Bản án số 14/2025/HNGĐ-ST ngày 29/08/2025 của Tòa án nhân dân khu vực 3 - Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 14/2025/HNGĐ-ST

Tên Bản án: Bản án số 14/2025/HNGĐ-ST ngày 29/08/2025 của Tòa án nhân dân khu vực 3 - Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
Quan hệ pháp luật: Vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: Tòa án nhân dân khu vực 3 - Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn
Số hiệu: 14/2025/HNGĐ-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 29/08/2025
Lĩnh vực: Hôn nhân gia đình
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Năm 2016, anh Vi Văn T và chị Trần Thị H quen biết, tìm hiểu, yêu nhau và được hai bên gia đình tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán địa phương, có đăng ký kết hôn tại UBND xã B, huyện V, tỉnh Lạng Sơn (nay là xã Y, tỉnh Lạng2 Sơn) vào ngày 15/9/2016, việc kết hôn hoàn toàn tự nguyện, không bị ép buộc. Sau khi kết hôn hai vợ chồng chung sống ở thôn B, xã Y, tỉnh Lạng Sơn và sinh con chung vào năm 2017. Năm 2019 anh Vi Văn T đi lao động xuất khẩu ở Nhật, chị Trần Thị H ở nhà chăm con đến đầu năm 2020 thì đi làm công nhân đến 2022 thì về nhà. Do khoảng cách địa lý không có thời gian quan tâm gần gũi nhau nên giữa hai vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, bất đồng về quan điểm sống. Đầu năm 2025 anh Vi Văn T về nước thì chị Trần Thị H lại đi làm công nhân, không rõ ở đâu. Cách đây khoảng 1 tuần anh Vi Văn T có gọi điện cho chị Trần Thị H nói cùng đến Toà án để giải quyết việc ly hôn nhưng chị Trần Thị H nói không về được. Nay xác định tình cảm vợ chồng không còn, anh Vi Văn T yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn với chị Trần Thị H. Về con chung
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
KHU VỰC 3 - LẠNG SƠN
Bản án số: 14/2025/HNGĐ-ST
Ngày: 29-8-2025
V/v Tranh chp Ly hôn,
ni con chung
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tdo - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN KHU VỰC 3 - LẠNG SƠN
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Hoàng Thị Thu Hường
Các Hội thẩm nhân dân: Ông Phùng Văn Thời
Nguyễn Thị Hương
- Thư phiên tòa: Lục Quỳnh Trâm Thư Tòa án nhân dân khu
vực 3 - Lạng Sơn.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân khu vực 3 - Lạng Sơn tham gia phiên
toà: Nguyễn Thị Trang - Kiểm sát viên.
Ngày 29 tháng 8 năm 2025, tại trụ sở a án nhân dân khu vực 3 - Lạng
Sơn xét xử thẩm công khai ván hôn nhân gia đình thụ số: 60/2025/TLST-
HNGĐ ngày 23 tháng 6 năm 2025 về việc Tranh chấp ly hôn, nuôi con chung theo
Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 09/2025/QĐXXST-HNGĐ ny 28 tháng 7
m 2025, Quyết định hoãn phiên toà số: 03/2025/QĐST-HNGĐ ngày 13 tháng
08 m 2025, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Anh Vi Văn T, sinh ngày 09/02/1988, nơi cư trú: Thôn B, xã
Y, tỉnh Lạng Sơn. Căn cước công dân số: 020088008702, ngày cấp 18/5/2023,
nơi cấp: Cục cảnh sát quản hành chính vtrật tự hội - Bộ Công an. Vắng
mặt có đơn xin xét xử vắng mặt.
- Bị đơn: Chị Trần Thị H, sinh ngày 28/4/1994, nơi trú: Thôn B, Y,
tỉnh Lạng Sơn. Căn cước công dân số: 020194003878, ngày cấp: Không có, nơi
cấp: Không có. Vắng mặt lần thứ 2 không có lý do
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Tại đơn khởi kiện ngày 16/6/2025, các lời khai trong quá trình giải quyết vụ
án, nguyên đơn Vi Văn T trình bày:
Năm 2016, anh Vi Văn Tchị Trần Thị H quen biết, tìm hiểu, yêu nhau
được hai bên gia đình tổ chức lcưới theo phong tục tập quán địa phương,
đăng kết hôn tại UBND B, huyện V, tỉnh Lạng Sơn (nay là xã Y, tỉnh Lạng
2
Sơn) vào ngày 15/9/2016, việc kết hôn hoàn toàn tự nguyện, không bị ép buộc.
Sau khi kết hôn hai vợ chồng chung sống thôn B, Y, tỉnh Lạng Sơn sinh
con chung vào năm 2017. Năm 2019 anh Vi Văn T đi lao động xuất khẩu ở Nhật,
chị Trần Thị H nhà chăm con đến đầu năm 2020 thì đi làm công nhân đến 2022
thì về nhà. Do khoảng cách địa không thời gian quan m gần gũi nhau nên
giữa hai vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, bất đồng về quan điểm sống. Đầu m
2025 anh Vi Văn T về nước thì chị Trần Thị H lại đi m công nhân, không
đâu. Cách đây khoảng 1 tuần anh Vi Văn T gọi điện cho chị Trần Thị H nói
cùng đến Toà án để giải quyết việc ly hôn nhưng chị Trần Thị H nói không về
được. Nay xác định tình cảm vợ chồng không còn, anh Vi Văn T yêu cầu Tòa án
giải quyết cho ly hôn với chị Trần Thị H. Về con chung: 01 con chung Vi
Nhật M, sinh ngày 06/5/2017 hiện nay đang sống ng anh Vi Văn T tại Thôn B,
Y, tỉnh Lạng Sơn. Khi ly hôn anh Vi Văn T yêu cầu được trực tiếp trông nom,
chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung cho đến khi con đủ 18 tuổi, không yêu
cầu chị Trần Thị H cấp dưỡng nuôi con chung. Về tài sản chung, vay nchung:
Không có.
Toà án đã triệu tập chị Trần Thị H đến Toà án để trình y lời khai về các
yêu cầu của nguyên đơn nhưng chị Trần Thị H không mặt, không ý kiến
trình bày. Toà án đã thực hiện thủ tục niêm yết các văn bản tố tụng theo quy định
của Bộ luật Tố tụng dân sự đối với chị Trần Thị H.
Toà án đã tiến hành xác minh tình trạng hôn nhân của đương sự. Tại ng
văn số 415/UBND ngày 28/6/2025, UBND xã B, huyện V (nay là xã Y, tỉnh Lạng
Sơn) cho biết: Anh Vi Văn T chị Trần Thị H đăng ký kết hôn tại UBND
B nay Y, tỉnh Lạng Sơn ngày 15/9/2016, vợ chồng sống ly thân từ khi anh
Vi Văn T đi nước ngoài năm 2020, chị Trần Thị H hiện nay không địa phương;
vợ chồng một con chung tên Vi Nhật M sinh ngày 06/5/2017, đang sống
cùng anh Vi Văn T. Mức thu nhập của anh Vi Văn T tại địa phương 5.000.000
đồng/ tháng, mức tối thiểu để đảm bảo chăm sóc, nuôi dưỡng, học tập phát triển
bình thường đối với độ tuổi của cháu Vi Nhật M tại địa phương 1.500.000
đồng/tháng.
Tại biên bản lấy ý kiến con chưa thành niên ngày 30/6/2025, cháu Vi Nhật
M trình y cháu con đẻ của anh Vi Văn T chị Trần Thị H, đang sống cùng
bố ông, nội tại Y, tỉnh Lạng Sơn, hiện tại mTrần Thị H không sống
cùng nhưng thi thoảng về thăm. Cháu nguyện vọng sống cùng bố ông bà
nội nếu bố mẹ lyn.
Tòa án đã mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng
cứ và hòa giải vào ngày 23/7/2025, tuy nhiên chị Trần Thị H vắng mặt, anh Vi
Văn T đơn đề nghị Toà án không hòa giải vụ án nên Tòa án chỉ tiến hành
phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ.
Ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa: Từ khi thụ vụ
án đến trước khi xét xử, Thẩm phán đã tiến hành tố tụng đúng trình tthủ tục,
hướng dẫn đương sự viết tự khai, lấy lời khai đương sự, tiến hành xác minh thu
thập chứng cứ, niêm yết văn bản ttụng, tiến hành mở phiên họp kiểm tra việc
3
giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, quyết định đưa vụ án ra xét xử chuyển
hồ cho Viện kiểm sát nghiên cứu đúng quy định. Quá trình tiến hành tố tụng
tại phiên tòa Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư Tòa án thực hiện đúng quy
định của pháp luật. Nguyên đơn đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ tố tụng theo
quy định của pháp luật tố tụng, bị đơn nhiều lần được Toà án triệu tập nhưng
không đến Toà án, không trình y ý kiến không chấp hành các quy định của
pháp luật tố tụng.
Về quan điểm giải quyết vụ án, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng
xét xử chấp nhận yêu cầu của anh Vi Văn T, xử cho anh Vi Văn T được ly hôn
chị Trần Thị H. Về con chung, giao cháu Vi Nhật M, sinh ngày 06/5/2017 cho
anh Vi Văn T trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi
con đủ 18 tuổi, chị Trần Thị H không phải cấp dưỡng nuôi con chung anh Vi Văn
T không yêu cầu. Tài sản chung, nợ chung không xem xét giải quyết do đương sự
trình bày không . Về án phí, buộc anh Vi Văn T phải chịu án phí hôn nhân gia
đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Sau khi nghiên cứu các tài liệu trong hồ vụ án đã được thẩm tra
tại phiên tòa, ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa, Hội đồng
xét xử nhận định:
[2] Về thủ tục ttụng: Đây vụ án tranh chấp ly hôn, nuôi con chung, bị
đơn trú tại Thôn B, Y, tỉnh Lạng Sơn nên thuộc thẩm quyền giải quyết của
Toà án nhân dân huyện Văn Quan, nay Tòa án nhân dân khu vực 3 Lạng Sơn
theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều
39 Bộ luật Tố tụng dân sự khoản 1 Điều 6 Nghị quyết số 01/2025/NQ-HĐTP
ngày 27/6/2025 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp
dụng một số quy định về tiếp nhận nhiệm vụ, thực hiện thẩm quyền của các Toà
án nhân dân. Toà án triệu tập phiên toà hợp lệ lần thứ hai, nguyên đơn có đơn xin
xét xử vắng mặt, bị đơn vắng mặt lần thứ hai không có lý do nên Hội đồng xét xử
quyết định xét xử vắng mặt cả nguyên đơn, bị đơn theo quy định tại điểm b khoản
2 Điều 227, khoản 1,3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[3] Về quan hệ hôn nhân, xét thấy anh Vi Văn T và chị Trần Thị H có quen
biết, yêu nhau, tự nguyện kết hôn đăng kết hôn ngày 19/6/2016 tại
UBND B, huyện V nay Y, tỉnh Lạng Sơn nên quan hệ hôn nhân hợp
pháp. Nguyên đơn trình bày vợ chồng đã phát sinh nhiều mâu thuẫn do bất đồng
quan điểm sống, không tiếng nói chung từ khi anh Vi Văn T đi nước ngoài lao
động, hai vợ chồng sống ly thân từ năm 2019 đến nay không còn tình cảm gì với
nhau. Đầu năm 2025 anh Vi Văn T về địa phương sinh sống thì chị Trần Thị H lại
đi khỏi địa phương, vợ chồng không còn liên lạc với nhau. Toà án đã triệu tập
nhiều lần nhưng chị Trần Thị H đều không có mặt, không trình bày ý kiến, không
tham gia phiên hoà giải, phiên toà; thể hiện không còn nguyện vọng đoàn tụ,
không giải pháp để hàn gắn quan hệ vợ chồng. vậy, Hội đồng xét xử thấy
rằng mâu thuẫn giữa anh Vi n T chị Trần Thị H đã trầm trọng, mục đích
hôn nhân không đạt được nên chấp nhận yêu cầu ly hôn của anh Vi Văn T.
4
[4] Về con chung: Anh Vi Văn T chị Trần Thị H 01 con chung tên
Vi Nhật M, sinh ngày 06/5/2017, hiện nay đang cùng anh Vi n T tại Thôn B,
Y, tỉnh Lạng n. Anh Vi Văn T yêu cầu được trực tiếp trông nom, chăm sóc,
nuôi dưỡng, giáo dục cháu Vi Nhật M cho đến khi con đủ 18 tuổi, không yêu cầu
chị Trần Thị H cấp dưỡng nuôi con chung. Hội đồng xét xử thấy rằng cháu Vi
Nhật M từ nhđến nay đều sinh sống, học tập tại Thôn B, Y, tỉnh Lạng Sơn,
hiện nay đang sống cùng b được chăm sóc, nuôi dưỡng, học tập đầy đủ. Cháu
Vi Nhật M có nguyện vọng tiếp tục sốngng bố khi bố mẹ ly hôn nên cần tiếp tục
giao cho anh Vi Văn T trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu
Vi Nhật M cho đến khi con đủ 18 tuổi để không làm xáo trộn cuộc sống của trẻ vị
thành niên. Chị Trần Thị H không phải cấp dưỡng nuôi con chung do anh Vi Văn T
không yêu cầu. Các đương sự quyền, nghĩa vụ đi lại thăm nom con chung,
quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con, yêu cầu cấp dưỡng nuôi con
chung theo quy định của pháp luật.
[5] Về tài sản chung, vay nợ chung: Không xem xét giải quyết do các đương
sự trình bày không có.
[6] Về ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát phù hợp với các nhận
định nêu trên nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[7] Về án phí: Anh Vi Văn T nguyên đơn yêu cầu ly hôn, nên phải
chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
[8] Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy
định tại Điều 271, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1
Điều 39; khoản 4 Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1, 3 Điều 228; các
Điều 238, 271, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ khoản 1 Điều 56, các Điều 57, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nn và gia
đình;
Căn cứ khoản 1 Điều 6 Nghị quyết s01/2025/NQ-HĐTP ngày 27/6/2025
của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy
định về tiếp nhận nhiệm vụ, thực hiện thẩm quyền của các Toà án nhân dân.
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 24; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, xử
cho anh Vi Văn T được ly hôn chị Trần Thị H.
2. Về con chung: Giao cháu Vi Nhật M, sinh ngày 06/5/2017 cho anh Vi
Văn T trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi con đủ 18
tuổi. Chị Trần Thị H không phải cấp dưỡng nuôi con chung do anh Vi Văn T
5
không yêu cầu. Người không trực tiếp nuôi con quyền, nghĩa vụ đi lại, thăm
nom con chung không ai được cản trở. Khi cần thiết, hai bên đương sự quyền
yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con, yêu cầu cấp dưỡng nuôi con theo quy
định của pháp luật.
3. Về tài sản chung, vay nợ chung: Không có.
4. Về án phí: Anh Vi Văn T phải chịu 300.000 đồng tiền án phí hôn nhân gia
đình thẩm để sung ngân sách Nhà nước. Xác nhận anh Vi Văn T đã nộp
300.000 đồng tiền án phí theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số
0003372 ngày 23 tháng 6 năm 2025 tại Chi cục thi hành án dân shuyện V, tỉnh
Lạng Sơn (nay Phòng Thi hành án dân sự khu vực 3, tỉnh Lạng Sơn) đã được
chuyển về tài khoản 3949.0.1054441.00000 của Thi hành án dân sự tỉnh Lạng
Sơn tại Kho bạc nhà nước khu vực VI Phòng nghiệp 2.
5. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn quyền kháng cáo bản án
trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết
theo quy định của pháp luật.
Nơi nhận:
- TAND tỉnh Lạng Sơn;
- VKSND tỉnh Lạng Sơn;
- VKSND khu vực 3 - Lạng Sơn;
- THADS tỉnh Lạng Sơn;
- UBND xã Y;
- Các đương sự;
- Lưu: HS + Tổ HCTP.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Hoàng Thị Thu Hường
Tải về
Bản án số 14/2025/HNGĐ-ST Bản án số 14/2025/HNGĐ-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 14/2025/HNGĐ-ST Bản án số 14/2025/HNGĐ-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất