Bản án số 138/2025/DS-PT ngày 10/09/2025 của TAND tỉnh Phú Thọ về đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng về sức khỏe, tính mạng
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 138/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 138/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 138/2025/DS-PT
| Tên Bản án: | Bản án số 138/2025/DS-PT ngày 10/09/2025 của TAND tỉnh Phú Thọ về đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng về sức khỏe, tính mạng |
|---|---|
| Quan hệ pháp luật: | Đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng về sức khỏe, tính mạng |
| Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
| Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Phú Thọ |
| Số hiệu: | 138/2025/DS-PT |
| Loại văn bản: | Bản án |
| Ngày ban hành: | 10/09/2025 |
| Lĩnh vực: | Dân sự |
| Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Thông tin về vụ/việc: | Tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN
TỈNH PHÚ THỌ
Bản án số: 138/2025/DS-PT
Ngày 10 - 9 - 2025
V/v Tranh chấp bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập-Tự do-Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH PHÚ THỌ
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Ông Nguyễn Văn Nghĩa
Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Xuân Trọng và ông Vũ Văn Mạnh
- Thư ký phiên toà: Bà Nguyễn Thu Mai - Thư ký Toà án nhân dân tỉnh
Phú Thọ.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Phú Thọ tham gia phiên tòa: Bà
Lê Thị Huệ - Kiểm sát viên.
Ngày 10 tháng 9 năm 2025, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Phú Thọ (cơ
sở 2) xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 63/2025/TLPT-DS
ngày 17 tháng 7 năm 2025 về việc “Tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng”. Do Bản án dân sự sơ thẩm số: 26/2025/DS-ST ngày 30/5/2025 và Thông
báo sửa chữa bổ sung bản án số 26/2025/QĐ-SCBSBA ngày 18/6/2025 của Tòa
án nhân dân huyện Vĩnh Tường (nay là Tòa án nhân dân khu vực 10 - Phú Thọ)
bị kháng cáo. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 131/2025/QĐ-
PT ngày 14/8/2025 của Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông Hà Văn H, sinh năm 1960 và bà Vũ Thị L, sinh năm
1971 (có mặt);
Người đại diện hợp pháp của ông Hà Văn H: Bà Vũ Thị L, sinh năm 1971
– Là người đại diện theo ủy quyền (Ủy quyền tại phiên tòa) (có mặt);
Đều trú tại: Thôn A, xã V, huyện V, tỉnh Vĩnh Phúc; nay là thôn A, xã V,
tỉnh Phú Thọ.
2. Bị đơn có yêu cầu phản tố: Anh Đỗ Văn T, sinh năm 1991; trú tại:
Thôn A, xã V, huyện V, tỉnh Vĩnh Phúc; nay là thôn A, xã V, tỉnh Phú Thọ (có
mặt);
3. Người kháng cáo: Bị đơn - anh Đỗ Văn T.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện, những lời khai tiếp theo trong quá trình giải quyết vụ
án và tại phiên tòa, nguyên đơn ông Hà Văn H và bà Vũ Thị L trình bày:
2
Khoảng 07 giờ 00 phút ngày 12 tháng 5 năm 2024, tại cánh đồng B thuộc thôn
A, xã V, huyện V, vợ chồng ông, bà bị anh Đỗ Văn T tìm đến gây sự với vợ
chồng ông, bà. Anh T đã đánh, đấm nhiều phát trúng vào mặt, mạn sườn trái,
mạn sườn phải của ông Hà Văn H khiến cho ông H bị thương tích. Anh T cùng
tấn công, đá vào bà Vũ Thị L. Kết quả ông Hà Văn H bị tổn thương cơ thể 06%
theo Kết luận giám định và làm ảnh hưởng tới tinh thần của vợ chồng ông, bà.
Đồng thời cũng làm vợ chồng ông, bà phát sinh các khoản chi phí trong quá
trình ông H thực hiện điều trị tổn thương cơ thể. Quá trình giải quyết vụ việc,
công an huyện V đã xác minh, làm rõ hành vi vi phạm pháp luật của anh T và
hậu quả thương tích của ông H, bà L nêu trên có mối quan hệ nhân quả với
nhau. Hành vi vi phạm của anh T là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại về sức
khỏe, tinh thần cho vợ chồng ông, bà. Những thiệt hại về sức khỏe, tinh thần của
vợ chồng ông, bà là kết quả tất yếu từ hành vi vi phạm pháp luật của anh T.
Hành vi vi phạm pháp luật của anh Đỗ Văn T đã xâm phạm nghiêm trọng tới
quyền và lợi ích hợp pháp của vợ chồng ông, bà, làm ảnh hưởng nghiêm trọng
đến chất lượng cuộc sống của vợ chồng ông, bà, khiến vợ chồng ông, bà phải
chịu những đau đớn thể xác và tinh thần trước hành vi bạo lực của anh T, đồng
thời cũng làm kinh tế của gia đình ông, bà giảm sút đáng kể do vợ chồng ông, bà
phải thanh toán các chi phí trong quá trình điều trị và làm mất đi nguồn thu nhập
chính.
Vợ chồng ông bà khởi kiện và đề nghị Tòa án xem xét và giải quyết buộc
anh T phải bồi thường toàn bộ chi phí trong quá trình điều trị tại Trung tâm y tế
huyện V, Bệnh viện H2 và Bệnh viện Q, cùng tiền về tổn thất tinh thần, tổng số
tiền là 46.142.000 đồng, cụ thể:
Tại Bệnh viện Q (từ ngày 13/5/2024 đến 17/5/2024): Số tiền khám chữa
bệnh: 8.529.862đ (BHYT cùng chi trả: 1.194.142đ; số tiền người bệnh thanh
toán: 7.335.720đ; Hóa đơn thuốc: 513.804đ; Phương tiện 2 lượt 1.000.000đ; Chi
phí bồi dưỡng sức khỏe: 600.000đ/04 ngày; Thu nhập thực tế bị mất:
600.000đ/04 ngày; Thu nhập người chăm sóc bị mất: 600.000đ/4 ngày.
Tại Khám chữa bệnh tại trung tâm y tế huyện V (đợt 1 từ ngày 12/5/2024
đến ngày 13/5/2024 và từ ngày 17/5/2024 đến ngày 28/5/2024): Tiền khám chữa
bệnh: BHYT chi trả toàn bộ; Thuê phương tiện: 600.000đ/04 lượt;
Bồi dưỡng sức khỏe: 1.950.000đ/13 ngày (150.000đ/ngày); Thu nhập thực
tế bị mất: 1.950.000đ/13 ngày; Thu nhập thực tế bị mất người chăm sóc:
1.950.000đ/13 ngày.
Khám chữa bệnh tại Bệnh viện H2 (từ ngày 29/5/2024) tổng số tiền:
1.207.000đ + thuê phương tiện 1.000.000đ/02 lượt.
Tổn thất về tinh thần ông H: 23.240.000đ (10 tháng lương cơ sở).
Tổn thất tinh thần cho bà L: 2.340.000đ (01 tháng lương cơ sở). Tại phiên
tòa sơ thẩm, bà L rút yêu cầu khởi kiện đối với anh T về việc yêu cầu bồi thường
tổn thất tinh thần cho bà L: 2.340.000đ (01 tháng lương cơ sở).
3
Bị đơn là anh Đỗ Văn T trình bày: Ông Hà Văn H và bà Vũ Thị L không
có mối quan hệ gia đình, họ hàng mà chỉ là người cùng thôn. Giữa hai gia đình
từ trước đến nay có xảy ra mâu thuẫn, tranh chấp đất đai. Vào sáng ngày
12/5/2024, do nghe được thông tin bà Vũ Thị L là vợ ông Hà Văn H có đến gây
sự, xô xát, túm cổ áo mẹ anh là bà Hà Thị L1 nên anh có đến tìm gặp vợ chồng
ông H, bà L để tìm hiểu nguyên nhân. Khi gặp được vợ chồng ông H, bà L thì bà
L có nhiều lời lẽ chửi bới, xúc phạm gia đình anh. Do được anh Đỗ Văn T1 là
người cùng thôn can ngăn, anh đã lên xe máy đi về. Khi thấy anh lên xe thì hai
vợ chồng ông H, bà L từ ruộng lao lên, bà L chặn ở phía trước xe không cho anh
đi và lấy chìa khóa xe đang cắm ở xe anh. Anh xuống xe hỏi bà L: "tại sao
không cho tôi về?" thì ông H bất ngờ lao tới dùng tay, không rõ là tay phải hay
trái đấm 01 phát vào mặt trái của anh và vùng mũi khiến anh bị choáng và chảy
máu trên vị trí vùng mắt và mũi. Do bị đánh bất ngờ vào vùng mặt khiến anh bị
choáng, một lúc sau anh nhận thức được thì có phản kháng, đánh lại ông H
nhưng không xác định cụ thể đánh vào vị trí nào trên người ông H. Bà L có
dùng cỏ đánh vào người anh thì có đỡ được. Tiếp theo, em trai của bà L là ông
Vũ Hồng L2 từ đằng sau quàng cổ, vật anh ngã xuống đất. Sau đó, anh T1 có
đến kéo can ngăn và đưa anh về nhà. Khi về đến nhà, do thương tích nghiêm
trọng nên vợ anh là chị Nguyễn Thị N có đưa anh đi Trung tâm y tế huyện V để
nhập viện ngay trong ngày. Về thời gian điều trị tại bệnh viện thì anh không nhớ
chính xác khoảng 04 đến 05 ngày. Sau khi ra viện, Công an xã V có mời anh lên
làm việc và xác định thương tích của anh là 01%. Nay ông Hà Văn H và bà Vũ
Thị L đề nghị Tòa án buộc anh phải bồi thường cho ông H, bà L tổng số tiền là:
46.142.000đồng. Quan điểm của anh không đồng ý bồi thường cho ông H, bà L
vì ông H, bà L là người gây sự đánh mẹ anh và sau đó đánh anh trước. Anh đánh
lại ông H chỉ là phản kháng, phòng vệ lại trong lúc không tỉnh táo vì đã bị ông H
đánh anh từ trước. Anh có yêu cầu phản tố đối với ông H, bà L và đề nghị: buộc
ông Hà Văn H và bà Vũ Thị L phải bồi thường cho anh tổng số tiền là:
76.140.000đồng, cụ thể: Khám bệnh tại Trung tâm Y tế huyện V (từ ngày
12/17/5/2024) số tiền 350.000đ; Thuê phương tiện: 500.000đ/02 lần; Chi phí ăn
ở, người chăm sóc: 1.250.000đ/05 ngày; Tiền mua thuốc: 3.680.000đ (không lấy
hóa đơn); Chi phí đi lại làm việc Công an huyện: 2.000.000đ/04 lần; Chi phí đi
giám định: 2.300.000đ (đã bổ sung vào hồ sơ); Thuê xe đi giám định:
1.000.000đ/ 02 lần; Chi phí thu nhập bị mất: 15.260.000đ/ 20 ngày
(763.000đ/ngày); Chi phí người chăm sóc: 3.000.000đ/20 ngày
(150.000đ/ngày); Tổn thất tinh thần: 46.800.000đ (20 lần lương cơ sở).
Với nội dung trên, tại Bản án dân sự sơ thẩm số: 26/2025/DS-ST ngày
30/5/2025 của Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Tường (nay là Tòa án nhân dân khu
vực 10 - Phú Thọ) đã quyết định:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Hà Văn H và bà Vũ Thị
L về việc yêu cầu bồi thường thiệt hại về sức khỏe, tinh thần. Buộc anh Đỗ Văn
T phải bồi thường cho ông H1 Văn Hóa số tiền: 19.300.000 đồng.
2. Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của anh Đỗ Văn T về việc yêu
cầu bồi thường thiệt hại về sức khỏe, tinh thần. Buộc ông Hà Văn H phải bồi
4
thường cho anh Đỗ Văn T số tiền 6.892.000đồng.
3. Sau khi đối trừ các khoản tiền phải bồi thường giữa ông H và anh T:
Buộc anh Đỗ Văn T phải bồi thường cho ông H1 Văn Hóa số tiền 12.408.000
đồng.
4. Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu của bà Vũ Thị L đối với việc yêu cầu
anh Đỗ Văn T phải bồi thường tổn hại tinh thần bằng 01 tháng lương cơ sở,
tương ứng 2.340.000 đồng.
Ngoài ra, bản án còn quyết định về quyền yêu cầu thi hành án, án phí và
quyền kháng cáo cho các đương sự theo quy định của pháp luật.
Ngày 11/6/2025, bị đơn anh Đỗ Văn T kháng cáo đề nghị cấp phúc thẩm
sửa bản án sơ thẩm theo hướng không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên
đơn, chấp nhận toàn bộ yêu cầu phản tố của anh.
Quá trình xét xử phúc thẩm và tại phiên tòa, nguyên đơn giữ nguyên yêu
cầu khởi kiện và bị đơn giữ nguyên nội dung yêu cầu phản tố và kháng cáo.
Tại phiên tòa, Kiểm sát viên Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Phú
Thọ phát biểu:
Về tố tụng: Tòa án phúc thẩm đã tiến hành thụ lý, thu thập chứng cứ,
quyết định đưa vụ án ra xét xử, chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát và tiến hành
giải quyết vụ án theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về nội dung: Căn cứ khoản 2 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự, chấp nhận
một phần kháng cáo của bị đơn, sửa bản án dân sự sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại
phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, ý kiến của Viện kiểm
sát. Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về thủ tục tố tụng: Đơn kháng cáo của bị đơn nằm trong thời hạn luật
định. Việc thụ lý kháng cáo đúng quy định của pháp luật nên được xem xét giải
quyết theo trình tự phúc thẩm.
[2]. Về quan hệ pháp luật: Ông Hà Văn H, bà Vũ Thị L khởi kiện, yêu cầu
Toà án giải quyết buộc bị đơn là anh Đỗ Văn T phải bồi thường thiệt hại do bị
xâm phạm về sức khỏe; bị đơn có yêu cầu phản tố đề nghị buộc ông H phải bồi
thường do bị xâm phạm sức khỏe nên quan hệ pháp luật là tranh chấp bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng theo quy định tại khoản 6 Điều 26 Bộ luật Tố
tụng dân sự.
[3]. Về nội dung vụ án: Khoảng 06 giờ 00 phút ngày 12/5/2024, tại cánh
đồng B thuộc thôn A, xã V, huyện V (nay là thôn A, xã V), bà Hà Thị L1 (mẹ
anh T) với vợ chồng bà Vũ Thị L và ông Hà Văn H do có mâu thuẫn về việc sử
dụng đất đai đã xảy ra cãi chửi nhau. Đến khoảng 07 giờ 00 phút ngày
12/5/2024, Đỗ Văn T (là con trai của bà L1) nghe thấy nội dung bà L1 cãi chửi
nhau với vợ chồng bà L nên anh T điều khiển xe mô tô đi ra cánh đồng Bãi Cộc
tìm bà Vũ Thị L để nói chuyện và xảy ra vụ xô xát, đánh nhau giữa anh T và vợ
5
chồng ông H, bà L. Trong quá trình xô xát, ông H dùng tay đấm nhiều phát
trúng vào mặt của T, còn T cũng dùng tay đấm liên tiếp nhiều phát trúng mặt,
mạn sườn trái của ông H. Hậu quả, anh T bị sưng nề, bầm tím, xuất huyết kết
mạc vùng mặt trái, có vết sây sát da kích thước 1 cm, rỉ máu, xuất huyết dưới da
kết mạc, vùng mũi hai bên có ít máu cục, tổn hại sức khỏe 01%. Ông H bị gãy
rạn cung trước xương sườn III, IV. V bên phải, vùng gò má hai bên sưng nề bầm
tím, đau vùng ngực, tổn hại sức khỏe 06%. Bà L bị tổn thương cơ thể thời điểm
hiện tại là 00% (theo kết quả giám định). Sau khi xét xử sơ thẩm, bị đơn anh Đỗ
Văn T kháng cáo.
[3.1]. Bị đơn kháng cáo đề nghị sửa bản án sơ thẩm theo hướng không
chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, chấp nhận toàn bộ yêu cầu phản
tố của anh với lý do: Ông H, bà L là người gây sự đánh mẹ anh và đánh anh
trước, anh đánh lại ông H chỉ là phản kháng, phòng vệ lại; ông H, bà L đã đi
nhiều bệnh viện để lấy hóa đơn trong khi ông H chỉ bị rịa xương; Cấp sơ thẩm
không chấp nhận chi phí giám định theo yêu cầu của Công an mà anh là người
phải trả; thời gian anh dưỡng bệnh mất 20 ngày nhưng không được chấp nhận
toàn bộ; tổn thất tinh thần cấp sơ thẩm chỉ chấp nhận cho anh 01 tháng lương là
không có cơ sở, không hợp lý vì ông H là người tấn công trước, có chủ đích mà
cấp sơ thẩm chấp nhận cho ông H 05 tháng lương.
[3.2]. Xét nội dung kháng cáo của anh Đỗ Văn T, cấp phúc thẩm thấy
rằng:
[3.2.1]. Về nguyên nhân xảy ra việc gây thương tích: Do bà Hà Thị L1
(mẹ anh T) với vợ chồng bà Vũ Thị L và ông Hà Văn H có mâu thuẫn về việc sử
dụng đất đai đã xảy ra cãi chửi nhau nên anh T là người tìm đến địa điểm để gặp
vợ chồng ông H và xảy ra cãi vã; ông H và vợ là bà L chặn đầu xe máy, rút chìa
khóa, ông H đánh anh T trước; sau đó anh T đã dùng tay chân đánh lại ông H.
Hậu quả là ông H tổn hại 06% sức khỏe, anh T tổn hại 01% sức khỏe. Hành vi vi
phạm của ông H, anh T đã bị Công an huyện V (cũ) ra quyết định xử phạt vi
phạm hành chính.
Như vậy, có việc ông H đánh anh T trước, sau đó anh T đã dùng tay chân
đánh lại ông H làm cả hai bị thương tích tại cánh đồng Bãi Cộc thuộc thôn A, xã
V, huyện V (nay là thôn A, xã V) vào khoảng 07 giờ 00 phút ngày 12/5/2024.
Hội đồng xét xử thấy việc ông H gây thương tích cho anh T, anh T gây thương
tích cho ông H là hành vi xâm phạm đến sức khỏe của cả hai và gây mất trật tự
tại nơi công cộng. Theo quy định tại Điều 33 Bộ luật Dân sự, thì sức khỏe của cá
nhân được pháp luật bảo vệ. Yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị
xâm phạm của ông H, anh T đều là có căn cứ.
[3.2.2]. Đối với yêu cầu của ông H đòi bồi thường 46.142.000đ: Cấp sơ
thẩm chấp nhận các khoản chi phí khám chữa bệnh, thuê phương tiện đi lại, tiền
bồi dưỡng sức khỏe, thu nhập bị mất, thu nhập người đi chăm sóc bị mất khi ông
H điều trị tại Bệnh viện Q, Trung tâm y tế huyện V và Bệnh viện H2, các khoản
chi phí đều là hợp lý, có hóa đơn chứng từ là có căn cứ cần chấp nhận, cụ thể:
6
Tại Bệnh viện Q (từ ngày 13/5/2024 đến 17/5/2024): Số tiền khám chữa
bệnh: 8.529.862đ, Hóa đơn thuốc: 513.804đ; thuê phương tiện 2 lượt:
1.000.000đ/02 lượt; Chi phí bồi dưỡng sức khỏe: 600.000đ/04 ngày (theo quy
định được hưởng bằng 01 ngày lương tối thiểu vùng là 190.000đ/04 ngày =
763.000đ); Thu nhập thực tế bị mất: 600.000đ/04 ngày; Thu nhập người chăm
sóc bị mất: 600.000đ/4 ngày (theo quy định được hưởng là bình quân thu nhập,
ông H, bà L trình bày thu nhập từ 200.000đ-250.000đ/ngày; UBND xã cung cấp
khoảng 203.000đ/ngày; theo lương tối thiểu vùng là 148.000đ/ngày).
Tại Trung tâm y tế huyện V (đợt 1 từ ngày 12/5/2024 đến ngày 13/5/2024
và từ ngày 17/5/2024 đến ngày 28/5/2024): Tiền khám chữa bệnh: BHYT chi trả
toàn bộ; Thuê phương tiện: 600.000đ/04 lượt; Bồi dưỡng sức khỏe:
1.950.000đ/13 ngày (150.000đ/ngày) (theo quy định được hưởng bằng 01 ngày
lương tối thiểu vùng là 148.400đ/13 ngày = 1.930.000đ); Thu nhập thực tế bị
mất: 1.950.000đ/13 ngày; Thu nhập thực tế bị mất người chăm sóc:
1.950.000đ/13 ngày;
Tại Bệnh viện H2 (ngày 29/5/2024): Tiền khám bệnh 1.207.000đ; thuê
phương tiện 1.000.000đ/02 lượt.
Về cầu bồi thường về tổn thất tinh thần, theo khoản 2 Điều 590 Bộ luật
Dân sự quy định: “2. Người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp sức
khoẻ của người khác bị xâm phạm phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại
khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà
người đó gánh chịu. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên
thoả thuận; nếu không thoả thuận được thì mức tối đa cho một người có sức
khỏe bị xâm phạm không quá năm mươi lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy
định”. Do ông H bị thương tích 06% (do gãy dạn xương sườn số 3, 4, 5) cấp sơ
thẩm chấp nhận bằng 5 tháng lương cơ sở, tương ứng 11.700.000đ là phù hợp.
Như vậy, ông H bị thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm là 32.262.000đ.
[3.2.3]. Đối với yêu cầu của anh T đòi bồi thường 76.140.000đ:
Khám bệnh tại Trung tâm y tế huyện V (từ ngày 12 đến 17/5/2024):
(BHYT đã chi trả 1.212.237đ), số tiền 303.059đ anh T đã chi trả; Thuê phương
tiện: 500.000đ/02 lần; Chi phí ăn ở, người chăm sóc: 1.250.000đ/05 ngày
(150.000đ/ngày), là những chi phí hợp lý và có hóa đơn nên cấp sơ thẩm chấp
nhận là có căn cứ;
Tiền mua thuốc: 3.680.000đ (không có hóa đơn), không có đơn thuốc chỉ
định của Bác sỹ; Chi phí đi lại làm việc Công an huyện: 2.000.000đ/04 lần; Chi
phí đi giám định: 2.300.000đ theo yêu cầu của Công an; Thuê xe đi giám định:
1.000.000đ/02 lần, đây là nghĩa vụ, trách nhiệm thực hiện của anh T trong quá
trình giải quyết tin báo nên các chi phí trên không được cấp sơ thẩm chấp nhận
toàn bộ, chỉ chấp nhận chi phí 2.000.000đ là có căn cứ.
Chi phí thu nhập bị mất: Anh T đề nghị số tiền 15.260.000đ/20 ngày
(763.000đ/ngày) và cung cấp bảng lương của Công ty TNHH Q1. Do anh T nằm
viện 05 ngày cấp sơ thẩm chấp nhận thu nhập bị mất trong thời gian nằm viện
7
05 ngày là có căn cứ; Theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 590 Bộ luật Dân
sự có quy đinh: “b) Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt
hại; nếu thu nhập thực tế của người bị thiệt hại không ổn định và không thể xác
định được thì áp dụng mức thu nhập trung bình của lao động cùng loại”; theo
quy định trên thì cần xác định phần thu nhập thực tế bị mất của anh T trước khi
anh bị thiệt hại về sức khỏe. Theo bảng lương thực tế anh T được hưởng tháng
4/2024 là 19.850.000đ/26 ngày nên cần được chấp nhận, kháng cáo về nội dung
này của anh T có căn cứ. Thu nhập thực tế anh T bị mất là 5 ngày x
19.850.000đ/26 ngày = 3.817.000đ (làm tròn).
Phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc: Anh T đề nghị
3.000.000đ/20 ngày (150.000đ/ngày). Cấp sơ thẩm xác định anh T chỉ bị thương
tích 01%, nằm viện 05 ngày, có thể chủ động tự chăm sóc bản thân khi nằm
viện, nên cần được chấp nhận một phần bằng 2 ngày x 150.000đ = 300.000đ là
có căn cứ.
Về cầu bồi thường về tổn thất tinh thần, theo quy định khoản 2 Điều 590
Bộ luật Dân sự và thương tích anh T bị thương tích là 01% về sức khỏe, cấp sơ
thẩm chấp nhận 01 tháng lương cơ sở, tương ứng ứng số tiền 2.340.000đ là có
căn cứ.
Như vậy, anh T bị thiệt hại do sức khỏe bị xâm phậm là 10.510.000 đồng
(làm tròn).
[3.2.4]. Về lỗi của các bên: Trước khi xảy ra hành vi gây thương tích giữa
ông H và anh T thì giữa hai bên đã xảy ra cãi chửi nhau, sau đó ông H và vợ là
bà L chặn đầu xe máy, rút chìa khóa, ông H đánh anh T trước và anh T là thanh
niên trẻ, khỏe đã dùng tay chân đánh lại ông H nên xác định mức độ lỗi của hai
bên là 50/50. Cấp sơ thẩm xác định thiệt hại do sức khỏe của ông H bị xâm
phạm với mức độ lỗi của anh T là 60%, thiệt hại do sức khỏe của anh T bị xâm
phạm với mức độ lỗi ông H là 80% là không có căn cứ, không được chấp nhận.
Như vậy, sau khi đối trừ thì anh T sẽ phải bồi thường thiệt hại do sức
khỏe bị xâm phạm cho ông H là 32.262.000đ/2 - 10.510.000đ/2 = 10.876.000đ.
[4]. Mặc dù bà L có hành vi đánh nhau nhưng không trực tiếp gây thương
tích cho anh T, chỉ tham gia vào việc ru đẩy sau khi ông H đã đánh anh T xong,
nên không phải liên đới bồi thường cùng ông H. Mặt khác, ông H, bà L là vợ
chồng, thỏa thuận việc nếu phải bồi thường thì ông H chịu trách nhiệm toàn bộ;
việc buộc ông H một mình bồi thường cho anh T không ảnh hưởng đến quyền
lợi của anh T.
[5]. Đối với yêu cầu khởi kiện của bà Vũ Thị L về việc yêu cầu anh T
phải bồi thường tổn thất tinh thần cho bà L: 2.340.000đ (01 tháng lương cơ sở).
Tại phiên tòa sơ thẩm, bà L rút yêu câu khởi kiện; các bên đương sự không có ý
kiến gì, nên cấp sơ thẩm đình chỉ xét xử đối với yêu cầu này là có căn cứ.
[6]. Về án phí:
8
Án phí sơ thẩm: Do chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên
đơn, chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của bị đơn và nguyên đơn là người
cao tuổi nên được miễn án phí dân sự sơ thẩm. Bị đơn anh Đỗ Văn T phải chịu
án phí dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu của ông H được chấp nhận và đối với yêu
cầu phản tố của anh T không được chấp nhận.
Tại cấp phúc thẩm, anh T có đơn xin miễn án phí nên anh T không phải
chịu án phí đối với yêu cầu phản tố không được chấp nhận. Đây là tình tiết mới
của vụ án nên cấp phúc thẩm sẽ sửa án sơ thẩm như phân tích nêu trên.
Án phí phúc thẩm: Kháng cáo của bị đơn có yêu cầu phản tố được chấp
nhận nên không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.
[7]. Từ những phân tích nhận định nêu trên, Hội đồng xét xử xét thấy
kháng cáo của bị đơn có yêu cầu phản tố anh Đỗ Văn T và đề nghị của đại diện
Viện kiểm sát tại phiên tòa là có căn cứ để chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 2 Điều 308, Điều 309 Bộ luật Tố tụng dân sự;
Chấp nhận một phần kháng cáo của bị đơn có yêu cầu phản tố anh Đỗ
Văn T.
Sửa Bản án dân sự sơ thẩm số 26/2025/DS-ST ngày 30/5/2025 của Tòa
án nhân dân huyện Vĩnh Tường (nay là Tòa án nhân dân khu vực 10 - Phú Thọ).
Căn cứ Điều 584, Điều 585, Điều 590, Điều 357 Bộ luật Dân sự; Điều
244, Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14
ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn,
giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Xử:
[1]. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Hà Văn H về việc
yêu cầu bồi thường thiệt hại về sức khỏe bị xâm phạm. Buộc anh Đỗ Văn T phải
bồi thường cho ông H1 Văn Hóa số tiền 16.131.000 đồng.
[2]. Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của anh Đỗ Văn T về việc yêu
cầu bồi thường thiệt hại về sức khỏe bị xâm phạm. Buộc ông Hà Văn H phải bồi
thường cho anh Đỗ Văn T số tiền 5.255.000 đồng.
[3]. Sau khi đối trừ các khoản tiền phải bồi thường giữa ông H và anh T:
Buộc anh Đỗ Văn T phải bồi thường cho ông H1 Văn Hóa số tiền 10.876.000đ.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án, cho
đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án
phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy
định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.
[4]. Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu của bà Vũ Thị L đối với việc yêu cầu
anh Đỗ Văn T phải bồi thường tổn hại tinh thần bằng 01 tháng lương cơ sở,
tương ứng 2.340.000 đồng.
9
[5]. Về án phí:
[5.1]. Án phí dân sự sơ thẩm: Miễn án phí sơ thẩm cho ông Hà Văn H.
Anh Đỗ Văn T phải chịu 806.000đ (làm tròn) án phí dân sự sơ thẩm.
[5.2]. Án phí phúc thẩm: Anh Đỗ Văn T không phải chịu, hoàn trả lại anh
T 300.000đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ
phí Tòa án số 0002507 ngày 11/6/2025 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện
Vĩnh Tường (nay là Phòng Thi hành án dân sự khu vực 10 - Phú Thọ).
[6]. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp Bản án, quyết định được thi hành án theo quy định tại Điều 2
của Luật Thi hành án dân sự và Luật sửa đổi một số điều của Luật Thi hành án
dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có
quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án
hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và Điều 9
của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy
định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Phú Thọ;
- TAND khu vự 10 - Phú Thọ;
- VKSND khu vự 10 - Phú Thọ;
- THADS tỉnh Phú Thọ;
- Các đương sự;
- Lưu: Hồ sơ, VP.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(đã ký)
Nguyễn Văn Nghĩa
10
11
12
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 19/11/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 27/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 23/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 23/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 18/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 17/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 17/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 16/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 15/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 12/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 09/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 08/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 03/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 03/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 28/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 27/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 22/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 20/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 14/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm