Bản án số 19/2022/HS-ST ngày 01/04/2022 của TAND huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam về tội trộm cắp tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng tội danh
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 19/2022/HS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 19/2022/HS-ST
| Tên Bản án: | Bản án số 19/2022/HS-ST ngày 01/04/2022 của TAND huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam về tội trộm cắp tài sản |
|---|---|
| Tội danh: | 138.Tội trộm cắp tài sản (Bộ luật hình sự năm 1999) |
| Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
| Tòa án xét xử: | TAND huyện Đông Giang (TAND tỉnh Quảng Nam) |
| Số hiệu: | 19/2022/HS-ST |
| Loại văn bản: | Bản án |
| Ngày ban hành: | 01/04/2022 |
| Lĩnh vực: | Hình sự |
| Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Thông tin về vụ án: |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
1
TÒA ÁNNHÂN DÂN
HUYỆN Đ
TỈNH QUẢNG NAM
***
Bản án số: 19/2022/HS-ST
Ngày: 01/4/2022
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
–––––––––––––––––––
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Đ
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Ái Linh
Các Hội thẩm nhân dân:
- Ông Nguyễn Kim Đình
- Ông Huỳnh Mậu Thảo
Thư ký phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Kim Oanh
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ tham gia phiên tòa: Ông Ngô Thương
Tín - Kiểm sát viên.
Trong ngày 01 tháng 4 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Quảng
Nam xét xử sơ thẩm công khai
vụ án hình sự sơ thẩm
thụ lý số: 09/2022/TLSTHS ngày
17 tháng 02 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 18/2022/QĐXXST-HS
ngày 16 tháng 3 năm 2022 đối với bị cáo:
Họ và tên: Đoàn Ngọc C, tên gọi khác: CS; sinh ngày 11tháng 01 năm 2001 tại
Đ, Quảng Nam; nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: thôn M, xã P, huyện Đ, tỉnh Quảng
Nam; nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: 02/12; dân tộc: kinh ; giới tính: nam; tôn
giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đoàn Đ1 (sinh năm 1971) và bà Trần Thị L
(sinh năm 1971); gia đình có 02 anh em, bị cáo là con út; chưa có vợ con; tiền án:
không; tiền sự: ngày 30/11/2020, bị Công an xã P ra quyết định xử phạt vi phạm hành
chính số 27/QĐ-XPHC hình thức phạt tiền 1.500.000 đồng về hành vi trộm cắp tài sản
nhưng chưa chấp hành; bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 24/11/2021, hiện đang bị tạm
giam tại Nhà tạm giữ công an huyện Đ, có mặt tại phiên tòa.
1. Bà Ngô Thị Hồng N, sinh năm 1973
2. Ông Lê K, sinh năm 1972
Địa chỉ: thôn P1, xã T2, huyện Đ, tỉnh Quảng Nam
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1972
Địa chỉ: thôn M, xã P, huyện Đ, tỉnh Quảng Nam
(Bà Nga và ông Kim có đơn xin xét xử vắng mặt, bà Tẻ vắng mặt tại phiên tòa)
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án
được tóm tắt như sau:
Khoảng 02 giờ 30 ngày 01/7/2021, Đoàn Ngọc C đi bộ từ nhà ở thôn M, xã P,
huyện Đ đến quán tạp hóa nhà bà Ngô Thị Hồng N tại thôn P1, xã T2, huyện Đ để trộm
cắp. Đến nơi, C đột nhập vào cửa trước của quán tạp hóa nhưng không được nên vòng
ra phía sau quán, chui qua lỗ nhỏ trên cửa lưới B40 có gắn tôn vào bên trong quán. C
lục tìm tiền nhưng không thấy nên C lấy 12 cây thuốc lá hiệu Mélia, 10 cây thuốc hiệu
2
Thăng Long, 08 cây thuốc hiệu Bastos đỏ, 05 cây thuốc hiệu Young Star, 10 hũ nước
yến hiệu Sanest được để trên kệ của quán, bỏ tất cả vào một bao ni lông rồi thoát ra
ngoài. C mang tài sản trộm cắp được đến cánh đồng thôn P1 (giáp giới giữa hai xã P,
T2), cất giấu 04 cây thuốc hiệu Mélia bên mép đường bê tông, số thuốc lá còn lại C
mang đến quán của bà Nguyễn Thị T (M. P) bán được số tiền 1.500.000 đồng. 10 hũ
nước yến còn lại, C đem về nhà sử dụng hết. Số tiền có được từ việc trộm cắp, C đã tiêu
xài cá nhân hết. Ngày 02/7/2021, bà Ngô Thị Hồng N làm đơn báo cáo cơ quan Công an
về vụ việc trộm cắp.
Tại Kết luận định giá số 33/KL-HĐĐGTS ngày 30/8/2021, Hội đồng định giá
trong tố tụng hình sự huyện Đ xác định: 12 cây thuốc lá hiệu Mélia (120 gói), 10 cây
thuốc hiệu Thăng Long (100 gói), 08 cây thuốc hiệu Bastos đỏ (80 gói), 05 cây thuốc
hiệu Young Star (50 gói), 10 hũ nước yến hiệu Sanest có tổng giá trị là 3.685.000 đồng
(Ba triệu sáu trăm tám mươi lăm ngàn đồng).
Quá trình điều tra, Đoàn Ngọc C C khai nhận hành vi trộm cắp của mình tại quán
bà Nga vào ngày 01/7/2021 nêu trên. Ngoài ra C còn tự khai nhận thời gian trước tháng
7 năm 2021, C thường đến nhà ngoại của C tại thôn P1, xã T2, huyện Đ nên C biết quán
tạp hóa nhà bà Ngô Thị Hồng N và nảy sinh ý định trộm cắp tài sản bán lấy tiền tiêu xài
cá nhân. Cũng với phương thức đột nhập, thủ đoạn trộm cắp nêu trên, C đã 02 lần trộm
cắp tài sản tại quán tạp hóa của bà Ngô Thị Hồng N trước thời điểm ngày 01/7/2021
gồm:
Lần thứ nhất: khoảng 23 giờ một ngày đầu tháng 6 năm 2021 (không xác định
được ngày cụ thể), C đi bộ từ nhà đến quán tạp hóa bà Ngô Thị Hồng N, đột nhập vào
quán lục tìm lấy 500.000 đồng để trong tủ gỗ và 01 cây thuốc lá hiệu 555, 03 cây thuốc
lá hiệu Thăng Long, 03 cây thuốc lá hiệu Young Star để trên kệ rồi thoát ra ngoài bằng
cửa sau rồi mang số thuốc lá này bán cho bà Tẻ được 1.500.000 đồng. C đã tiêu xài cá
nhân hết số tiền trên.
Theo kết luận định giá số 02/KL-HĐĐGTS ngày 07/01/2022 của Hội đồng định
giá trong tố tụng hình sự huyện Đ xác định: 01 cây thuốc là hiệu 555 (10 gói), 03 cây
thuốc là hiệu Thăng Long (30 gói), 03 cho thuốc lá hiệu Young Star (30 gói) có tổng giá
trị là 946.000 đồng (Chín trăm bốn mươi sáu ngàn đồng).
Qua xác minh, ngày 30/11/2020, Đoàn Ngọc C đã bị Công an xã P ra quyết định
xử phạt vi phạm hành chính về hành vi trộm cắp tài sản, mức phạt 1.500.000 đồng
nhưng C vẫn chưa chấp hành quyết định xử phạt. Như vậy, đối với lần thực hiện hành vi
trộm cắp này của C mặc dù có giá trị 1.446.000 đồng (Một triệu bốn trăm bốn mươi sáu
ngàn đồng) nhưng đã cấu thành tội phạm theo khoản 1 Điều 173 B luật hình sự.
Lần thứ hai: khoảng 01 giờ 30 phút ngày 07/6/2021, C đi bộ từ nhà đến quán tạp
hóa bà Ngô Thị Hồng N, đột nhập vào quán lục tìm thấy được 6.000.000 đồng để trong
tủ gỗ và 02 cây thuốc lá hiệu Prince Khatoco, 10 cây thuốc lá hiệu Mélia, 02 cây thuốc
lá hiệu Young Star để trên kệ. C mang số thuốc lá bán cho bà Tẻ được 750.000 đồng. Số
tiền có được từ việc trộm cắp, C đã tiêu xài cá nhân hết.
Ngày 07/01/2022, Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự huyện Đ có Kết luận
định giá số 02 KL-HĐĐGTS xác định: 02 cây thuốc lá hiệu Prince Khatoco, 10 cây
thuốc lá hiệu Mélia, 02 cây thuốc lá hiệu Young Star có tổng giá trị là 1.354.000 đồng
3
(Một triệu ba trăm năm mươi tư ngàn đồng). Như vậy tổng giá trị tài sản chiếm đoạt
trong lần này là 7.354.000 đồng (Bảy triệu ba trăm năm mươi tư ngàn đồng).
Sau khi vụ việc xảy ra, gia đình bà Ngô Thị Hồng N, ông Lê K đã xây mới lại
toàn bộ quán tạp hóa của mình, vì vậy Cơ quan CSĐT Công an huyện Đ không tiến
hành thực nghiệm điều tra vụ án.
* Vật chứng của vụ án:
+ Đoàn Ngọc C tự giao nộp vật chứng của vụ việc gồm:
- 04 (Bốn) cây thuốc lá hiệu Mélia gồm 40 (bốn mươi) gói (đã được Cơ quan
Cảnh sát điều tra trả lại cho bị hại Ngô Thị Hồng N).
- 01 (một) áo thun màu trắng ngắn tay cổ tròn, đã qua sử dụng và 01 (một) quần
jeans màu xanh đen, đã qua sử dụng (đã được niêm phong).
+ Bà Ngô Thị Hồng N giao nộp một USB màu xanh bên ngoài có nắp kim loại
màu trắng nhãn hiệu DT 101 G2 (đã được niêm phong) chứa nội dung là đoạn video
liên quan vụ trộm cắp ngày 01/7/2021 tại quán tạp hóa của bà Nga.
Quá trình điều tra và tại tòa, bị cáo Đoàn Ngọc C đã thành khẩn khai nhận hành
vi phạm tội của mình như cáo trạng đã truy tố, tỏ ra ăn năn hối cải và xin Hội đồng xét
xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Về phần dân sự bị cáo chưa bồi thường, khắc phục
hậu quả cho bà Ngô Thị Hồng N và ông Lê K.
Tại cáo trạng số 13/CT-VKS ngày 16/02/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện
Đ truy tố bị cáo Đoàn Ngọc C về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật
hình sự năm 2015. Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ, tỉnh Quảng
Nam giữ nguyên quan điểm truy tố đồng thời đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm
i, r, s khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự 2015 xử phạt bị cáo
Đoàn Ngọc C từ 09 (Chín) đến 12 (Mười hai) tháng tù. Về dân sự đề nghị buộc bị cáo
Đoàn Ngọc C bồi thường cho bà Ngô Thị Hồng N và ông Lê K số tiền 10.000.000 đồng
(Mười triệu đồng).
Tại hồ sơ vụ án, bị hại bà Ngô Thị Hồng N và ông Lê K khai các lần mất tài sản
vào ngày đầu tháng 6/2021 và ngày 07/6/ 2021 thì tài sản bị trộm cắp phù hợp với lời
khai của Đoàn Ngọc C. Do bận việc gia đình nên trước đó bà Nga chưa báo cáo cơ quan
Công an. Nay bà Ngô Thị Hồng N và ông Lê K yêu cầu Đoàn Ngọc C bồi thường số
tiền 10.000.000 đồng.
Tại hồ sơ vụ án người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thị T không thừa
nhận mua thuốc lá do C trộm cắp mà có như lời khai của C mà không có chứng cứ nào
khác để chứng minh, vì vậy Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đ tách ra để xử
lý sau.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được
tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng:
Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo
không bị ép cung, mớm cung, dùng nhục hình mà đã được Điều tra viên, Kiểm sát viên,
Hội đồng xét xử phổ biến về quyền, nghĩa vụ của mình trong từng giai đoạn tố tụng và
tự khai báo về hành vi phạm tội của mình và không có khiếu nại gì. Hội đồng xét xử xác
4
định hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên; Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội đồng
xét xử trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự,
thủ tục được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự.
[1.2] Về sự vắng mặt của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ
án: Tại phiên tòa bị hại Ngô Thị Hông N, Lê K và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan Nguyễn Thị T có đơn xin xét xử vắng mặt. Vì vậy Hội đồng xét xử vắng mặt bà
Nga, ông Kim, bà Tẻ là phù hợp với quy định tại Điều 292 Bộ luật tố tụng hình sự.
[2] Về nội dung vụ án:
[2.1]. Về tội danh và khung hình phạt: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa
hôm nay, bị cáo Đoàn Ngọc C đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như cáo trạng của
Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ, tỉnh Quảng Nam đã truy tố. Lời khai nhận tội của bị
cáo phù hợp với kết quả định giá tài sản, lời khai của bị hại, vật chứng và các tài liệu,
chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa.
Hội đồng xét xử có cơ sở xác định được: Từ tháng 6/2021 đến ngày 01/7/2021,
Đoàn Ngọc C có 03 lần lén lút đột nhập vào quán tạp hóa của vợ chồng bà Ngô Thị
Hồng N và ông Lê K tại thôn P1, xã T2, huyện Đ, tỉnh Quảng Nam, thực hiện hành vi
trộm cắp tài sản gồm tiền, thuốc lá nhiều loại, nước yến để sử dụng và bán lấy tiền tiêu
xài cá nhân. Tổng giá trị tài sản C chiếm đoạt là 12.485.000 đồng (Mười hai triệu bốn
trăm tám mươi lăm ngàn đồng), trong đó: lần đầu vào đầu tháng 6/2021 (không rõ ngày)
trộm cắp tổng giá trị tài sản là 1.446.000 đồng, lần thứ hai vào ngày 07/6/2021 trộm cắp
tổng giá trị tài sản là 7.354.000 đồng và lần thứ ba vào ngày 01/7/2021 chiếm đoạt tổng
tài sản có giá trị là 3.685.000 đồng.
Xét Đoàn Ngọc C nhân thân có tiền sự: ngày 30/11/2020, bị Công an xã P ra
quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 27/QĐ-XPHC hình thức phạt tiền 1.500.000
đồng về hành vi trộm cắp tài sản nhưng chưa chấp hành quyết định. Như vậy, đối với
lần thực hiện hành vi trộm cắp vào đầu tháng 6/2021 của C mặc dù có giá trị 1.446.000
đồng nhưng đã cấu thành tội phạm theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.
Do đó Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận bị cáo Đoàn Ngọc C phạm tội “Trộm
cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm
2017) như cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ truy tố là có căn cứ, đúng
người, đúng tội, đúng pháp luật.
[2.2] Về tính chất, mức độ của hành vi, hậu quả do bị cáo gây ra thì thấy:
Bị cáo Đoàn Ngọc C là người trưởng thành, có hiểu biết pháp luật nhưng với
động cơ vụ lợi, mục đích chiếm đoạt tài sản của người khác mà không phải bỏ công sức
lao động, bị cáo đã lợi dụng sơ hở trong quản lý tài sản của bà Ngô Thị Hồng N và ông
Lê K, nhiều lần liên tục lén lút thực hiện hành vi trộm cắp tiền, thuốc là, nước yến trong
quán tạp hóa của bà N ông K, xâm phạm quyền sở hữu tài sản bị hại và gây ảnh hưởng
xấu đến tình hình trật tự trị an trên địa bàn huyện Đ. Bị cáo thực hiện hành vi trộm cắp
nhiều lần, liên tục, thể hiện tính liều lĩnh, bất chấp pháp luật và đạo đức xã hội. Sau khi
thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo bỏ đi khỏi địa phương, gây khó khăn cho công tác
điều tra, xử lý vụ án. Do đó cần phải xử phạt bị cáo một cách nghiêm minh bằng cách
áp dụng hình phạt tù nhằm để răn đe, giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt cho xã hội
và ngăn ngừa tội phạm.
[2.3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:
5
- Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo Đoàn Ngọc C có 03 lần thực hiện hành vi trộm
cắp tài sản, mỗi lần đều cấu thành tội phạm nên thuộc trường hợp phạm tội nhiều lần
theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.
- Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành
khẩn khai báo nhận tội, tự thú khai báo về hành vi phạm tội của mình trước đó. Bị cáo
chưa có tiền án, tiền sự, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Do đó,
Hội đồng xét xử áp dụng điểm i, r, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 để giảm
nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.
[3] Về trách nhiệm dân sự: Tại hồ sơ vụ án, bị hại Bà Ngô Thị Hồng N và ông Lê
K yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền giá trị tài sản chiếm đoạt là 10.000.000 đồng (Mười
triệu đồng). Bị cáo C đồng ý bồi thường theo yêu cầu của bị hại. Hội đồng xét xử xét
thấy ý kiến thống nhất của bị cáo và bà N, ông K về việc bồi thường là tự nguyện, có
căn cứ, đúng pháp luật nên chấp nhận.
[4] Về vật chứng:
- Đối với 04 (Bốn) cây thuốc lá hiệu Mélia gồm 40 (bốn mươi) gói đã được Cơ
quan Cảnh sát điều tra trả lại cho bị hại là phù hợp.
- 01 (một) áo thun màu trắng ngắn tay cổ tròn, đã qua sử dụng và 01 (một) quần
jeans màu xanh đen, đã qua sử dụng, Hội đồng xét xử xét thấy cần tịch thu tiêu hủy.
- 01 USB màu xanh bên ngoài có nắp kim loại màu trắng nhãn hiệu DT 101 G2
(đã được niêm phong) chứa nội dung là đoạn video liên quan vụ trộm cắp ngày
01/7/2021 tại quán tạp hóa của bà Nga do bà Ngô Thị Hồng N giao nộp, Cơ quan Điều
tra lưu trữ tại hồ sơ vụ án là phù hợp.
[5] Về các vấn đề khác trong vụ án:
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thị T không thừa nhận mua
thuốc lá do C trộm cắp mà có như lời khai của C mà không có chứng cứ nào khác để
chứng minh, vì vậy Cơ quan Điều tra tách ra để xử lý sau là phù hợp.
[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và 500.000
đồng án phí dân sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
- Tuyên bố: Bị cáo Đoàn Ngọc C phạm tội “Trộm cắp tài sản”
- Áp dụng: Khoản 1 Điều 173, điểm i, r, s khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều
52, Điều 38 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)
- Xử phạt: Bị cáo Đoàn Ngọc C 09 (Chín) tháng tù.
Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giam 24/11/2021.
- Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 48 Bộ luật hình sự 2015, các Điều 584,
589, 357, 468 Bộ luật dân sự 2015: Buộc bị cáo Đoàn Ngọc C chịu trách nhiệm bồi
thường cho vợ chồng bà Ngô Thị Hồng N và ông Lê K tổng giá trị tài sản trộm cắp là
10.000.000 đồng (Mười triệu đồng). Thời hạn bồi thường tính từ ngày án có hiệu lực
pháp luật.
Kể từ ngày bà Ngô Thị Hồng N và ông Lê K có đơn yêu cầu thi hành án cho đến
khi thi hành án xong, bị cáo Đoàn Ngọc C còn phải chịu khoản tiền lãi tính trên số tiền
còn phải thi hành án theo mức lãi suất theo quy định của pháp luật là 10%/năm.

6
- Về vật chứng vụ án: căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng
hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 (một) áo thun màu trắng ngắn tay cổ tròn, đã qua sử dụng
và 01 (một) quần jeans màu xanh đen, đã qua sử dụng. (Vật chứng đã được niêm phong,
hiện do Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đ quản lý)
- Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23, 26 của
Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội:
Buộc bị cáo Đoàn Ngọc C phải chịu 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ
thẩm và 500.000 đồng (Năm trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.
- Về quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án
này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với bị hại, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ
ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa
thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế
thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi
hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐÔNG XÉT XỬ SƠ THẨM
- TAND tỉnh Q.Nam Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà
- VKSND H. Đ
- Công an H. Đ
- Bị cáo, bị hại, người liên quan
- Chi cục THADS H.Đ
- Lưu hồ sơ
Nguyễn Thị Ái Linh
7
8
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 28/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 15/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 14/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 14/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 12/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 06/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 05/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 01/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 27/02/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 23/02/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 16/02/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Bản án số 04/2024/HS-PT ngày 05/02/2024 của TAND TP. Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình về tội trộm cắp tài sản
Ban hành: 05/02/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Bản án số 14/2024/HS-ST ngày 05/02/2024 của TAND huyện Hòa Vang, TP. Đà Nẵng về tội trộm cắp tài sản
Ban hành: 05/02/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 01/02/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 31/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 31/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 31/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 31/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 30/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 30/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm