Bản án số 19/2022/HS-ST ngày 01/04/2022 của TAND huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam về tội trộm cắp tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Mục lục
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 19/2022/HS-ST

Tên Bản án: Bản án số 19/2022/HS-ST ngày 01/04/2022 của TAND huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam về tội trộm cắp tài sản
Tội danh: 138.Tội trộm cắp tài sản (Bộ luật hình sự năm 1999)
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Đông Giang (TAND tỉnh Quảng Nam)
Số hiệu: 19/2022/HS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 01/04/2022
Lĩnh vực: Hình sự
Áp dụng án lệ: Không
Đính chính: Không
Thông tin về vụ án:
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁNNHÂN DÂN HUYỆN Đ, TỈNH QUẢNG NAM

BẢN ÁN 19/2022/HS-ST NGÀY 01/04/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 01 tháng 4 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Quảng Nam xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 09/2022/TLSTHS ngày 17 tháng 02 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 18/2022/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 3 năm 2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: Đoàn Ngọc C, tên gọi khác: CS; sinh ngày 11tháng 01 năm 2001 tại Đ, Quảng Nam; nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: thôn M, xã P, huyện Đ, tỉnh Quảng Nam; nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: 02/12; dân tộc: kinh ; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đoàn Đ1 (sinh năm 1971) và bà Trần Thị L (sinh năm 1971); gia đình có 02 anh em, bị cáo là con út; chưa có vợ con; tiền án: không; tiền sự: ngày 30/11/2020, bị Công an xã P ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 27/QĐ-XPHC hình thức phạt tiền 1.500.000 đồng về hành vi trộm cắp tài sản nhưng chưa chấp hành; bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 24/11/2021, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ công an huyện Đ, có mặt tại phiên tòa.

1. Bà Ngô Thị Hồng N, sinh năm 1973 2. Ông Lê K, sinh năm 1972 Địa chỉ: thôn P1, xã T2, huyện Đ, tỉnh Quảng Nam

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1972 Địa chỉ: thôn M, xã P, huyện Đ, tỉnh Quảng Nam (Bà N và ông K có đơn xin xét xử vắng mặt, bà T vắng mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 02 giờ 30 ngày 01/7/2021, Đoàn Ngọc C đi bộ từ nhà ở thôn M, xã P, huyện Đ đến quán tạp hóa nhà bà Ngô Thị Hồng N tại thôn P1, xã T2, huyện Đ để trộm cắp. Đến nơi, C đột nhập vào cửa trước của quán tạp hóa nhưng không được nên vòng ra phía sau quán, chui qua lỗ nhỏ trên cửa lưới B40 có gắn tôn vào bên trong quán. C lục tìm tiền nhưng không thấy nên C lấy 12 cây thuốc lá hiệu Mélia, 10 cây thuốc hiệu Thăng Long, 08 cây thuốc hiệu Bastos đỏ, 05 cây thuốc hiệu Young Star, 10 hũ nước yến hiệu Sanest được để trên kệ của quán, bỏ tất cả vào một bao ni lông rồi thoát ra ngoài. C mang tài sản trộm cắp được đến cánh đồng thôn P1 (giáp giới giữa hai xã P, T2), cất giấu 04 cây thuốc hiệu Mélia bên mép đường bê tông, số thuốc lá còn lại C mang đến quán của bà Nguyễn Thị T (M. P) bán được số tiền 1.500.000 đồng. 10 hũ nước yến còn lại, C đem về nhà sử dụng hết. Số tiền có được từ việc trộm cắp, C đã tiêu xài cá nhân hết. Ngày 02/7/2021, bà Ngô Thị Hồng N làm đơn báo cáo cơ quan Công an về vụ việc trộm cắp.

Tại Kết luận định giá số 33/KL-HĐĐGTS ngày 30/8/2021, Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự huyện Đ xác định: 12 cây thuốc lá hiệu Mélia (120 gói), 10 cây thuốc hiệu Thăng Long (100 gói), 08 cây thuốc hiệu Bastos đỏ (80 gói), 05 cây thuốc hiệu Young Star (50 gói), 10 hũ nước yến hiệu Sanest có tổng giá trị là 3.685.000 đồng (Ba triệu sáu trăm tám mươi lăm ngàn đồng).

Quá trình điều tra, Đoàn Ngọc C C khai nhận hành vi trộm cắp của mình tại quán bà Nga vào ngày 01/7/2021 nêu trên. Ngoài ra C còn tự khai nhận thời gian trước tháng 7 năm 2021, C thường đến nhà ngoại của C tại thôn P1, xã T2, huyện Đ nên C biết quán tạp hóa nhà bà Ngô Thị Hồng N và nảy sinh ý định trộm cắp tài sản bán lấy tiền tiêu xài cá nhân. Cũng với phương thức đột nhập, thủ đoạn trộm cắp nêu trên, C đã 02 lần trộm cắp tài sản tại quán tạp hóa của bà Ngô Thị Hồng N trước thời điểm ngày 01/7/2021 gồm:

Lần thứ nhất: khoảng 23 giờ một ngày đầu tháng 6 năm 2021 (không xác định được ngày cụ thể), C đi bộ từ nhà đến quán tạp hóa bà Ngô Thị Hồng N, đột nhập vào quán lục tìm lấy 500.000 đồng để trong tủ gỗ và 01 cây thuốc lá hiệu 555, 03 cây thuốc lá hiệu Thăng Long, 03 cây thuốc lá hiệu Young Star để trên kệ rồi thoát ra ngoài bằng cửa sau rồi mang số thuốc lá này bán cho bà Tẻ được 1.500.000 đồng. C đã tiêu xài cá nhân hết số tiền trên.

Theo kết luận định giá số 02/KL-HĐĐGTS ngày 07/01/2022 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự huyện Đ xác định: 01 cây thuốc là hiệu 555 (10 gói), 03 cây thuốc là hiệu Thăng Long (30 gói), 03 cho thuốc lá hiệu Young Star (30 gói) có tổng giá trị là 946.000 đồng (Chín trăm bốn mươi sáu ngàn đồng).

Qua xác minh, ngày 30/11/2020, Đoàn Ngọc C đã bị Công an xã P ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi trộm cắp tài sản, mức phạt 1.500.000 đồng nhưng C vẫn chưa chấp hành quyết định xử phạt. Như vậy, đối với lần thực hiện hành vi trộm cắp này của C mặc dù có giá trị 1.446.000 đồng (Một triệu bốn trăm bốn mươi sáu ngàn đồng) nhưng đã cấu thành tội phạm theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015.

Lần thứ hai: khoảng 01 giờ 30 phút ngày 07/6/2021, C đi bộ từ nhà đến quán tạp hóa bà Ngô Thị Hồng N, đột nhập vào quán lục tìm thấy được 6.000.000 đồng để trong tủ gỗ và 02 cây thuốc lá hiệu Prince Khatoco, 10 cây thuốc lá hiệu Mélia, 02 cây thuốc lá hiệu Young Star để trên kệ. C mang số thuốc lá bán cho bà Tẻ được 750.000 đồng. Số tiền có được từ việc trộm cắp, C đã tiêu xài cá nhân hết.

Ngày 07/01/2022, Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự huyện Đ có Kết luận định giá số 02 KL-HĐĐGTS xác định: 02 cây thuốc lá hiệu Prince Khatoco, 10 cây thuốc lá hiệu Mélia, 02 cây thuốc lá hiệu Young Star có tổng giá trị là 1.354.000 đồng (Một triệu ba trăm năm mươi tư ngàn đồng). Như vậy tổng giá trị tài sản chiếm đoạt trong lần này là 7.354.000 đồng (Bảy triệu ba trăm năm mươi tư ngàn đồng).

Sau khi vụ việc xảy ra, gia đình bà Ngô Thị Hồng N, ông Lê K đã xây mới lại toàn bộ quán tạp hóa của mình, vì vậy Cơ quan CSĐT Công an huyện Đ không tiến hành thực nghiệm điều tra vụ án.

* Vật chứng của vụ án:

+ Đoàn Ngọc C tự giao nộp vật chứng của vụ việc gồm:

- 04 (Bốn) cây thuốc lá hiệu Mélia gồm 40 (bốn mươi) gói (đã được Cơ quan Cảnh sát điều tra trả lại cho bị hại Ngô Thị Hồng N).

- 01 (một) áo thun màu trắng ngắn tay cổ tròn, đã qua sử dụng và 01 (một) quần jeans màu xanh đen, đã qua sử dụng (đã được niêm phong).

+ Bà Ngô Thị Hồng N giao nộp một USB màu xanh bên ngoài có nắp kim loại màu trắng nhãn hiệu DT 101 G2 (đã được niêm phong) chứa nội dung là đoạn video liên quan vụ trộm cắp ngày 01/7/2021 tại quán tạp hóa của bà Nga.

Quá trình điều tra và tại tòa, bị cáo Đoàn Ngọc C đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình như cáo trạng đã truy tố, tỏ ra ăn năn hối cải và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Về phần dân sự bị cáo chưa bồi thường, khắc phục hậu quả cho bà Ngô Thị Hồng N và ông Lê K.

Tại cáo trạng số 13/CT-VKS ngày 16/02/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ truy tố bị cáo Đoàn Ngọc C về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015. Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ, tỉnh Quảng Nam giữ nguyên quan điểm truy tố đồng thời đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm i, r, s khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự 2015 xử phạt bị cáo Đoàn Ngọc C từ 09 (Chín) đến 12 (Mười hai) tháng tù. Về dân sự đề nghị buộc bị cáo Đoàn Ngọc C bồi thường cho bà Ngô Thị Hồng N và ông Lê K số tiền 10.000.000 đồng (Mười triệu đồng).

Tại hồ sơ vụ án, bị hại bà Ngô Thị Hồng N và ông Lê K khai các lần mất tài sản vào ngày đầu tháng 6/2021 và ngày 07/6/ 2021 thì tài sản bị trộm cắp phù hợp với lời khai của Đoàn Ngọc C. Do bận việc gia đình nên trước đó bà Nga chưa báo cáo cơ quan Công an. Nay bà Ngô Thị Hồng N và ông Lê K yêu cầu Đoàn Ngọc C bồi thường số tiền 10.000.000 đồng.

Tại hồ sơ vụ án người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thị T không thừa nhận mua thuốc lá do C trộm cắp mà có như lời khai của C mà không có chứng cứ nào khác để chứng minh, vì vậy Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đ tách ra để xử lý sau.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng:

[1.1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng:

Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo không bị ép cung, mớm cung, dùng nhục hình mà đã được Điều tra viên, Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử phổ biến về quyền, nghĩa vụ của mình trong từng giai đoạn tố tụng và tự khai báo về hành vi phạm tội của mình và không có khiếu nại gì. Hội đồng xét xử xác định hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên; Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội đồng xét xử trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự.

[1.2] Về sự vắng mặt của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án: Tại phiên tòa bị hại Ngô Thị Hông N, Lê K và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thị T có đơn xin xét xử vắng mặt. Vì vậy Hội đồng xét xử vắng mặt bà Nga, ông Kim, bà Tẻ là phù hợp với quy định tại Điều 292 Bộ luật tố tụng hình sự.

[2] Về nội dung vụ án:

[2.1]. Về tội danh và khung hình phạt: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Đoàn Ngọc C đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ, tỉnh Quảng Nam đã truy tố. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với kết quả định giá tài sản, lời khai của bị hại, vật chứng và các tài liệu, chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa.

Hội đồng xét xử có cơ sở xác định được: Từ tháng 6/2021 đến ngày 01/7/2021, Đoàn Ngọc C có 03 lần lén lút đột nhập vào quán tạp hóa của vợ chồng bà Ngô Thị Hồng N và ông Lê K tại thôn P1, xã T2, huyện Đ, tỉnh Quảng Nam, thực hiện hành vi trộm cắp tài sản gồm tiền, thuốc lá nhiều loại, nước yến để sử dụng và bán lấy tiền tiêu xài cá nhân. Tổng giá trị tài sản C chiếm đoạt là 12.485.000 đồng (Mười hai triệu bốn trăm tám mươi lăm ngàn đồng), trong đó: lần đầu vào đầu tháng 6/2021 (không rõ ngày) trộm cắp tổng giá trị tài sản là 1.446.000 đồng, lần thứ hai vào ngày 07/6/2021 trộm cắp tổng giá trị tài sản là 7.354.000 đồng và lần thứ ba vào ngày 01/7/2021 chiếm đoạt tổng tài sản có giá trị là 3.685.000 đồng.

Xét Đoàn Ngọc C nhân thân có tiền sự: ngày 30/11/2020, bị Công an xã P ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 27/QĐ-XPHC hình thức phạt tiền 1.500.000 đồng về hành vi trộm cắp tài sản nhưng chưa chấp hành quyết định. Như vậy, đối với lần thực hiện hành vi trộm cắp vào đầu tháng 6/2021 của C mặc dù có giá trị 1.446.000 đồng nhưng đã cấu thành tội phạm theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Do đó Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận bị cáo Đoàn Ngọc C phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) như cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ truy tố là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2.2] Về tính chất, mức độ của hành vi, hậu quả do bị cáo gây ra thì thấy:

Bị cáo Đoàn Ngọc C là người trưởng thành, có hiểu biết pháp luật nhưng với động cơ vụ lợi, mục đích chiếm đoạt tài sản của người khác mà không phải bỏ công sức lao động, bị cáo đã lợi dụng sơ hở trong quản lý tài sản của bà Ngô Thị Hồng N và ông Lê K, nhiều lần liên tục lén lút thực hiện hành vi trộm cắp tiền, thuốc là, nước yến trong quán tạp hóa của bà N ông K, xâm phạm quyền sở hữu tài sản bị hại và gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an trên địa bàn huyện Đ. Bị cáo thực hiện hành vi trộm cắp nhiều lần, liên tục, thể hiện tính liều lĩnh, bất chấp pháp luật và đạo đức xã hội. Sau khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo bỏ đi khỏi địa phương, gây khó khăn cho công tác điều tra, xử lý vụ án. Do đó cần phải xử phạt bị cáo một cách nghiêm minh bằng cách áp dụng hình phạt tù nhằm để răn đe, giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt cho xã hội và ngăn ngừa tội phạm.

[2.3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

- Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo Đoàn Ngọc C có 03 lần thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, mỗi lần đều cấu thành tội phạm nên thuộc trường hợp phạm tội nhiều lần theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

- Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo nhận tội, tự thú khai báo về hành vi phạm tội của mình trước đó. Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Do đó, Hội đồng xét xử áp dụng điểm i, r, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[3] Về trách nhiệm dân sự: Tại hồ sơ vụ án, bị hại Bà Ngô Thị Hồng N và ông Lê K yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền giá trị tài sản chiếm đoạt là 10.000.000 đồng (Mười triệu đồng). Bị cáo C đồng ý bồi thường theo yêu cầu của bị hại. Hội đồng xét xử xét thấy ý kiến thống nhất của bị cáo và bà N, ông K về việc bồi thường là tự nguyện, có căn cứ, đúng pháp luật nên chấp nhận.

[4] Về vật chứng:

- Đối với 04 (Bốn) cây thuốc lá hiệu Mélia gồm 40 (bốn mươi) gói đã được Cơ quan Cảnh sát điều tra trả lại cho bị hại là phù hợp.

- 01 (một) áo thun màu trắng ngắn tay cổ tròn, đã qua sử dụng và 01 (một) quần jeans màu xanh đen, đã qua sử dụng, Hội đồng xét xử xét thấy cần tịch thu tiêu hủy.

- 01 USB màu xanh bên ngoài có nắp kim loại màu trắng nhãn hiệu DT 101 G2 (đã được niêm phong) chứa nội dung là đoạn video liên quan vụ trộm cắp ngày 01/7/2021 tại quán tạp hóa của bà Nga do bà Ngô Thị Hồng N giao nộp, Cơ quan Điều tra lưu trữ tại hồ sơ vụ án là phù hợp.

[5] Về các vấn đề khác trong vụ án:

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thị T không thừa nhận mua thuốc lá do C trộm cắp mà có như lời khai của C mà không có chứng cứ nào khác để chứng minh, vì vậy Cơ quan Điều tra tách ra để xử lý sau là phù hợp.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và 500.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH:

- Tuyên bố: Bị cáo Đoàn Ngọc C phạm tội “Trộm cắp tài sản”

- Áp dụng: Khoản 1 Điều 173, điểm i, r, s khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 38 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)

- Xử phạt: Bị cáo Đoàn Ngọc C 09 (Chín) tháng tù.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giam 24/11/2021.

- Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 48 Bộ luật hình sự 2015, các Điều 584, 589, 357, 468 Bộ luật dân sự 2015: Buộc bị cáo Đoàn Ngọc C chịu trách nhiệm bồi thường cho vợ chồng bà Ngô Thị Hồng N và ông Lê K tổng giá trị tài sản trộm cắp là 10.000.000 đồng (Mười triệu đồng). Thời hạn bồi thường tính từ ngày án có hiệu lực pháp luật.

Kể từ ngày bà Ngô Thị Hồng N và ông Lê K có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bị cáo Đoàn Ngọc C còn phải chịu khoản tiền lãi tính trên số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất theo quy định của pháp luật là 10%/năm.

- Về vật chứng vụ án: căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 (một) áo thun màu trắng ngắn tay cổ tròn, đã qua sử dụng và 01 (một) quần jeans màu xanh đen, đã qua sử dụng. (Vật chứng đã được niêm phong, hiện do Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đ quản lý)

- Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23, 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội: Buộc bị cáo Đoàn Ngọc C phải chịu 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm và 500.000 đồng (Năm trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

- Về quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất