Bản án số 22/2023/HS-ST ngày 30-06-2023 của TAND huyện Kỳ Sơn (TAND tỉnh Nghệ An) về tội tàng trữ hàng cấm
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng tội danh
- Tải về
-
22_2023_HS-ST_KY SON_NGHE AN
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
22_2023_HS-ST_KY SON_NGHE AN
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Thuộc tính Bản án 22/2023/HS-ST
Tên Bản án: | Bản án số 22/2023/HS-ST ngày 30-06-2023 của TAND huyện Kỳ Sơn (TAND tỉnh Nghệ An) về tội tàng trữ hàng cấm |
---|---|
Tội danh: | 191.Tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm (Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015) |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND huyện Kỳ Sơn (TAND tỉnh Nghệ An) |
Số hiệu: | 22/2023/HS-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 30/06/2023 |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ án: | Nguyễn Đình H phạm tội tàng trữ hàng cấm |
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KS TỈNH NGHỆ AN ---------- Bản án số: 22/2023/HS-ST Ngày: 30 tháng 6 năm 2023 |
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc --------
|
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KS, TỈNH NGHỆ AN
BẢN ÁN 22/2023/HS-ST NGÀY 30/06/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ HÀNG CẤM
Ngày 30 tháng 6 năm 2023, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện KS, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 16/2023/TLST-HS ngày 14 tháng 5 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 18/2023/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 6 năm 2023 đối với bị cáo:
Họ và tên: Nguyễn Đình H. Tên gọi khác: Không.
Sinh ngày 28/6/1972 tại xã huyện ĐT, tỉnh Hà Tĩnh.
Nơi cư trú: Thôn ĐHQ, xã LTT, huyện ĐT, tỉnh Hà Tĩnh;
Nghề nghiệp: Lái xe; trình độ học vấn: lớp 7/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Ngọc L (đã chết) và bà Đào Thị T; Có vợ: Phan Thị Đ và có 03 con; Tiền án, tiền sự: Không;
Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 05/01/2023 đến ngày 11/01/2023 thì được áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. Có mặt.
- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Công ty TNHH MTV ThT, địa chỉ: Khối 3, thị trấn ĐT, huyện ĐT, tỉnh Hà Tĩnh. Người đại diện theo pháp luật là ông Trần Cao Thông, chức vụ: Giám đốc Công ty, vắng mặt, ủy quyền tham gia tố tụng cho ông Nguyễn Đình Đ; sinh năm 1966; trú tại xã Lâm Trung Thủy, huyện ĐT, tỉnh Hà Tĩnh, chức vụ: cán bộ công ty. Có mặt.
- Người chứng kiến: Anh Lý Trung K; sinh năm 1989; trú tại: Bản T, xã NC, huyện KS, tỉnh Nghệ An. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án 1 được tóm tắt như sau:
Vào ngày 20/12/2022, Nguyễn Đình H điều khiển xe ô tô đầu kéo BKS: 38H- 008.73 kéo theo rơ moóc BKS: 38R- 002.68 xuất cảnh qua Cửa khẩu quốc tế NC sang Lào để chở quặng về Việt Nam. Trên đường đi, Nguyễn Đình H dừng xe ăn cơm tại một cửa hàng thuộc tỉnh Viêng Chăn (Lào), tại đây Nguyễn Đình H đã hỏi mua 05 (năm) hộp pháo hoa với số tiền 600.000 kíp Lào. Sau khi mua được số pháo trên, Hạnh cất dấu vào ca bin xe ô tô.
Đến ngày 05/01/2023, Nguyễn Đình H điều khiển xe ô tô quay về Việt Nam, khi về đến khu vực Cửa khẩu Quốc tế NC (thuộc bản T, xã NC, huyện KS, tỉnh Nghệ An) thì bị tổ công tác Công an huyện KS phối hợp với Đồn Biên phòng Cửa khẩu Quốc tế NC, Chi cục Hải quan Cửa khẩu Quốc tế NC phát hiện thu giữ 05 (năm) khối hình hộp chữ nhật (nghi là pháo nổ) mỗi khối có kích thước (14x14x10) được dán giấy nhiều màu sắc có in chữ nước ngoài, gắn dây vải màu xanh dài 2cm, 01 xe ô tô đầu kéo BKS: 38H-00873 và Rơ moóc BKS: 38R- 002.68.
Tại biên bản mở niêm phong xác định khối lượng lấy mẫu giám định và niêm phong lại vào hồi 12 giờ 05 phút ngày 05/01/2023 đã xác định: 05 (năm) khối hình hộp chữ nhật (nghi là pháo nổ) mỗi khối có kích thước (14x14x10) được dán giấy nhiều màu sắc có in chữ nước ngoài, gắn dây vải màu xanh dài 2cm có tổng khối lượng 6,087kg (sáu phẩy không trăm tám mươi bảy ki lô gam).
Tại kết luận giám định số 97/KL-KTHS (Đ2-CN) ngày 11/01/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nghệ An đã kết luận: “Mẫu vật thu giữ của Nguyễn Đình H gửi giám định là pháo, thuộc loại pháo nổ”.
Cáo trạng số 25/CT-VKS-KS ngày 12/4/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện KS, tỉnh Nghệ An đã truy tố Nguyễn Đình H về tội “Tàng trữ hàng cấm” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 191 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên nội dung cáo trạng, luận tội và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Đình H phạm tội “Tàng trữ hàng cấm”. Áp dụng: điểm c khoản 1 Điều 191, điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 35 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Nguyễn Đình H mức phạt tiền là hình phạt chính từ 50.000.000 đồng (Năm mươi triệu đồng) đến 55.000.000 đồng (Năm mươi lăm triệu đồng); Đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo, xử lý vật chứng và quyết định nghĩa vụ chịu án phí theo quy định.
Về trách nhiệm dân sự: Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Công ty TNHH MTV ThT đã nhận lại tài sản không có yêu cầu gì về dân sự nên không xem xét.
Về xử lý vật chứng: Tịch thu và tiêu hủy: Số pháo còn lại có khối lượng 4,875kg cùng vỏ giấy niêm phong ban đầu được niêm phong lại bằng một thùng caton hiện đang được bảo quản tại Kho vật chứng của Công an huyện KS.
Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định của pháp luật. Ý kiến của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Công ty TNHH MTV ThT đã nhận lại được tài sản không có yêu cầu gì thêm.
Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Đình H đồng ý với nội dung bản cáo trạng và luận tội của đại diện Viện kiểm sát, bị cáo không có tranh luận gì.
Bị cáo nói lời nói sau cùng: Bị cáo rất ân hận về hành vi của mình. Mong Hội đồng xét xử cho bị cáo mức xử phạt nhẹ nhất để có cơ hội sửa chữa sai lầm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện KS, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện KS, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định của pháp luật.
[2] Về sự vắng mặt của người tham gia tố tụng: Tại phiên tòa, vắng mặt người làm chứng nhưng đã có đủ lời khai trong quá trình điều tra, xét thấy không ảnh hưởng đến việc xét xử nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án là đúng quy định Bộ luật Tố tụng hình sự.
[3] Về hành vi của bị cáo: Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Đình H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với các tài liệu khác có tại hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử đủ cơ sở để kết luận: Vào khoảng 10 giờ ngày 05/01/2023, tại Cửa khẩu Quốc tế NC (thuộc bản T, xã NC, huyện KS, tỉnh Nghệ An) tổ công tác Công an huyện KS phối hợp với Đồn Biên phòng Cửa khẩu Quốc tế NC, Chi cục Hải quan Cửa khẩu Quốc tế NC phát hiện bắt quả tang Nguyễn Đình H đang có hành vi tàng trữ 6,087kg pháo nổ nhằm mục đích để sử dụng. Hành vi trên của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ hàng cấm” được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 191 của Bộ luật Hình sự. Cáo trạng truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.
[4] Xét tính chất vụ án, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo: Vụ án có tính chất ít nghiêm trọng. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm chế độ quản lý của Nhà nước đối với một số hàng hóa cấm nói chung và hàng hóa cấm là pháo nổ nói riêng. Làm mất trật tự an toàn xã hội trên địa bàn do đó cần xử lý nghiêm hành vi của bị cáo.
Bị cáo không có tình tiết tăng nặng;
Bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ: Lần đầu phạm tội và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Xét thấy: Bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, không có tình tiết tăng nặng, có nơi cư trú rõ ràng, luôn chấp hành tốt sự triệu tập của các cơ quan tố tụng, bị cáo có công việc và thu nhập ổn định và cũng là lao động chính trong gia đình nên không cần thiết phải bắt bị cáo chấp hành hình phạt tù mà bị cáo có khả năng chấp hành hình phạt bằng hình phạt chính là phạt tiền, nên cần phạt bị cáo mức phạt tiền phù hợp để bị cáo nhận ra lỗi lầm của bản thân đã gây ra cũng đủ để răn đe và giáo dục bị cáo cũng như phòng ngừa chung.
[5] Về trách nhiệm dân sự: Công ty TNHH MTV ThT không có yêu cầu gì về mặt dân sự nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[6] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo đã bị áp dụng hình phạt tiền là hình phạt chính nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[7] Về xử lý vật chứng: 01 thùng cattong, được dán kín các miệng hộp, trên miệng hộp có dán giấy niêm phong, trên giấy niêm phong có đầy đủ chữ ký của những người tham gia niêm phong, chữ ký của đối tượng Nguyễn Đình H, đóng dấu đỏ của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện KS, tỉnh Nghệ An, bên trong có: 04 (bốn) khối hình hộp chữ nhật (pháo nổ), mỗi khối có kích thước (14x14x10) cm, được dán giấy nhiều màu sắc có in chữ nước ngoài, gắn dây vải màu xanh dài 02cm có tổng khối lượng là 4,875kg (Bốn phẩy tám trăm bảy mươi lăm ki lô gam) và vỏ bao bì niêm phong ban đầu hiện đang được bảo quản tại Kho vật chứng của Công an huyện KS. Đây là vật chứng cấm lưu hành, tàng trữ cần tịch thu và tiêu hủy.
Đối với chiếc xe ô tô đầu kéo BKS: 38H-00873 và Rơ moóc BKS: 38R- 002.68 mà Nguyễn Đình H cất dấu pháo, quá trình điều tra xác định chiếc xe trên thuộc sở hữu của Công ty TNHH MTV ThT, địa chỉ: khối 3, thị trấn ĐT, huyện ĐT, tỉnh Hà Tĩnh, quá trình Nguyễn Đình H cất dấu pháo trên xe phía Công ty không biết nên ngày 03/02/2023, Cơ quan điều tra đã trả lại chiếc xe cho anh Nguyễn Đình Đ (người được Công ty ủy quyền), nay không có yêu cầu gì nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[8] Đối với người đàn ông đã bán pháo cho Nguyễn Đình H cơ quan điều tra chưa xác định được lý lịch, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau.
[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định pháp luật.
[10] Các đề nghị của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên cần chấp nhận.
[11] Quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo quy định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
1. Về tội danh và điều luật áp dụng: Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 191; điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 35 của Bộ luật Hình sự: Xử phạt tiền bị cáo Nguyễn Đình H 50.000.000 đồng (Năm mươi triệu đồng) về tội “Tàng trữ hàng cấm”.
2. Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Giao Công an huyện KS tiêu hủy vật chứng gồm: 01 thùng cattong, được dán kín các miệng hộp, trên miệng hộp có dán giấy niêm phong, trên giấy niêm phong có đầy đủ chữ ký của những người tham gia niêm phong, chữ ký của đối tượng Nguyễn Đình H, đóng dấu đỏ của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện KS, tỉnh Nghệ An, bên trong có: 04 (bốn) khối hình hộp chữ nhật (pháo nổ), mỗi khối có kích thước (14x14x10) cm, được dán giấy nhiều màu sắc có in chữ nước ngoài, gắn dây vải màu xanh dài 02cm có tổng khối lượng là 4,875kg (Bốn phẩy tám trăm bảy mươi lăm ki lô gam) và vỏ bao bì niêm phong ban đầu. Vật chứng hiện đang được bảo quản tại Kho vật chứng của Công an huyện KS.
3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Nguyễn Đình H phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.
4. Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án có phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải trả thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
5. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền tự thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
6. Về quyền kháng cáo: Căn cứ các Điều 331, 333 của Bộ luật Tố tụng Hình sự: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 30/3/2023). Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo cáo bản án đối với phần có liên quan đến quyền và nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm./.
Nơi nhận: - TAND tỉnh Nghệ An; - VKSND tỉnh Nghệ An; - VKSND huyện KS; - Công an huyện KS (Cơ quan điều tra, Cơ quan THA hình sự); - Chi cục THA dân sự huyện KS; - Bị cáo; - Người liên quan; - Lưu hồ sơ vụ án, hồ sơ THAHS, VT. |
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA (Đã ký) Lê Hữu Lộc
|
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!