Bản án số 154/2023/DS-ST ngày 17/07/2023 của TAND huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau về tranh chấp hợp đồng cầm cố quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 154/2023/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 154/2023/DS-ST
| Tên Bản án: | Bản án số 154/2023/DS-ST ngày 17/07/2023 của TAND huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau về tranh chấp hợp đồng cầm cố quyền sử dụng đất |
|---|---|
| Quan hệ pháp luật: | |
| Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
| Tòa án xét xử: | TAND huyện Phú Tân (TAND tỉnh Cà Mau) |
| Số hiệu: | 154/2023/DS-ST |
| Loại văn bản: | Bản án |
| Ngày ban hành: | 17/07/2023 |
| Lĩnh vực: | Dân sự |
| Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Thông tin về vụ/việc: |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN PHÚ TÂN
TỈNH CÀ MAU
Bản án số:154/2023/DS-ST
Ngày 17-7-2023
“V/v tranh chấp hợp đồng cầm cố
quyền sử dụng đất”.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚ TÂN, TỈNH CÀ MAU
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Việt Triều.
Các Hội thẩm nhân dân:
Ông Nguyễn Minh Trọn.
Bà Đoàn Thị Sim.
- Thư ký phiên tòa: Bà Đoàn Thị Tú là cán bộ Tòa án nhân dân huyện
Phú Tân, tỉnh Cà Mau.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau tham
gia phiên tòa: Bà Nguyễn Thảo Nguyên - Kiểm sát viên.
Trong các ngày 14 và 17 tháng 7 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân
huyện Phú Tân xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 198/2022/TLST-DS,
ngày 07 tháng 4 năm 2022, về việc tranh chấp hợp đồng cầm cố quyền sử dụng
đất, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 266/2023/QĐXXST-DS, ngày 25
tháng 5 năm 2023, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn L, sinh năm 1978 (có mặt).
Địa chỉ cư trú: Ấp K, xã T, huyện P, tỉnh C.
- Người đại diện theo ủy quyền của ông Nguyễn Văn L: Bà Hứa Hồng N, sinh
năm 1973 (Giấy ủy quyền ngày 04/4/2022) (có mặt).
Địa chỉ cư trú: Ấp Q, xã T, huyện P, tỉnh C.
- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho ông Nguyễn Văn L: Luật sư
Du Thị B, Luật sư văn phòng Luật sư M thuộc Đoàn Luật sư tỉnh C (có mặt).
- Bị đơn: Ông Đoàn Văn G, sinh năm 1959.
Địa chỉ cư trú: Ấp K, xã T, huyện P, tỉnh C.
2
- Người đại diện theo ủy quyền của ông Đoàn Văn G: Ông Hồ Văn K,
sinh năm 1983 (Giấy ủy quyền ngày 05/5/2022) (có mặt).
Địa chỉ cư trú: Khóm X, thị trấn C, huyện P, tỉnh C.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1985 (em ông L) (xin vắng mặt).
2. Ông Nguyễn Văn D, sinh năm 1989 (em ông L) (xin vắng mặt).
Cùng địa chỉ cư trú: Ấp K, xã T, huyện P, tỉnh C.
3. Ông Nguyễn Thiện Đ, sinh năm 1994 (em ông L) (xin vắng mặt).
Địa chỉ cư trú: D , M, phường T, thị xã B, tỉnh B.
4. Bà Huỳnh Thị K1, sinh năm 1978 (vợ ông L) (vắng mặt);
5. Ông Nguyễn Văn Q, sinh năm 2003 (con ông L) (vắng mặt);
6. Ông Đoàn Văn G1, sinh năm 1966 (em ông G) (vắng mặt);
7. Ông Nguyễn Văn V, sinh năm 1982 (con rễ ông G) (vắng mặt);
8. Bà Đoàn Thị L1 (con gái ông G) (vắng mặt);
Cùng địa chỉ cư trú: Ấp K, xã T, huyện P, tỉnh C.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
- Tại đơn khởi kiện ngày 04 tháng 4 năm 2022, cùng các văn bản khác
kèm theo của nguyên đơn và tại phiên tòa người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp cho ông Nguyễn Văn L trình bày:
Cha ông Nguyễn Văn L (ông Nguyễn Văn H) chết vào năm 2002, mẹ ông
Nguyễn Văn L (bà Hứa Thị Q1) chết vào năm 2014. Cha mẹ ông Nguyễn Văn
L có 04 người con là Nguyễn Văn L, Nguyễn Văn T, Nguyễn Văn D và Nguyễn
Thiện Đ.
Vào ngày 03 tháng 02 năm 2012, bà Hứa Thị Q1 có cố cho ông Đoàn
Văn G phần đất có diện tích 13.000m
2
tọa lạc tại ấp K, xã T, huyện P, tỉnh C .
có tứ cận như sau: Phía Đông giáp ông Huỳnh Văn T, phía Tây giáp ông Đoàn
Văn G, phía Nam giáp ông Nguyễn Văn V, phía Bắc giáp đường Kênh. Thời
hạn cố là 10 năm, với giá cố là 58 chỉ vàng 24K. Khi đó hai bên thỏa thuận sau
10 năm bà Q1 có quyền chuộc lại phần đất và bà Q1 phải trả đủ 58 chỉ vàng
24K cho ông G. Nếu đến thời hạn bà Q1 không có khả năng chuộc đất thì ông
Đoàn Văn G được quyền canh tác tiếp tục trên phần đất này. Sau khi nhận đủ
vàng thì bà Q1 giao đất cho ông Đoàn Văn G quản lý, canh tác và giao giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất (bản gốc) cho ông Đoàn Văn G giữ. Sau khi cố
đất cho ông Đoàn Văn G, bà Q1 đi Bình Dương làm thuê, không về địa phương,
đến ngày 04 tháng 11 năm 2014 bà Q1 chết tại Bình Dương và được gia đình
chở về an táng tại phần đất này. Đến thời hạn chuộc đất thì dì út ông L là bà
Hứa Hồng N có liên hệ với ông G chuộc lại đất nhưng ông G không cho nên bà
N có làm đơn yêu cầu gửi đến Ban nhân dân ấp K, xã T để yêu cầu ông G cho
3
gia đình chuộc lại đất theo giá cố ban đầu (58 chỉ vàng 24K) mà ông G yêu cầu
phải chuộc lại đất theo giá thỏa thuận.
Ông Đoàn Văn G cho rằng bà Q1 đã chuyển đất cho ông G là không đúng,
hai bên chỉ cố đất vào ngày 03 tháng 02 năm 2012. Sau khi cố đất xong bà Hứa
Thị Q1 và các con bà Hứa Thị Q1 đi làm ăn ở Bình Dương không có trở về địa
phương đến khi chết thì gia đình đưa bà Hứa Thị Q1 về chôn cất trên phần đất
cố cho ông Đoàn Văn G.
Do đó, ông Nguyễn Văn L yêu cầu Tòa án giải quyết hủy giao dịch cố đất
theo giấy cố đất giữa mẹ ông L (bà Hứa Thị Q1) với ông Đoàn Văn G) ký kết
vào ngày 03 tháng 02 năm 2012. Đồng thời buộc ông Đoàn Văn G trả cho anh
em ông L phần đất có diện tích theo đo đạc thực tế 12.392,1m
2
tọa lạc ấp K, xã
T, huyện P, tỉnh C; trả lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất bản gốc cho anh
em ông L. Anh em ông L đồng ý trả lại cho ông Đoàn Văn G 58 chỉ vàng 24K.
- Người đại diện theo ủy quyền của ông Nguyễn Văn L là bà Hứa Hồng N
trình bày:
Bà thống nhất ý kiến trình bày và yêu cầu của người bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của nguyên đơn, không có trình bày bổ sung.
- Tại Biên bản hòa giải ngày 25 tháng 4 năm 2022 cùng các văn bản
khác kèm theo và tại phiên tòa, người đại diện theo ủy quyền của bị đơn là
ông Hồ Văn K trình bày:
Nội dung cầm cố quyền sử dụng đất giữa ông Đoàn Văn G và bà Hứa Thị
Q1 là thực tế có diễn ra. Vào ngày 03/02/2012, bà Hứa Thị Q1 có cố cho ông
Đoàn Văn G phần đất có diện tích 13.000m
2
tọa lạc tại ấp K, xã T, huyện P, tỉnh
C . thời hạn cố là 10 năm, với giá cố là 58 chỉ vàng 24K. Ngày 06/6/2012 bà Q1
thỏa thuận chuyển nhượng cho ông G phần đất cố trên với giá 70 chỉ vàng 24K,
ông G giao cho bà Q1 thêm 12 chỉ vàng 24K, hai bên có làm hợp đồng chuyển
nhượng, hai bên có ký tên vào giấy chuyển nhượng. Do hai bên đã có làm hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất bà
Q1 hiện ông G đang giữ. Theo yêu cầu của phía nguyên đơn yêu cầu hủy giao
dịch cố đất theo giấy cố đất giữa bà Hứa Thị Q1 với ông Đoàn Văn G ký kết
vào ngày 03/02/2012. Đồng thời buộc ông Đoàn Văn G trả cho anh em ông L
phần đất có diện tích 13.000m
2
tọa lạc ấp K, xã T, huyện P, tỉnh C; trả lại giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất bản gốc cho anh em ông L thì phía ông G không
đồng ý, ông Đoàn Văn G yêu cầu phản tố để công nhận hợp đồng chuyển
nhượng giữa ông Đoàn G và bà Hứa Thị Q1 đã ký kết vào ngày 06 tháng 6 năm
2012.
- Tại Biên bản hòa giải ngày 25/4/2022, những người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan là ông Nguyễn Văn T, ông Nguyễn Văn D, ông Nguyễn Thiện
Đ thống nhất trình bày:
Chữ ký trong hợp đồng chuyển nhượng không phải của mẹ chúng tôi.
Chúng tôi thống nhất ý kiến trình bày của Luật sư, người đại diện theo ủy quyền
của ông Nguyễn Văn L, không có trình bày bổ sung.
4
- Tại biên bản làm việc ngày 08 tháng 6 năm 2022, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan là ông Nguyễn Văn V trình bày:
Vào ngày 03/02/2012, ông có viết tay hợp đồng cầm cố quyền sử dụng
đất tại nhà của ông Đoàn Văn G (cha vợ ông) thuộc ấp K, xã T, huyện P, tỉnh C
. giữa bà Hứa Thị Q1 và ông Đoàn Văn G. Phần đất cầm cố có diện tích
13.000m
2
tọa lạc ấp K, xã T, huyện P, tỉnh C . với giá 58 chỉ vàng 24K, thời hạn
cầm cố là 10 năm kể từ ngày 03/02/2012. Sau khi viết xong hợp đồng có bà
Hứa Thị Q1 và ông Đoàn Văn G ký tên trước mặt ông, đồng thời có ông Hứa
Văn Hầu chứng kiến và ký tên. Tại thời điểm cố đất bà Hứa Thị Q1 đưa giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Đoàn Văn G cất giữ. Sau khi thực hiện
hợp đồng cố thì phía bà Hứa Thị Q1 có cho cải tạo theo nội dung hợp đồng thì
ông có đốn hạ vài cây dừa và me thì con bà Hứa Thị Q1 là ông Nguyễn Văn L có
yêu cầu bồi thường. Ông Đoàn Văn G nói nếu muốn bồi thường thì ông Nguyễn
Văn L kêu bà Hứa Thị Q1 về ông Đoàn Văn G bồi thường cho. Đến ngày
06/6/2012, bà Hứa Thị Q1 về thì ông Đoàn Văn G nói bà Hứa Thị Q1 cố đất cho
ông Đoàn Văn G rồi thì theo hợp đồng cố ông Đoàn Văn G có quyền cải tạo đất
nên có đốn vài cây dừa, me thì con bà Hứa Thị Q1 đòi bồi thường. Do đó, ông
Đoàn Văn G có nói tiếp nếu như con bà Hứa Thị Q1 không cho đốn hạ các cây
để cải tạo đất thì ông Đoàn Văn G nói trả lại đất cho bà Hứa Thị Q1, bà Hứa Thị
Q1 trả lại vàng cho ông Đoàn Văn G. Bà Hứa Thị Q1 nói vàng ông Đoàn Văn G
đưa cho bà Hứa Thị Q1 đã sử dụng và trang trãi trả nợ nên bà Hứa Thị Q1 có yêu
cầu chuyển nhượng luôn phần đất.
Cũng tại thời điểm này, ông có tiếp tục viết tay hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất tại nhà của cha vợ ông là ông Đoàn Văn G thuộc ấp K, xã T,
huyện P, tỉnh C giữa bà Hứa Thị Q1 và ông Đoàn Văn G. Phần đất chuyển
nhượng có diện tích 13.000m
2
tọa lạc ấp K, xã T, huyện P, tỉnh C với giá 70 chỉ
vàng 24K. Ông trực tiếp chứng kiến bà Hứa Thị Q1 và ông Đoàn Văn G ký tên
vào hợp đồng chuyển nhượng. Đồng thời ông Đoàn Văn G có đưa thêm cho bà
Hứa Thị Q1 12 chỉ vàng 24K (02 chiếc nhẫn 05 chỉ và 01 chiếc nhẫn 02 chỉ). Lúc
làm giấy chuyển nhượng có vợ ông Đoàn Văn G (mẹ vợ ông) là bà Huỳnh Thị
K1 có mặt và chứng kiến nhưng không có ký tên. Ông G có nói với bà Q1 là khi
làm hợp đồng chuyển nhượng mà bên bà Q1 không có ai chứng kiến nên ông
Đoàn Văn G mới nói bà Q1 giao giấy chứng minh nhân dân của bà Hứa Thị Q1
cho ông Đoàn Văn G giữ. Khi đó bà Hứa Thị Q1 nói giấy chứng minh nhân dân
của bà dùng để đi làm nên không có giấy gốc không đi làm được nên bà Hứa Thị
Q1 có đem giấy chứng minh nhân dân phô tô và giao cho ông Đoàn Văn G giữ.
Do là con trong nhà nên ông không có ký tên. Tuy nhiên phía bà Hứa Thị Q1 có
người anh em bà Hứa Thị Q1 là ông Hứa Văn H chứng kiến và ký tên lúc hai bên
làm hợp đồng cố đất.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Huỳnh Thị K1, ông Nguyễn
Văn Q, ông Đoàn Văn G1, bà Đoàn Thị L1 đã được Tòa án triệu tập tham gia
tố tụng hợp lệ nhiều lần nhưng vẫn vắng mặt, đồng thời không cung cấp lời khai
chứng cứ.
5
- Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Tân đề nghị
Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn L, tuyên bố
hợp đồng cầm cố quyền sử dụng đất quyền sử dụng đất xác lập ngày 03 tháng
02 năm 2012 giữa bà Hứa Thị Q1 với ông Đoàn Văn G là vô hiệu. Buộc ông
Đoãn Văn G và những người có liên quan trả cho những người thừa kế của bà
Hứa Thị Q1 phần đất có diện tích theo đo đạc thực tế là 12.392,1m
2
, giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất tên Hứa Thị Q1. Buộc những người thừa kế của bà hứa
Thị Q1 trả cho ông Đoàn Văn G 58 chỉ vàng 24k.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1]. Về tố tụng: Ông Nguyễn Văn L khởi kiện yêu cầu Tòa án hủy hợp
đồng cầm cố quyền sử dụng đất giữa bà Hứa Thị Q1 với ông Đoàn Văn G. Do
đó, đây là tranh chấp dân sự về việc “tranh chấp hợp đồng cầm cố quyền sử
dụng đất” theo quy định tại khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a
khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự nên thuộc thẩm quyền của Tòa án
nhân dân huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau. Tòa án nhân dân huyện Phú Tân, tỉnh
Cà Mau thụ lý giải quyết theo thủ tục sơ thẩm là đúng thủ tục tố tụng.
[2]. Về sự vắng mặt của đương sự: Ông Nguyễn Văn T, ông Nguyễn Văn
D, ông Nguyễn Thiện Đ người có quyền lợi nghĩa vụ liên có đơn xin vắng mặt
nên Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt đối với các đương sự nêu trên theo
quy định tại khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bà Huỳnh Thị K1, ông
Nguyễn Văn Q, ông Đoàn Văn G1, bà Đoàn Thị L1 ông Nguyễn Văn V là
người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt nên Hội đồng xét xử quyết
định xét xử vắng mặt đối với các đương sự nêu trên theo quy định tại điểm b
khoản 1 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[3]. Quá trình khởi kiện, ông Nguyễn Văn L khởi kiện khởi kiện yêu cầu
Tòa án hủy hợp đồng cầm cố quyền sử dụng đất giữa bà Hứa Thị Q1 với ông
Đoàn Văn G. Ông Đoàn Văn G yêu cầu phản tố đề nghị công nhận hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông và bà Hứa Thị Q1, phần đất theo đo
đạc thực tế có diện tích 12.392,1 m
2
tọa lạc ấp K, xã T, huyện P, tỉnh C.
[4]. Về nội dung tranh chấp:
[3.1]. Nguyên đơn cho rằng vào ngày 03 tháng 02 năm 2012, mẹ của
nguyên đơn là bà Hứa Thị Q1 chỉ cầm cố quyền sử dụng đất cho ông Đoàn Văn
G phần đất có diện tích 13.000m
2
tọa lạc tại ấp K, xã T, huyện P, tỉnh C với giá
58 chỉ vàng 24K, thời hạn cố là 10 năm, khi cố có làm giấy tay 02 bên cùng giữ,
khi đó hai bên thỏa thuận sau 10 năm mẹ ông Nguyễn Văn L có quyền chuộc lại
phần đất nêu trên nhưng mẹ ông Nguyễn Văn L phải trả đủ 58 chỉ vàng 24k,
ông Nguyễn Văn L cung cấp hợp đồng cố đất để chứng minh cho yêu cầu của
mình là có căn cứ, đồng thời ông Đoàn Văn G cũng cung cấp hợp đồng cố đất
có nội dung giống như ông Nguyễn Văn L đã cung cấp, đồng thời ông cũng xác
định khi cố đất thì bà Hứa Thị Q1 có ký vào hợp đồng cố đất, do đó chứng cứ
của ông Đoàn Văn G cung cấp phù hợp với lời trình bày của ông Nguyễn Văn L
và chứng cứ mà ông Nguyễn Văn L đã cung cấp. Mặc khác, sau khi cố đất được
02 năm thì đến năm 2014 bà Hứa Thị Q1 chết, gia đình đã chôn cất bà Hứa Thị
6
Q1 trên phần đất mà trước đó bà Hứa Thị Q1 đã cố cho ông Đoàn Văn G. Từ đó
đến năm 2021 gia đình nguyên đơn liên tục đưa thi hài những người quá cố về
phần đất này chôn và xây mồ mã (07 ngôi mộ) nhưng phía bị đơn không có ý
kiến hay phản đối việc này. Do đó việc ông Nguyễn Văn L cho rằng mẹ ông cố
đất cho ông Đoàn Văn G là có căn cứ để chấp nhận.
[3.2]. Phía bị đơn cho rằng sau khi cố đất vào ngày 03 tháng 02 năm 2012
đến ngày 06/6/2012 bà Hứa Thị Q1 đã chuyển nhượng toàn bộ phần diện tích
đất đã cố cho ông Đoàn Văn G với giá 70 chỉ vàng 24K và cung cấp các giấy tờ
chuyển nhượng giữa ông Đoàn Văn G với bà Hứa Thị Q1.
Tuy nhiên, tại biên bản hòa giải ngày 12 tháng 3 năm 2022 tại trụ sở ấp
K, xã T, huyện P, tỉnh C phía gia đình nguyên đơn yêu cầu được chuộc lại đất
thì bị đơn là ông Đoàn Văn G đồng ý cho chuộc lại đất nhưng theo giá thỏa
thuận. Điều này cho thấy rằng ông Đoàn Văn G thừa nhận giữa ông Đoàn Văn
G và bà Hứa Thị Q1 chỉ xảy ra việc cầm cố quyền sử dụng đất.
Mặt khác, tại bản Kết luận giám định số 265/KL-KTHS ngày 07/9/2022
của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Cà Mau kết luận chữ ký “q” ở các
giấy cố đất và chữ ký “Q1” ở giấy chuyển nhượng quyền sử dụng đất không
phải do cùng một người ký ra.
Do đó không có cơ sở để chấp nhận chứng cứ bị đơn đưa ra để chứng
minh đó là hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Theo đó, bị đơn cho
rằng có sự việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại sao từ năm 2012 đến nay
bị đơn vẫn chưa đăng ký sang tên quyền sử dụng đất theo quy định của pháp
luật. Đồng thời vẫn cho ông Nguyễn Văn L cất nhà ở trên đất và chôn cất những
người thân của ông Nguyễn Văn L nhưng phía bị đơn không có ý kiến hay phản
đối việc này. Vì vậy, việc bị đơn cho rằng bà Hứa Thị Q1 đã chuyển nhượng
quyền sử dụng đất cho bị đơn và yêu cầu công nhận hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất giữa bà Hứa Thị Q1 với ông Đoàn Văn G vào ngày
06/6/2012 là không có cơ sở để chấp nhận.
Như vậy, nguyên đơn cho rằng chỉ cầm cố quyền sử dụng đất cho ông
Đoàn Văn G là có căn cứ chấp nhận. Theo các tài liệu chứng cứ có tại hồ sơ thì
giữa bà Hứa Thị Q1 với ông Đoàn Văn G không có thực hiện hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất.
[4]. Xét hợp đồng cầm cố quyền sử dụng đất ngày 03 tháng 02 năm 2012
được xác lập giữa bà Hứa Thị Q1 với ông Đoàn Văn G là trái với qui định của
pháp luật, bởi vì theo qui định tại Điều 326 của Bộ luật dân sự năm 2005 thì
người cầm cố chỉ được dùng tài sản thuộc quyền sở hữu của mình để đem cầm
cố, còn quyền sử dụng đất không phải là sở hữu của cá nhân mà là sở hữu của
toàn dân do nhà nước thống nhất quản lý. Mặt khác, tại Điều 167 Luật đất đai
qui định về quyền của người sử dụng đất thì người sử dụng đất không có quyền
cầm cố quyền sử dụng đất. Do đó, hợp đồng cầm cố quyền sử dụng đất giữa bà
Q1 với ông G đã vi phạm điều cấm của pháp luật nên bị vô hiệu kể từ thời điểm
giao kết hợp đồng.
7
[5]. Về hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu: Tại khoản 2 Điều
131 của Bộ luật dân sự quy định “khi giao dịch dân sự bị vô hiệu thì các bên
phải khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận…”.
Do đó, buộc ông G và những người đang ở trên phần đất di dời nhà và cây trồng
có trên đất để trả cho những người thừa kế của bà Q1 gồm ông Nguyễn Văn L,
ông Nguyễn Văn T, ông Nguyễn Văn D và Nguyễn Thiện Đ phần đất theo đo
đạc thực tế có diện tích 12.392,1m
2
. Buộc người thừa kế của bà Q1 gồm ông
Nguyễn Văn L, ông Nguyễn Văn T, ông Nguyễn Văn D và Nguyễn Thiện Đ trả
cho ông Đoàn Văn G 58 chỉ vàng 24k
[6]. Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Tân đề nghị
như nêu trên là có cơ sở nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.
[7]. Từ những phân tích nêu trên nên ông Đoàn Văn G cho rằng bà Hứa
Thị Q1 chuyển nhượng đất cho ông G và yêu cầu công nhận hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất là không có cơ sở chấp nhận
[8]. Về chi phí đo đạc là 13.680.610 đồng và chi phí giám định 4.050.000
đòng. Do yêu cầu của ông Nguyễn Văn L được được chấp nhận toàn bộ nên
buộc Đoàn Văn G phải chịu toàn bộ chi phí đo đạc và Chi phí định giá. Ông
Nguyễn Văn L đã thanh lý xong toàn bộ chi phí đo đạc và chi phí định giá nên
nên buộc G phải hoàn trả cho ông L theo quy định tại khoản 1 Điều 161 của Bộ
luật Tố tụng dân sự là phù hợp.
[9]. Về án phí: Do yêu cầu của ông Nguyễn Văn L được chấp nhận nên ông
L không phải chịu án phí, ông L đã nộp tạm ứng án phí 10.050.000 đồng được
nhận lại. Ông Đoàn Văn G là người cao tuổi và có đơn đề nghị miễn án phí nên
ông G được miễn toàn bộ án phí theo quy định tại Điều 12 Nghị quyết
326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc
hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí
Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 161;
điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
- Áp dụng các Điều 121; Điều 127 Điều 128; Điều 131; Điều 326 của Bộ
luật dân sự năm 2005; Áp dụng Điều 167 của Luật đất đai
Áp dụng Điều 12 và Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30
tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn,
giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
1. Tuyên bố hợp đồng cầm cố quyền sử dụng đất ngày 03 tháng 02 năm
2012 được xác lập giữa bà Hứa Thị Q1 với ông Đoàn Văn G bị vô hiệu.
2. Buộc ông Đòàn Văn G và những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan
gồm ông Nguyễn Văn V, bà Đoàn Thị L1, ông Đoàn Văn G1 trả cho những
người thừa kế của bà Q1 gồm ông Nguyễn Văn L, ông Nguyễn Văn T, ông

8
Nguyễn Văn D và Nguyễn Thiện Đ phần đất có diện tích theo đo đạc thực tế
12.392,1m
2
, đất tọa lạc tại ấp Kiến Vàng, xã Tân Hưng Tây, huyện Phú Tân,
tỉnh cà Mau (có mảnh trích đo hiện trạng kèm theo); vị trí:
- Phía Đông giáp ông Huỳnh Văn T dài 152,57m;
- Phía Tây giáp ông Đoàn Văn G dài 136,74m;
- Phía Nam giáp ông Nguyễn Phong N dài 90,89m
- Phía Bắc giáp Kinh dài 79,20m
3. Buộc ông Đoàn Văn G trả cho những người thừa kế của bà Q1 gồm
ông Nguyễn Văn L, ông Nguyễn Văn T, ông Nguyễn Văn D và Nguyễn Thiện
Đ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số D 0854692 do Ủy ban nhân dân huyện
Cái Nước cấp cho bà Hứa Thị Q1.
4. Buộc ông Đoàn Văn G1 tháo dở di dời một căn nhà để trả đất cho
những người thừa kế của bà Q1 gồm ông Nguyễn Văn L, ông Nguyễn Văn T,
ông Nguyễn Văn D và ông Nguyễn Thiện Đ.
5. Buộc ông Nguyễn Văn V và bà Đoàn Thị L1 tháo dở di dời một căn
nhà và cây trồng trên đất để trả đất cho những người thừa kế của bà Q1 gồm
ông Nguyễn Văn L, ông Nguyễn Văn T, ông Nguyễn Văn D và ông Nguyễn
Thiện Đ.
6. Buộc những người thừa kế của bà Q1 gồm ông Nguyễn Văn L, ông
Nguyễn Văn T, ông Nguyễn Văn D và ông Nguyễn Thiện Đ trả cho ông Đoàn
Văn G 58 chỉ vàng 24k.
7. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của ông Đoàn Văn G về việc yêu
cầu công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được xác lập ngày
06 tháng 6 năm 2012 giữa bà Hứa Thị Q1 và ông Đoàn Văn G.
8. Về chi phí tố tụng: Buộc ông Đoàn Văn G trả cho ông Nguyễn Văn L
tiền chi phí đo đạc và chi phí định giá 13.680.610 đồng và chi phí giám định
4.050.000 đòng, tổng cộng 17.730.610 đồng.
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan
thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có
đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền
phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành xong, tất cả các
khoản tiền hàng tháng bên thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền
còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ
luật dân sự năm 2015.
9. Về án phí:
Ông Nguyễn Văn L không phải chịu án phí, ông L đã nộp tạm ứng án phí
dân sự sơ thẩm số tiền 10.050.000 đồng (mười triệu không trăm năm mươi ngàn
đồng) theo biên lai thu tiền số 0017732 ngày 07 tháng 4 năm 2022 của Chi cục
thi hành án dân sự huyện Phú Tân; ông L được nhận lại khi bản án có hiệu lực
pháp luật.
9
Miễn toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch cho ông Đoàn Văn G.
Đương sự có mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn mười lăm ngày kể
từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt được quyền kháng trong thời hạn mười
lăm ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2
của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi
hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự
nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,
7 và 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo
quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.
Nơi nhận:
- TAND tỉnh Cà Mau;
- VKSND huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau;
- Chi cục Thi hành án huyện Phú Tân, tỉnh
Cà Mau;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ, văn thư.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nguyễn Việt Triều
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 02/12/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 01/12/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 01/12/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 28/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 28/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 27/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 26/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 25/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 25/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 25/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 25/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 25/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 24/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 24/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 24/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 21/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 21/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 19/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 19/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 17/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm