Bản án số 100/2023/HS-ST ngày 06/07/2023 của TAND TP. Long Khánh, tỉnh Đồng Nai về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng tội danh
- Tải về
-
Bản án số 100/2023/HS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Thuộc tính Bản án 100/2023/HS-ST
Tên Bản án: | Bản án số 100/2023/HS-ST ngày 06/07/2023 của TAND TP. Long Khánh, tỉnh Đồng Nai về tội tàng trữ trái phép chất ma túy |
---|---|
Tội danh: | 249.Tội tàng trữ trái phép chất ma túy (Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015) |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND TP. Long Khánh (TAND tỉnh Đồng Nai) |
Số hiệu: | 100/2023/HS-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 06/07/2023 |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ án: |
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LONG KHÁNH, TỈNH ĐỒNG NAI
BẢN ÁN 100/2023/HS-ST NGÀY 06/07/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 06 tháng 7 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Long Khánh, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm trực tuyến công khai vụ án hình sự thụ lý số: 107/2023/TLST-HS ngày 16 tháng 6 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 101/2023/QĐXXST-HS ngày 22 tháng 6 năm 2023 đối với bị cáo:
Võ Thành H, sinh ngày 22 tháng 5 năm 1971, tại Ninh Thuận. Nơi cư trú: khu phố 2, phường XT, thành phố K, tỉnh Đồng Nai; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 02/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Võ K, sinh năm 1945 và bà Nguyễn Thị X, sinh năm 1949. Bị cáo là con thứ 2 trong gia đình có 03 anh chị em. Vợ: Trịnh Xuân T, sinh năm 1974 (đã ly hôn); có 04 người con, lớn nhất sinh năm 1994, nhỏ nhất sinh năm 2006. Tiền án: Không. Tiền sự: Năm 2020, bị Tòa án nhân dân thành phố Long Khánh áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại Cơ sở điều trị nghiện ma túy tỉnh Đồng Nai, chấp hành xong ngày 03/5/2022. Nhân thân: Năm 2002 bị TAND tỉnh Đồng Nai xử phạt 05 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Chấp hành xong ngày 01/02/2005. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 17/02/2023, đến ngày 26/02/2023 được thay thế bằng biện pháp tạm giam cho đến nay tại nhà tạm giữ Công an thành phố Long Khánh. Có mặt tại phiên tòa.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:
1/ Ông Hoàng V, sinh năm 1978. Địa chỉ: Số A, đường Phạm Văn H, phường B, Quận TB, Thành phố Hồ Chí Minh. Vắng mặt.
2/ Ông Nguyễn Ngọc Hoà H, sinh năm 1975. Địa chỉ: Tổ A, khu phố B, phường XA, thành phố K, tỉnh Đồng Nai. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Võ Thành H là đối tượng sử dụng chất ma túy từ năm 2001. Vào ngày 15/02/2023, H lên Hàng Xanh thuộc quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh hỏi mua ma túy của một người đàn ông lạ mặt với số tiền 1.500.000đồng, được một bịch nilon chứa ma túy đá. Sau khi mua được ma túy, H mang về nhà tại số 200 Chu Văn An, khu phố 4, phường Xuân Trung, thành phố Long Khánh lấy ra một ít phân thành 05 phần chứa trong 05 đoạn ống hút hàn kín 02 đầu (mỗi đoạn ống hút hàn kín hai đầu bên trong chứa ma túy được gọi là một tép), còn lại bỏ trong bịch nilon và cất giấu dưới hộc giường, mục đích để sử dụng dần. Ngày 16/02/2023, H sử dụng hết 01 tép ma túy đá. Vào lúc 17 giờ 25 phút ngày 17/02/2023, khi H cùng với Nguyễn Ngọc Hòa Hiệp, sinh năm 1975, ngụ tại khu phố 2, phường Xuân An, thành phố Long Khánh, tỉnh Đồng Nai và Hoàng V, sinh năm 1978, ngụ ấp Bảo Định, xã Xuân Định, huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai đang ở trong phòng ngủ nhà H thì Công an phường Xuân Trung phối hợp với Công an thành phố Long Khánh tiến hành kiểm tra hành chính, phát hiện và thu giữ 01 nỏ thủy tinh để sử dụng ma túy ngay đầu phòng ngủ của H, Công an yêu cầu giao nộp ma túy nên H đã chỉ chỗ cất giấu ma túy của mình trong hộc thứ nhất dưới giường ngủ của H có 01 đoạn ống nhựa bên trong có 04 tép ma túy đá, 01 hộp thuốc lá Caraven bên trong có một bịch ma túy đá, 01 tép Heroin do bạn của H (không rõ lai lịch) cho và 01 cân tiểu ly. Công an thành phố Long Khánh đã tiến hành lập biên bản phạm tội quả tang, niêm phong tang vật theo quy định và đưa H về trụ sở làm việc.
Tại bản kết luận giám định số 349/KT-KTHS ngày 24/02/2023, Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai kết luận:
- Mẫu tinh thể màu trắng ký hiệu M1 được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng là 1,9202gam, loại Methamphetamine.
- Mẫu chất bột màu trắng ký hiệu M2 được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng 0,0236gam, loại Heroine.
Quá trình điều tra, bị cáo H đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình.
Tại bản cáo trạng số: 102/CT-VKSLK ngày 16/6/2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Long Khánh, truy tố bị cáo Võ Thành H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Tại phiên tòa hôm nay: Bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung Cáo trạng đã truy tố. Bị cáo Võ Thành H khai vào năm 2019, bị cáo có tham gia giúp Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Long Khánh bắt đối tượng tên “Tú” phạm tội “Giết người”, do vậy mong Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Long Khánh giữ quyền công tố tại phiên tòa, giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Xử phạt bị cáo Võ Thành H mức án từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù.
Vật chứng vụ án: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, đề nghị tịch thu tiêu hủy 01 gói niêm phong mẫu vật sau giám định số 349/KL-KTHS ngày 24/02/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai;
01 nỏ thủy tinh và 01 cân tiểu ly.
Đối với người bán ma túy cho bị cáo H, do không xác định được nhân thân, lai lịch nên không có cơ sở xử lý. Đối với Nguyễn Ngọc Hòa H và Hoàng V có mặt tại nhà của Võ Thành H vào thời điểm bắt quả tang nhưng không sử dụng chung ma túy với H, không tàng trữ ma túy nên không xem xét xử lý trách nhiệm hình sự.
Trước khi Hội đồng xét xử nghị án, bị cáo H nói lời sau cùng: Trong thời gian tạm giam, bị cáo đã nhận ra lỗi sai của mình, bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm trở về với cha mẹ già và làm lại cuộc đời.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về thủ tục tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Long Khánh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Long Khánh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định tại Bộ Luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định.
[2] Xét hành vi phạm tội của bị cáo: Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, kết luận giám định, vật chứng thu được, cùng tài liệu có trong hồ sơ vụ án, thể hiện:
Vào lúc 17 giờ 25 phút ngày 17/02/2023, tại số nhà 200 Chu Văn An, khu phố 4, phường Xuân Trung, thành phố Long Khánh, tỉnh Đồng Nai, Công an phường Xuân Trung phối hợp với Công an thành phố Long Khánh bắt quả tang Võ Thành H đang tàng trữ 1,9202gam ma túy loại Methamphetamine và 0,0236gam ma túy loại Heroin. Hai chất ma túy Methamphetamine và Heroin mà bị cáo Võ Thành H tàng trữ trái phép cùng được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Căn cứ Điều 4 Nghị định 19/2018/NĐ-CP ngày 02/02/2018 của Chính phủ quy định về việc tính tổng khối lượng hoặc thể tích chất ma túy tại một số điều của Bộ luật hình sự năm 2015 thì tổng khối lượng hai chất ma túy trên là 1,9202 gam + 0,0236gam = 1,9438gam. Do vậy, hành vi tàng trữ 1,9438gam ma túy của Võ Thành H với mục đích để sử dụng dần đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự nên Viện kiểm sát nhân dân thành phố Long Khánh truy tố Võ Thành H về tội danh và điều luật trên là có căn cứ, đúng pháp luật.
Đối với người bán ma túy cho bị cáo H, do không xác định được nhân thân, lai lịch nên không có cơ sở xử lý. Đối với Nguyễn Ngọc Hòa H và Hoàng V có mặt tại nhà của Võ Thành H vào thời điểm bắt quả tang nhưng không sử dụng chung ma túy với H, không tàng trữ ma túy nên không có cơ sở xử lý trách nhiệm hình sự. Qua kiểm tra Nguyễn Ngọc Hòa H và Hoàng V dương tính với ma túy đá nên việc Công an thành phố Long Khánh ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với H và V, là phù hợp.
[3] Xét hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy. Tính chất của vụ án là nghiêm trọng. Ma túy là chất gây nghiện vô cùng nguy hiểm, không chỉ làm suy kiệt sức lao động; làm hạn chế hoặc mất đi khả năng điều khiển hành vi của người sử dụng, mà còn là nguyên nhân nảy sinh nhiều hành vi phạm tội khác. Do đó, cần có mức hình phạt đủ nghiêm, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo, đồng thời có tác dụng chung trong việc đấu tranh và phòng ngừa tội phạm.
[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với bị cáo: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.
Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo và tỏ ra ăn năn hối cải về hành của bản thân; khi Công an vào kiểm tra hành chính và yêu cầu giao nộp ma túy thì bị cáo là người khai ra chỗ cất giấu toàn bộ số ma túy, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự nên cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo để đảm bảo tính khoan hồng của pháp luật.
Tại phiên tòa bị cáo Võ Thành H khai vào năm 2019 bị cáo từng hỗ trợ Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Long Khánh bắt một đối tượng “Giết người”, tuy nhiên bị cáo không cung cấp được bất kỳ giấy tờ nào xác nhận sự việc trên nên không có cơ sở xem xét.
Hội đồng xét xử không phạt tiền bổ sung đối với bị cáo.
[5] Về xử lý vật chứng: Cần tịch thu tiêu hủy đối với số ma túy còn lại sau giám định; 01 nỏ thủy tinh dùng để sử dụng ma túy và 01 cân tiểu ly.
[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
[7] Xét ý kiến luận tội của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa về phần tội danh, điều khoản truy tố, hình phạt, xử lý vật chứng là có căn cứ và phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
1/ Căn cứ điểm i khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Tuyên bố: Bị cáo Võ Thành H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Xử phạt bị cáo Võ Thành H 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 17/02/2023.
2/ Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Tịch thu tiêu hủy 01 gói niêm phong mẫu vật sau giám định số 349/KL-KTHS ngày 24/02/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai;
01 nỏ thủy tinh sử dụng ma túy và 01 cân tiểu ly.
(Vật chứng do Chi cục thi hành án dân sự thành phố Long Khánh đang quản lý theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 19/6/2023).
3/ Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 về án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Võ Thành H phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
4/ Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa, được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày được tống đạt hợp lệ bản án.
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!