự.
[3]. Vụ án mang T chất rất nghiêm trọng, hành vi phạm tội của các bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chế độ quản lý độc quyền của Nhà nước về các chất ma túy và ảnh hưởng đến trật tự trị an tại địa phương. Với ý thức chủ quan, bị cáo biết rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện, cần xử lý nghiêm bị cáo để đảm bảo T răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung cho xã hội.
[4]. Xét về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của các bị cáo thấy rằng:
Về tình tiết tăng nặng: Không có.
Bị cáo Trần Văn L có nhân thân xấu: Tại bản án hình sự số: 22/HS-ST ngày 31/3/2011 của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉn Tây Ninh xử phạt 5.000.000 đồng về tội đánh bạc, bị cáo chấp hành xong hình phạt tiền và án phí ngày 01/8/2011 (đã được xóa án tích).
- Tại quyết định xử phạt vi phạm hành chính số: 93/QĐ-XPVPHC Ngày 14/5/2019, xử phạt Trần Văn L 750.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, nộp phạt vào ngày 20/5/2019 (đã hết thời hạn bị coi là đã bị xử phạt vi phạm hành chính).
Về tình tiết giảm nhẹ: Các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Tình tiết giảm nhẹ này được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Riêng bị cáo Lý Nhật L2 có cha là người có công cách mạng được tặng thưởng huân chương kháng chiến hạng nhất được quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. [5]. Xét vai trò tham gia của từng bị cáo thì thấy rằng: Trong trường hợp này cả ba bị cáo L, T và bị cáo L1 thỏa thuận cùng nhau hùn số 4.000.000 đồng mua ma túy về để tổ chức cho 06 người khác sử dụng. Bị cáo Trần Văn L là người bỏ ra 4.000.000 đồng trước để mua ma túy. Bị cáo là người rủ 04 người tham gia sử dụng ma túy: T, O, Hiền và Tr (15 tuổi 07 tháng 28 ngày). Bị cáo có nhân thân xấu ngày 14/5/2019, bị xử phạt số tiền 750.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy. Nay bị cáo L lại tiếp tục có hành vi tổ chức cho nhiều người sử dụng trái phép chất ma túy trong đó có chị Tr chưa đủ 18 tuổi nên bị cáo phải chịu trách nhiệm nặng nhất trong vụ án này.
[6]. Xét vai trò tham gia của các bị cáo Nguyễn Thanh T, Phạm Thanh L1 thấy rằng: Các bị cáo Nguyễn Thanh T, Phạm Thanh L1 thỏa thuận của bị cáo L cùng nhau hùn tiền mua ma túy cho người khác sử dụng trái phép. Trong đó bị cáo T và bị cáo L1 có vai trò ngang nhau trong vụ án này. T tích cực gọi cho Lý Nhật L2 để đặt phòng tại quán Karaoke S để tổ chức cho người khác sử dụng ma túy và rủ L2 cùng tham gia sử dụng ma túy. Bị cáo L1 rủ chị Y tham gia. Nên các bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự ngang nhau trong vụ án này.
[7]. Xét vai trò tham gia của Bị cáo Lý Nhật L2 đến sau nhưng bị cáo đã đặt phòng và gọi điện thoại báo cho những bị cáo khác để cùng nhau tổ chức cho người khác sử dụng trái phép chất ma túy. Bị cáo rủ chị Vi Thị Ngh sử dụng trái phép chất ma túy nhưng chị Ngh chưa sử dụng. Bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ ngoài thành khẩn khai báo và ăn năn hối cải, bị cáo có cha là ông Lý Văn Ba là người có công với Cách mạng được tặng thưởng huân chương kháng chiến hạng nhất. Xét thấy bị cáo L2 có nhiều tình tiết giảm nhẹ được quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, cần căn cứ Điều 54 của Bộ luật hình sự xem xét giảm nhẹ hình cho bị cáo cũng đủ giáo dục răn đe và phòng ngừa chung cho xã hội.
[8]. Về biện pháp tư pháp:
Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 46; Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.
[8.1]. Đối với bị cáo Trần Văn L (Sáu Đ):
+ Tịch thu tiêu hủy những vật chứng của bị cáo L dùng vào việc phạm tội:
- 01 (một) bì thư được niêm phong ghi số: 1502, có chữ ký của giám định viên Nguyễn Thị Tuyết Mai và trợ lý giám định Nguyễn Văn Qui và được đóng dấu tròn màu đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tây Ninh; Đây là chất ma túy bị cấm nên cần tịch thu tiêu hủy.
- 01 (một) đĩa sành màu trắng;
- 01 (một) bịch nylon màu trắng có một đầu kéo xếp viền màu đỏ (bên trong rỗng);
- 02 (hai) bật lửa;
- 01 (một) thẻ nhựa màu xanh, bên trên có dòng chữ “napas” và được phát hành bởi Sacombank tại Việt Nam.
+ Hoàn trả cho bị cáo những tài sản sau không liên quan đến việc phạm tội:
- 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Yamaha-Jupiter, màu đen-Vàng, biển số: 70U1-6xxx, số máy: 5B96-069728, số khung: B9609Y069746 (đã qua sử dụng);
- 01 (một) giấy đăng ký xe mô tô, xe máy số: 0112xx do Công an huyện Gò Dầu, tỉnh Tây Ninh cấp ngày 05/9/2009, biển số đăng ký: 70U1-6xxx.
- Số tiền 5.500.000 đồng (Năm triệu năm trăm nghìn đồng);
Tịch Thu sung ngân sách nhà nước tài sản của bị cáo dùng vào việc liên lạc tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy:
- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone, loại 8 Plus, số Imei: 356768084090788 (đã qua sử dụng);
- 01 (một) tờ tiền Việt Nam mệnh giá 20.000 đ (hai mươi nghìn đồng) được cuộn thành hình ống (là dụng cụ sử dụng ma túy);
- 02 tờ tiền Việt Nam mệnh giá 2.000 đồng (Hai nghìn đồng).
[8.1]. Đối với bị cáo Nguyễn Thanh T:
+ Tịch Thu sung ngân sách nhà nước tài sản của bị cáo dùng vào việc liên lạc tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy:
- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung, loại Galaxy A23, số Imei 1: 353220823523664, số Imei 2: 353319903523667 (đã qua sử dụng);
+ Hoàn trả cho bị cáo những tài sản sau không liên quan đến việc phạm tội:
- Tiền Việt Nam 9.000.000 đồng (chín triệu đồng).
[8.1]. Đối với bị cáo Phạm Thanh L1:
+ Tịch Thu sung ngân sách nhà nước tài sản của bị cáo dùng vào việc liên lạc tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy:
- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone, loại X, số Imei: 354872094069337 (đã qua sử dụng);
+ Hoàn trả cho bị cáo những tài sản sau không liên quan đến việc phạm tội:
- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone, loại 6S, số Imei: 353342073824491 (đã qua sử dụng);
- Tiền Việt Nam 15.000.000 đồng (Mười lăm triệu đồng).
[8.1]. Đối với bị cáo Lý Nhật L2:
+ Tịch Thu sung ngân sách nhà nước tài sản của bị cáo dùng vào việc liên lạc tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy:
- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, loại 105, số Sêri 1: 355043874145569, số Sêri 2: 355043876145567 (đã qua sử dụng);
( Tiền Việt Nam: 29.504.000 đồng đã được niêm phong vào trong một bì thư có chữ ký của cán bộ Võ Thành Tân; Giám định viên Phạm Thị Minh Ngọc và dấu tròn đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tây Ninh).
[9]. Xét lời trình bày của luật sư Đinh Thái Hoàng và luật sư Phạm Hồng Phúc bào chữa cho bị cáo Lý Nhật L2: Cho rằng bị cáo Lý Nhật L2 chỉ phạm tội vào khoản 1 Điều 255 của Bộ luật hình sự, không phạm tội vào điểm b, c khoản 2 Điều 255 của Bộ luật hình sự là không có căn cứ chấp nhận. Bởi lẽ, trong vụ án này bị cáo Lý Nhật L2 thống nhất với bị cáo T đặt phòng cho các bị cáo L, L1, T tổ chức cho người khác sử dụng trái phép chất ma túy. Bản thân bị cáo cũng tham gia sử dụng trái trái phép chất ma túy và rủ Vi Thị Ngh sử dụng, nhưng Ngh chưa kịp sử dụng thì bị bắt quả tang nên bị cáo phải chịu chung trách nhiệm hình sự cùng bị cáo khác về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” theo điểm b, c khoản 2 Điều 255 Bộ luật Hình sự. Tuy nhiên khi quyết định hình phạt có xem xét đến các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo.
[10]. Về áp dụng hình phạt bổ sung: Do các bị cáo L, T, L1 và L2 không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định. Xét thấy, đối với T chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo trong vụ án thì áp dụng hình phạt chính là hình phạt tù cũng đã đảm bảo được T răn đe. Do đó, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 5 Điều 255 Bộ luật Hình sự đối với các bị cáo.
Đối với Trần Văn L, Phạm Thanh L1, Nguyễn Thanh T, Lý Nhật L2, Nguyễn Thị Kim Y, Nguyễn Thị Hoàng O, Trần Thị Lệ H có hành vi sử dụng trái phép ma túy, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Châu Thành ra Quyết định xử phạt hành chính với số tiền 1.500.000 đồng. Riêng Nguyễn Ngọc Anh Trbị xử phạt bằng hình thức cảnh cáo.
Đối với người phụ nữ tên C do không xác định được nhân thân, địa chỉ nên tiếp tục điều tra làm rõ xử lý sau.
Đối với chủ quán Karaoke S là chị Nguyễn Thị Kiều Loan, sinh năm 1984, ngụ khu phố Long Thành, phường Long Thành Trung, thị xã Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh, không biết Lý Nhật L2 đặt thuê phòng để tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy nên không xem xét xử lý. Ngày 05/12/2022, y ban nhân dân huyện Châu Thành đã Quyết định xử phạt hành chính với số tiền 15.000.000 đồng và tước giấy phép kinh dO thời hạn 09 tháng về hành vi để xảy ra sử dụng trái phép chất ma túy trong phạm vi quản lý của mình.
[11]. Về án phí: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của y ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án, buộc các bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
1. Tuyên bố các bị cáo Trần Văn L (Sáu Đ), Phạm Thanh L1, Nguyễn Thanh T, Lý Nhật L2 phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”.
Căn cứ vào điểm b, c khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự.
Xử phạt bị cáo Trần Văn L (Sáu Đ) 08 (Tám) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù T từ ngày 19/11/2022.
Căn cứ vào điểm b, c khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự.
Xử phạt bị cáo Phạm Thanh L1 07 (bảy) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù T từ ngày 19/11/2022.
Căn cứ vào điểm b, c khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh T 07 (bảy) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù T từ ngày 19/11/2022.
Căn cứ vào điểm b, c khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54; Điều 38 Bộ luật hình sự.
Xử phạt bị cáo Lý Nhật L2 06 (sáu) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù T từ ngày 19/11/2022.
2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 46; Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:
Đối với bị cáo Trần Văn L (Sáu Đ):
+ Tịch thu tiêu hủy những vật chứng của bị cáo:
- 01 (một) bì thư được niêm phong ghi số: 1502, có chữ ký của giám định viên Nguyễn Thị Tuyết Mai và trợ lý giám định Nguyễn Văn Qui và được đóng dấu tròn màu đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tây Ninh; Đây là chất ma túy bị cấm nên cần tịch thu tiêu hủy.
- 01 (một) đĩa sành màu trắng;
- 01 (một) bịch nylon màu trắng có một đầu kéo xếp viền màu đỏ (bên trong rỗng);
- 02 (hai) bật lửa;
- 01 (một) thẻ nhựa màu xanh, bên trên có dòng chữ “napas” và được phát hành bởi Sacombank tại Việt Nam.
+ Hoàn trả cho bị cáo những tài sản sau:
- 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Yamaha-Jupiter, màu đen-Vàng, biển số:
70U1-6xxx, số máy: 5B96-069728, số khung: B9609Y069746 (đã qua sử dụng);
- 01 (một) giấy đăng ký xe mô tô, xe máy số: 0112xx do Công an huyện Gò Dầu, tỉnh Tây Ninh cấp ngày 05/9/2009, biển số đăng ký: 70U1-6xxx.
- Số tiền 5.500.000 đồng (Năm triệu năm trăm nghìn đồng);
Tịch Thu sung ngân sách nhà nước tài sản của bị cáo:
- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone, loại 8 Plus, số Imei: 356768084090788 (đã qua sử dụng);
- 01 (một) tờ tiền Việt Nam mệnh giá 20.000 đ (hai mươi nghìn đồng) được cuộn thành hình ống (là dụng cụ sử dụng ma túy);
- 02 tờ tiền Việt Nam mệnh giá 2.000 đồng (Hai nghìn đồng).
Đối với bị cáo Nguyễn Thanh T:
+ Tịch Thu sung ngân sách nhà nước tài sản của bị cáo:
- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung, loại Galaxy A23, số Imei 1: 353220823523664, số Imei 2: 353319903523667 (đã qua sử dụng);
+ Hoàn trả cho bị cáo những tài sản sau không liên quan đến việc phạm tội:
- Tiền Việt Nam 9.000.000 đồng (chín triệu đồng).
Đối với bị cáo Phạm Thanh L1:
+ Tịch Thu sung ngân sách nhà nước tài sản của bị cáo:
- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone, loại X, số Imei: 354872094069337 (đã qua sử dụng);
+ Hoàn trả cho bị cáo những tài sản sau:
- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone, loại 6S, số Imei: 353342073824491 (đã qua sử dụng);
- Tiền Việt Nam 15.000.000 đồng (Mười lăm triệu đồng).
Đối với bị cáo Lý Nhật L2:
+ Tịch Thu sung ngân sách nhà nước tài sản của bị cáo:
- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, loại 105, số Sêri 1: 355043874145569, số Sêri 2: 355043876145567 (đã qua sử dụng);
3. Về án phí:
Buộc các bị cáo Trần Văn L (Sáu Đ), Phạm Thanh L1, Nguyễn Thanh T, Lý Nhật L2 mỗi bị cáo phải chịu phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.
Án hình sự sơ thẩm xử công khai, báo cho các bị cáo biết được quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!