Bản án số 10/2025/DS-ST ngày 08/07/2025 của Tòa án nhân dân khu vực 11 - An Giang, tỉnh An Giang về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 10/2025/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 10/2025/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 10/2025/DS-ST
Tên Bản án: | Bản án số 10/2025/DS-ST ngày 08/07/2025 của Tòa án nhân dân khu vực 11 - An Giang, tỉnh An Giang về tranh chấp hợp đồng vay tài sản |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng vay tài sản |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | Tòa án nhân dân khu vực 11 - An Giang, tỉnh An Giang |
Số hiệu: | 10/2025/DS-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 08/07/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Ông N yêu cầu bà T phải trả lại cho Ông N hụi gốc |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
KHU VỰC 11, TỈNH AN GIANG
Bản án số: 10/2025/DS-ST
Ngày 08-7-2025
V/v tranh chấp hợp đồng
vay tài sản, hụi
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN KHU VỰC 11, TỈNH AN GIANG
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm, gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: ông Nguyễn Tâm Nhân.
Các Hội thẩm nhân dân: ông Trần Thanh Sang;
ông Nguyễn Thanh Liêm.
- Thư ký phiên tòa: ông Hồ Nhựt Huy - Thư ký Tòa án nhân dân khu vực
11, tỉnh An Giang.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân khu vực 11, tỉnh An Giang tham gia
phiên tòa: bà Nguyễn Thị Kiều Tiên - Kiểm sát viên.
Ngày 08 tháng 7 năm 2025 tại trụ sở Tòa án nhân dân khu vực 11, tỉnh An
Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 1473/2024/TLST-DS ngày 19
tháng 12 năm 2024 về tranh chấp “hợp đồng vay tài sản, hụi” theo quyết định
đưa vụ án ra xét xử số: 310/2025/QĐXXST-DS ngày 19 tháng 5 năm 2025, giữa
các đương sự:
- Nguyên đơn: ông Nguyễn Văn N, sinh năm 1970; nơi cư trú: số nhà 248,
ấp H, xã T (xã N, huyện A cũ), tỉnh An Giang.
- Bị đơn: bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1971; nơi cư trú: ấp A, xã H (xã H
cũ), tỉnh An Giang.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
Bà Nguyễn Thúy A, sinh năm 1991; nơi cư trú: ấp A, xã H (xã Hòa Bình
cũ), tỉnh An Giang. Địa chỉ khác: tổ 11, ấp A, xã H (xã H cũ), tỉnh An Giang.
Ông Phạm Thiện K, sinh ngày 14/7/1987; nơi cư trú: ấp X, xã T (huyện
A, tỉnh K cũ), tỉnh An Giang.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện ngày 03/4/2024, ngày 12/11/2024, lời khai trong quá
trình giải quyết vụ án, nguyên đơn ông Nguyễn Văn N trình bày,
Ông N tham gia hụi do bà Nguyễn Thị T tổ chức làm chủ hụi của nhiều
dây hụi, cụ thể: Ông N tham gia 01 phần hụi góp trong dây hụi tháng 5.000.000
2
đồng, có 18 phần hụi, mở ngày 10/10/2022 âm lịch. Ông N đã góp hụi sống 12
kỳ được 44.740.000 đồng; Ông N mua 02 phần hụi trong dây hụi tháng
5.000.000 đồng, có 29 phần hụi, mở ngày 20/7/2022 âm lịch theo đề nghị của bà
T, cụ thể như sau: tại kỳ mở hụi đầu tiên, Ông N xuất tiền mặt 104.000.000
đồng, giao cho bà T để mua phần hụi thứ nhất. Theo thỏa thuận, mỗi kỳ mở hụi,
thành viên nào hốt hụi thì phần tiền bia hụi của thành viên đó sẽ được bà T giao
cho Ông N hưởng. Tiếp theo, tại kỳ mở hụi thứ hai, Ông N xuất tiền mặt
102.000.000 đồng, giao cho bà T để mua phần hụi thứ hai. Tổng số tiền hụi của
02 phần mà Ông N đã mua của bà T là 206.000.000 đồng. Tuy nhiên, các dây
hụi này chưa kết thúc thì bà T tuyên bố bể hụi, ngừng góp hụi và bỏ trốn. Bên
cạnh đó, bà T trực tiếp hỏi vay tiền của Ông N 05 lần, cụ thể:
Lần thứ nhất, ngày 09/12/2022 âm lịch, Ông N giao trực tiếp cho bà T
nhận tiền vay là 50.000.000 đồng tại quán cà phê ở ấp Kinh A (huyện Tân Hiệp,
tỉnh Kiên Giang cũ).
Lần thứ hai, ngày 22/5/2023 âm lịch, Ông N giao trực tiếp cho bà T nhận
tiền vay 130.000.000 đồng cũng quán cà phê ở ấp Kinh Na (huyện Tân Hiệp,
tỉnh Kiên Giang cũ).
Lần thứ ba, ngày 11/9/2023 dương lịch, Ông N chuyển khoản qua ngân
hàng cho bà T nhận tiền vay 25.000.000 đồng thông qua tài khoản của “Pham
Thien Khiem” được Ông N nhờ chuyển dịch vụ đến tài khoản của “Nguyen
Thuy An” theo yêu cầu của bà T do bà T không có tài khoản và cung cấp tài
khoản của “Nguyen Thuy An” cho Ông N.
Lần thứ tư, ngày 14/9/2023 dương lịch, Ông N chuyển khoản qua Ngân
hàng cho bà T nhận tiền vay 26.000.000 đồng, tương tự cách thức chuyển tiền
được thực hiện như ngày 11/9/2023 dương lịch.
Lần thứ năm, ngày 29/9/2023 dương lịch, Ông N chuyển khoản qua Ngân
hàng cho bà T nhận tiền vay 20.000.000, thông qua tài khoản Ngân hàng Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn do Ông N chuyển đến tài khoản của “Nguyen
Thuy An” theo yêu cầu của bà T.
Việc cho vay các khoản tiền trên đều có lãi, không xác định thời hạn trả
lại gốc. Quá trình vay tiền, bà T có trả lãi cho Ông N bằng hình thức: 01 lần trực
tiếp trả lãi cho Ông N được 5.000.000 đồng của gốc 50.000.000 đồng; 02 lần
chuyển khoản trả lãi cho Ông N thông qua tài khoản chuyển là “Nguyen Thuy
An” đến tài khoản nhận là Ông N về số tiền 5.350.000 đồng được trả lãi của gốc
50.000.000 đồng, số tiền 8.550.000 đồng được trả lãi của tổng số gốc
180.000.000 đồng.
Vì vậy, Ông N yêu cầu bà T phải trả lại cho Ông N hụi gốc: 250.640.000
đồng và vay gốc: 251.000.000 đồng.
Theo lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan Ông Phạm Thiện K trình bày, ngày 11/9/2023 Ông N có đưa tiền
3
mặt cho ông K chuyển khoản giùm 25.000.000 đồng; ngày 14/9/2023, Ông N
tiếp tục đưa tiền mặt cho ông K chuyển khoản giùm 26.000.000 đồng.
Theo lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan Bà Nguyễn Thúy A trình bày, bà A làm dịch vụ chuyển tiền qua
ngân hàng theo yêu cầu. Theo đó, bà T có liên hệ bà A để lấy số tài khoản ngân
hàng của bà A gửi cho người chuyển tiền mà không biết là ai. Sau khi bà A nhận
được số tiền - không nhớ cụ thể đã chuyển qua tài khoản của bà A thì bà T nhận
hết số tiền chuyển khoản do bà A giao tiền mặt trực tiếp và trả tiền phí dịch vụ
cho bà A.
Ý kiến của Ông N tại phiên tòa: trong đơn khởi kiện, Ông N chưa trừ lại
số tiền 10.000.000 đồng mà bà T đã trả; Ông N rút lại phần khởi kiện bà T về
yêu cầu trả lại cho Ông N số tiền vay 190.000.000 đồng, các phần khởi kiện còn
lại thì Ông N đều giữ nguyên.
Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân khu vực 11, tỉnh An Giang:
Thẩm phán được phân công thụ lý giải quyết vụ án đã thực hiện đúng, đầy
đủ quy định tại Điều 195, 196, 197, 198 và Điều 203 Bộ luật tố tụng dân sự; Hội
đồng xét xử vụ án, Thư ký phiên tòa đã tuân theo đúng các quy định của Bộ luật
tố tụng dân sự về phiên tòa sơ thẩm, bảo đảm các trình tự, thủ tục và quyền tranh
tụng tại phiên tòa.
Ý kiến về việc giải quyết vụ án: đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 217,
244 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 463, 466, 471 Bộ luật Dân sự; công nhận hợp
đồng hụi, vay giữa Ông N và bà T; Chấp nhận khởi kiện của Ông N, buộc bà T
trả lại cho Ông N, số tiền hụi 250.640.000 đồng và số tiền vay 61.000.000 đồng;
Đình chỉ khởi kiện của Ông N về yêu cầu bà T trả lại số tiền 190.000.000 đồng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh
tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử phân tích, đánh giá và nhận định như sau:
[1] Ông N có đơn khởi kiện về yêu cầu trả lại tiền vay, hụi. Bà T có địa
chỉ cư trú xã H (xã H cũ), tỉnh An Giang. Do đó, quan hệ pháp luật của vụ án là
tranh chấp “hợp đồng vay tài sản, hụi” thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án
nhân dân huyện Chợ Mới; Tại phiên tòa, Ông N có mặt, bà A đề nghị Tòa án xét
xử vắng mặt; Bà T, ông K đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vắng
mặt tại phiên tòa không có lý do. Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án theo quy
định Điều 26, Điều 35, Điều 39, Điều 227, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Tại phiên tòa, Ông N rút lại một phần khởi kiện bà T về yêu cầu trả lại
cho Ông N số tiền vay 10.000.000 đồng, số tiền vay 50.000.000 đồng ngày
09/12/2022 âm lịch, 130.000.000 đồng ngày 22/5/2023 âm lịch theo đơn khởi
kiện ban đầu. Theo quy định tại Điều 5, Điều 244 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án
chấp nhận và đình chỉ xét xử đối với yêu cầu giải quyết về số tiền vay
190.000.000 đồng; Các đương sự có quyền thỏa thuận, khởi kiện, yêu cầu giải
4
quyết lại đối với phần yêu cầu đã rút bằng vụ án khác theo quy định của pháp
luật. Ngoài ra, tại phiên tòa đương sự không yêu cầu gì khác.
[3] Ông N cho rằng Ông N có tham gia hụi do bà T làm chủ hụi, trong đó
Ông N tham gia 01 phần hụi góp trong dây hụi 5.000.000 đồng, có 18 phần hụi,
mở hụi ngày 10/10/2022 âm lịch và 02 phần hụi mua của bà T trong dây hụi
5.000.000 đồng, có 29 phần, mở hụi ngày 20/7/2022 âm lịch. Tổng số tiền hụi
đã góp sống, giao tiền mua hụi cho bà T là 250.640.000 đồng nhưng bà T ngừng
góp hụi và bỏ trốn. Ngoài ra, bà T có vay tiền của Ông N tổng số tiền
61.000.000 đồng theo hình thức chuyển khoản qua ngân hàng nên Ông N yêu
cầu bà T trả lại tổng số tiền vay, hụi 311.640.000 đồng. Quá trình giải quyết vụ
án, Tòa án đã thực hiện thủ tục tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng bà T
không có văn bản ý kiến, vắng mặt không có lý do xem như bà T bỏ mặc việc
tham gia tố tụng tại Tòa án cấp sơ thẩm theo khởi kiện của Ông N. Tòa án xem
xét, giải quyết vụ việc dựa vào các tình tiết, sự kiện, tài liệu, chứng cứ do Ông N
đưa ra theo quy định khoản 2 Điều 92 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[4] Theo lời khai của Ông N, các tài liệu, chứng cứ do Ông N giao nộp và
do Tòa án thu thập thì thấy, tại lời khai của bà Chọn xác định: “…bà Chọn có
tham gia hụi do bà T làm chủ hụi của dây hụi 5.000.000 đồng, có 18 phần hụi,
mở hụi ngày 10/10/2022 âm lịch; dây hụi 5.000.000 đồng, có 29 phần hụi, mở
hụi ngày 20/7/2022 âm lịch. Trong đó, Ông N có tham gia 01 phần, đến lần góp
hụi sống thứ 12 và mua 02 phần hụi thì bà T đình hụi…”. Ngoài ra, tại các tờ sổ
hụi ngày 10/10/2022 âm lịch, ngày 20/7/2022 âm lịch do bà C cung cấp có ghi
nội dung: “chủ hụi: Nguyễn Thị T” có tên Ông N lần lượt tại vị trí thứ 15, 16,
26, 27. Mặt khác, tại văn bản số 237/CV-CAX ngày 30/12/2023 của Công an xã
Hòa Bình trả lời theo đơn trình báo của Ông N, văn bản xác định: “Qua xác
minh, được biết sự việc mua hụi và tham gia hụi của Ông N là thực tế giữa hai
bên có thỏa thuận… vào tháng 8 năm 2023, bà T tuyên bố bể hụi… Công an xã
Hòa Bình nhận thấy việc tham gia hụi, mượn nợ của Ông N với bà T là có
thật…”.
[5] Như vậy, bà T đã nhận của Ông N về số tiền hụi là có thật. Tòa án xác
định Ông N có tham gia hụi, mua hụi do bà T tổ chức các dây hụi và trực tiếp
nhận tiền hụi. Các bên đã xác lập quan hệ hụi có nội dung và hình thức không vi
phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội nên làm phát sinh quyền,
nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng. Theo đó, Ông N đã góp hụi sống được
44.740.000 đồng của dây hụi ngày 10/10/2022 âm lịch, giao số tiền mua hụi
206.000.000 đồng của dây hụi ngày 20/7/2022 âm lịch. Trong thời gian các dây
hụi đang thực hiện thì bà T ngừng góp hụi, cố tình lánh mặt đến khi kết thúc các
dây hụi mà không trả lại cho Ông N số tiền hụi đã nhận là không thực hiện đúng
nghĩa vụ khi Ông N yêu cầu. Ông N yêu cầu bà T trả lại tổng số tiền hụi là có
căn cứ. Theo quy định Điều 471 Bộ luật Dân sự; Điều 18 Nghị định số
19/2009/NĐ-CP ngày 19/02/2019 của Chính phủ về hụi, họ, biêu, phường, Tòa
án chấp nhận khởi kiện của Ông N về yêu cầu bà T trả lại tổng số tiền hụi gốc
250.640.000 đồng.
5
[6] Bên cạnh đó, theo lời khai của Ông N, các tài liệu, chứng cứ do Ông N
giao nộp, lời khai của bà A, ông K và do Tòa án thu thập thì thấy tại lời khai của
bà A xác định: “…bà T có nhờ bà A nhận hộ chuyển khoản và đã giao các
khoản tiền mặt chuyển khoản cho bà T nhận”; lời khai ông K xác định: “…có
chuyển khoản giùm cho Ông N vào tài khoản ngân hàng của bà A…”. Ngoài ra,
theo các chứng từ sao kê ngân hàng thể hiện, Ông N đã chuyển cho bà T vay
tổng số tiền 71.000.000 đồng thông qua tài khoản của ông K, bà A và Ông N.
[7] Như vậy, bà T đã nhận của Ông N về số tiền vay là có thật. Tòa án xác
định Ông N và bà T đã xác lập hợp đồng vay tiền, có nội dung và hình thức
không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội nên làm phát sinh
quyền, nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng. Theo đó, Ông N giao cho bà T
nhận nhưng bà T không trả lại cho Ông N toàn bộ số tiền vay đã nhận là không
thực hiện đúng nghĩa vụ khi Ông N yêu cầu. Ông N yêu cầu bà T trả lại tổng số
tiền vay là có căn cứ. Theo quy định Điều 463, Điều 466, Điều 468 Bộ luật Dân
sự, Tòa án chấp nhận khởi kiện của Ông N về yêu cầu bà T trả lại tổng số tiền
vay gốc 61.000.000 đồng.
[8] Về án phí sơ thẩm: Tòa án chấp nhận phần khởi kiện của Ông N nên
bà T phải chịu án phí sơ thẩm đối với yêu cầu có giá ngạch theo quy định tại
khoản 1 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 24, Điều 26 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ Điều 5, Điều 26, Điều 35, Điều 39, Điều 92, Điều 147, Điều 244,
Điều 227, Điều 228, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ Điều 463, Điều 466, Điều 468, Điều 471 Bộ luật Dân sự;
Căn cứ Điều 24, Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-
12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội;
Căn cứ Điều 18 Nghị định số 19/2009/NĐ-CP ngày 19/02/2019 của
Chính phủ về hụi, họ, biêu, phường.
1. Chấp nhận khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Văn N về yêu cầu trả
tiền vay, hụi. Buộc bà Nguyễn Thị T phải trả lại cho Ông N tổng số tiền hụi gốc:
250.640.000 đồng và tổng số tiền vay gốc: 61.000.000 đồng.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối
với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án
xong, tất cả các khoản tiền, hằng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản
tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2
Điều 468 Bộ luật Dân sự.
2. Đình chỉ xét xử phần khởi kiện của Ông N về yêu cầu bà T trả lại số
tiền vay 190.000.000 đồng.
6
3. Về án phí sơ thẩm: Ông N được nhận lại tạm ứng án phí 12.033.000
đồng đã nộp theo biên lai số 0023844 ngày 19 tháng 12 năm 2024 của Chi cục
Thi hành án dân sự huyện Chợ Mới.
Bà T phải chịu án phí 15.582.000 đồng.
4. Đương sự có mặt tại phiên tòa, có quyền kháng cáo đối với bản án
trong thời hạn 15 ngày được tính từ ngày tuyên án. Riêng các đương sự vắng
mặt tại phiên tòa, thời hạn kháng cáo 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án
hoặc ngày bản án được niêm yết.
5. Bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án
dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có
quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án
hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành
án dân sự; thời hiệu yêu cầu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều
30 Luật thi hành án dân sự.
Nơi nhận:
- Đương sự;
- Tòa án nhân dân tỉnh An Giang;
- Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp;
- Phòng thi hành án dân sự cùng cấp;
- Lưu: văn thư, hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nguyễn Tâm Nhân
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 18/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 18/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 14/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 13/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 12/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 12/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 11/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 11/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 11/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 07/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 07/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 07/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 06/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Bản án số 865/2025/DS-PT ngày 05/08/2025 của TAND TP. Hồ Chí Minh về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Ban hành: 05/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 05/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 04/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 04/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 01/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 31/07/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 31/07/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm