Bản án số 10/2022/HS-ST ngày 25/01/2022 của TAND huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam về tội trộm cắp tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng tội danh
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 10/2022/HS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 10/2022/HS-ST
| Tên Bản án: | Bản án số 10/2022/HS-ST ngày 25/01/2022 của TAND huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam về tội trộm cắp tài sản |
|---|---|
| Tội danh: | 138.Tội trộm cắp tài sản (Bộ luật hình sự năm 1999) |
| Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
| Tòa án xét xử: | TAND huyện Đông Giang (TAND tỉnh Quảng Nam) |
| Số hiệu: | 10/2022/HS-ST |
| Loại văn bản: | Bản án |
| Ngày ban hành: | 25/01/2022 |
| Lĩnh vực: | Hình sự |
| Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Thông tin về vụ án: |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
1
TÒA ÁNNHÂN DÂN
HUYỆN Đ
TỈNH QUẢNG NAM
***
Bản án số: 10/2022/HS-ST
Ngày 25/01/2022
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
–––––––––––––––––––
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Đ
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thm phán - Ch ta phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Ái Linh
Các Hi thm nhân dân:
- Ông Đỗ Minh Vương
- Ông Nguyễn Công Hiền
: Bà Lê Thị Nguyệt Sương
i din Vin kim sát nhân dân huyn thc hành quyn công t ti phiên tòa:
Ông Huỳnủngung Thu - Kiểm sát viên.
Trong ngày 25 tháng 01 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Quảng
Nam xét xử sơ thẩm công khai
vụ án hình sự sơ thẩm
thụ lý số: 66/2021/TLST-HS ngày 10
tháng 12 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 07/2022/QĐXXST-HS ngày 11
tháng 01 năm 2022 đối với các bị cáo:
1. Họ và tên: Trần Minh T, tên gọi khác: B, sinh ngày 08/12/1993 tại huyện Đ, tỉnh
Quảng Nam; nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: thôn A, xã Q, huyện Đ, tỉnh Quảng Nam,
nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: kinh ; giới tính: nam; tôn giáo:
không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần D (chết) và bà Trần Thị Kim H (sinh năm
1970); gia đình có 03 chị em, bị cáo là con thứ 2, chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: không;
nhân thân: ngày 5/8/2011, bị TAND huyện Đ xử phạt 06 tháng tù về tội trộm cắp tài sản
(chấp hành xong hình phạt), ngày 11/10/2017, bị Công an thị trấn A, huyện Đ xử phạt vi
phạm hành chính tổng số tiền 2.250.000 đồng về hành vi “Trộm cắp tài sản” và “Sử dụng
trái phép chất ma túy”; bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 15/10/2021, hiện đang bị tạm
giam tại Nhà Tạm giữ Công an huyện Đ, có mt ti phiên tòa.
2. Họ và tên: Nguyễn Văn Th, sinh ngày 28/02/1990 tại huyện Đ, tỉnh Quảng Nam;
nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: thôn L, xã N, huyện Đ, tỉnh Quảng Nam, nghề nghiệp:
lao động phổ thông; trình độ văn hóa: 10/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo:
không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Đ (sinh năm 1965) và bà Đỗ Thị Ng
(sinh năm 1966); gia đình có 03 chị em, bị cáo là con thứ 2, chưa có vợ con; tiền sự:
chưa; tiền án: Ngày 20/8/2019, bị TAND huyện X, tỉnh Quảng Nam xử phạt 09 tháng tù
về tội “Trộm cắp tài sản”; ngày 12/11/2019, bị TAND huyện V, thành phố Đà Nẵng xử
phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; tổng hợp hình phạt của 02 bản án đối với
Nguyễn Văn Th là 21 tháng tù. Chấp hành xong hình phạt ngày 16/02/2021; bị cáo bị bắt
tạm giam từ ngày 20/9/2021, hiện đang bị tạm giam tại Nhà Tạm giữ Công an huyện Đ,
có mt ti phiên tòa.
2
3. Họ và tên: Trần Văn Tr, sinh ngày 27/6/1993 tại huyện Đ, tỉnh Quảng Nam; nơi
ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Khu N, thị trấn A, huyện Đ, tỉnh Quảng Nam; nghề
nghiệp: nông; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: kinh ; giới tính: nam; tôn giáo: không;
quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần U (sinh năm 1969) và bà Ngô Thị Ph (sinh năm
1970), gia đình có 02 anh em, bị cáo là con đầu; vợ: Lê Thu H (sinh năm 1996, hiện làm
công nhân và trú tại Khu N, thị trấn A, huyện Đ, tỉnh Quảng Nam), bị cáo có 02 con sinh
năm 2016 và 2018; tiền án, tiền sự: chưa; bị bắt tạm giam từ ngày 24/9/2021, hiện đang
bị tạm giam tại Nhà tạm giữ công an huyện Đ, có mt ti phiên tòa.
- Bị hại:
1. Anh Võ Ngọc T, sinh năm 1995
HKTT: thôn D, xã TD, B, tỉnh Quảng Nam
Chổ ở hiện nay: thôn TA, xã L, huyện Đ, tỉnh Quảng Nam
2. Chị Trần Nguyễn Thị T Minh, sinh năm 1997
HKTT: thôn A1, xã H, huyện Đ, tỉnh Quảng Nam
Chổ ở hiện nay: thôn TA, xã L, huyện Đ, tỉnh Quảng Nam
3. Bà Nguyễn Thị Thu T, sinh năm 1974
Trú tại: thôn A2, xã N, huyện Đ, tỉnh Quảng Nam
4. Bà Nguyễn Thị Thúy Ph, sinh năm 1965
Trú tại: khu S, thị trấn A, huyện Đ, tỉnh Quảng Nam
5. Ông Lê Văn B, sinh năm 1968
Trú tại: thôn Phú Xuân, xã Đại Thắng, huyện Đ, tỉnh Quảng Nam
Anh Tn có mt, ch ng mt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Chị Lê Thu H, sinh năm 1996
Trú tại: Khu N, thị trấn A, huyện Đ, tỉnh Quảng Nam
2. Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1974
Trú tại: thôn V, xã C, huyện Đ, tỉnh Quảng Nam
3. Chị Đặng Thị D, sinh năm 1991
Trú tại: thôn PT, xã H, huyện Đ, tỉnh Quảng Nam
4. Ông Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1968
Trú tại: thôn L1, xã N, huyện Đ, tỉnh Quảng Nam
5. Anh Trần Minh Qu, sinh ngày 19/5/2002
Trú tại: thôn A, xã Q, huyện Đ, tỉnh Quảng Nam
- Người làm chứng: Ông Nguyễn X, sinh năm 1964
Trú tại: thôn A, xã Q, huyện Đ, tỉnh Quảng Nam
Ch H có mt, bà Tuyt, ch Dim, anh Quc và ông Xí vng mt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án
được tóm tắt như sau:
Trong thời gian từ ngày 23/7/2021 đến ngày 31/7/2021, Trần Minh T đã có 01 lần
cùng với Nguyễn Văn Th và 01 lần cùng với Trần Văn Tr thực hiện hành vi trộm cắp tài
sản trên địa bàn huyện Đ để bán lấy tiền tiêu xài, cụ thể như sau:
t: Khoảng 11 giờ ngày 23/7/2021, Nguyễn Văn Th điều khiển xe mô tô
biển số 92E1-599.61 thuộc sở hữu của cha ruột là ông Nguyễn Văn Đ đi từ nhà của Th
3
đến nhà Trần Minh T tại thôn A, xã Q chơi. Trong lúc nói chuyện, Th rủ T đi trộm cắp
tài sản thì T đồng ý. T điều khiển xe mô tô 92E1-599.61 chở Th đến xã L để tìm nơi
trộm cắp tài sản. Khi đến trước cửa hàng cơ khí, quảng cáo Tấn Phát Đạt tại thôn TA, xã
L do vợ chồng anh Võ Ngọc T và chị Trần Nguyễn Thị T Minh làm chủ sở hữu, thấy cửa
hàng không có người trông coi nên T dừng xe lại, bảo Th quay đầu xe. Th ngồi sẵn trên
xe cảnh giới, còn T đi vào bên trong cửa hàng lấy 05 cuộn dây dẫn điện và 20 mét dẫn
dây điện (tt c dng) rồi mang ra xe. Th điều khiển xe chở T cùng số
tài sản trên đi tìm nơi tiêu thụ. Khi đến cửa hàng điện nước Anh Tr tại thôn PT, xã H do
chị Đặng Thị D làm chủ sở hữu, Th đứng ngoài còn T mang số dây dẫn điện trên vào
bán cho chị Diễm với giá 1.700.000 đồng rồi chia đôi số tiền này để tiêu xài. Chị Diễm
sau khi mua số tài sản trên đã bán lẻ hết lại cho nhiều người khác nhau.
Tại bản kết luận định giá tài sản số 32/KL-HĐĐGTS ngày 26/8/2021 của Hội đồng
định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Đ đã xác định 05 cuộn dây dẫn điện và 20
mét dây dẫn điện có tổng giá trị là 2.616.000 đồng (BL 81a).
V th hai: Vào khoảng 10 giờ ngày 30/7/2021, Trần Văn Tr đến nhà Trần Minh T
chơi. Trong lúc nói chuyện, Tr rủ T đi trộm cắp tài sản thì T đồng ý. T điều kiển xe mô
tô 92E1-019.77 thuộc sở hữu của em trai mình là Trần Minh Qu chở Tr đi tìm nơi trộm
cắp tài sản. Khi đến đại lý phân Huy Hoàng tại khu Song Mỹ, thị trấn A, huyện Đ do bà
Nguyễn Thị Thúy Ph làm chủ sở hữu, phát hiện cửa hàng không có người trông coi nên T
dừng xe và cảnh giới còn Tr đi vào trong cửa hàng lấy 01 bao phân bón TE ba màu, có
trọng lượng 50 kg mang ra xe. Sau đó, T điều khiển xe chở Tr và bao phân bón đi tìm
nơi tiêu thụ. Khi đến thôn Thanh Vân, xã Đại Cường, huyện Đ thì gặp bà Nguyễn Thị T
đang làm việc trước nhà, Tr vào gặp bà Tuyết và nói “Nhà mua phân v
n tin nên bán”, bà Tuyết đồng ý mua với số tiền 400.000 đồng. Sau đó, Tr
cùng với T tiếp tục điều khiển xe đến đại lý phân bón Bảy Lộc tại thôn Phú Xuân, xã Đại
Thắng, huyện Đ thuộc sở hữu của ông của ông Lê Văn B. Phát hiện cửa hàng không có
người trông coi nên T dừng xe đứng chờ, còn Tr đi vào lần lượt vác 02 bao phân bón
(gồm 01 bao phân URE, trọng lượng 50 kg và 01 bao phân KALY, trọng lượng 50kg)
mang ra xe. T điều khiển xe chở hai bao phân bón cùng Tr tiếp tục đến bán cho bà Tuyết
được số tiền 700.000 đồng. Tr và T chia nhau số tiền 1.100.000 đồng tiêu xài cá nhân.
Bà Tuyết sau khi mua 03 bao phân bón trên đã bán lẻ hết lại cho nhiều người khác nhau.
Tại bản kết luận định giá tài sản số 37/KL-HĐĐGTS ngày 15/10/2021 của Hội đồng
định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Đ đã kết luận 01 bao phân bón NPK 20-20-
15 TE ba màu, trọng lượng 50kg có giá trị là 700.000 đồng (BL 81).
Tại bản kết luận định giá tài sản số 38/KL-HĐĐGTS ngày 15/10/2021 của Hội đồng
định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Đ đã xác định 01 bao phân bón Ure xanh –
Phú Mỹ, trọng lượng 50kg có giá trị là 750.000 đồng; 01 bao phân bón Kaly, trọng lượng
50kg có giá trị là 550.000 đồng. Tổng giá trị của 02 bao phân bón trên là 1.300.000 đồng
(BL 78).
Ngoài ra, Tr còn t mình thc hin 01 v trm cp tài s:
Khoảng 01 giờ sáng ngày 31/7/2021 Trần Văn Tr điều khiển xe mô tô biển số 92E1-
533.06 thuộc sở hữu chung của Tr và vợ là Lê Thị Thu Hằng đi tìm nơi trộm cắp tài sản.
Khi Tr đến trước nhà bà Nguyễn Thị Thu T tại thôn A2, xã N, huyện Đ, thấy trước hiên
nhà có kéo lưới B40, trong hiên có 05 bao phân bón (gồm 01 bao phân bón Ure – Đạm
4
Phú Mỹ, 02 bao phân bón NPK - Đầu trâu, 02 bao phân bón NPK - Mặt trời mới, mỗi bao
có trọng lượng 50kg). Tr dừng xe lại, kéo lưới B40 sang một bên rồi vác 02 bao phân bón
lên xe, chở đến để trước sân nhà ông Nguyễn Xí ở thôn A, xã Q, huyện Đ cất giấu. Sau
đó, tiếp tục quay lại nhà bà Tâm và chở 03 bao phân còn lại về nhà ông Xí cất giấu và
ngủ tại đây. Đến 04 giờ sáng cùng ngày, Tổ công tác Công an xã Q trong lúc tuần tra đã
phát hiện nên lập biên bản và mời Tr về trụ sở Công an xã làm việc. Tại đây, Tr thừa
nhận hành vi trộm cắp tài sản của mình.
Tại bản kết luận định giá tài sản số 31/KL-HĐĐGTS ngày 26/8/2021 của Hội đồng
định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Đ đã xác định 01 bao phân bón Ure – Đạm
Phú Mỹ, trọng lượng 50kg, có giá trị là 630.000 đồng; 02 bao phân bón NPK - Đầu trâu,
trọng lượng mỗi bao 50kg, có giá trị là 1.360.000 đồng; 02 bao phân bón NPK - Mặt trời
mới, mỗi bao có trọng lượng 50kg, có giá trị là 1.160.000 đồng. Tổng giá trị của 05 bao
phân bón trên là 3.150.000 đồng (BL 75).
Vật chứng của vụ án:
- 01 bao phân bón URE - Đạm Phú Mỹ; 02 bao phân bón NPK - Đầu trâu; 02 bao
phân bón NPK – Mặt trời mới, mỗi bao có trọng lượng 50kg (Đã được Cơ quan CSĐT
Công an huyện Đ trao trả cho chủ sở hữu).
- 01 xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA loại JANUS màu đỏ, BKS 92E1-533.06, số máy
E3Y8E126175, số khung: C820KY126163 (Hin do Chi cc Thi hành án dân s huyn
qun lý).
Quá trình điều tra, truy tố, xét xử, các bị cáo Trần Minh T, Nguyễn Văn Th và Trần
Văn Tr đã tỏ ra ăn năn hối cải, thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình như cáo
trạng đã truy tố nêu trên và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Các bị
cáo khai trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử các bị cáo không bị dùng nhục hình, ép
cung, mớm cung và không có khiếu nại về các hành vi, quyết định tố tụng.
Tại cáo trạng số 67/CT-VKS ngày 08/12/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ
truy tố các bị cáo Trần Minh T, Nguyễn Văn Th, Trần Văn Tr về tội: “Trộm cắp tài sản”
quy định tại điểm a khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự 2015. Tại phiên tòa đại diện Viện
kiểm sát nhân dân huyện Đ giữ nguyên quan điểm truy tố đồng thời đề nghị:
- Đối với bị cáo Trần Minh T và Trần Văn Tr: Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 173,
điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự 2015 xử
phạt các bị cáo T và Tr mỗi bị cáo từ 24 (bn) đến 30 () tháng tù.
- Đối với bị cáo Nguyễn Văn Th: Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 173, điểm s khoản 1
Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự 2015 xử phạt bị cáo Th từ 24 (Hai
n) đến 30 () tháng tù.
- Về vật chứng: đề nghị tịch thu sung công quỹ Nhà nước ½ giá trị chiếc xe mô tô
nhãn hiệu YAMAHA loại JANUS màu đỏ, BKS 92E1-533.06, số máy E3Y8E126175, số
khung: C820KY126163 là tài sản chung của vợ chồng bị cáo Trung, do chị Lê Thu H
đứng tên đăng ký sở hữu.
Các bị hại Lê Văn B, Võ Ngọc T, Trần Nguyễn Thị T Minh, Nguyễn Thị Thúy Ph,
Nguyễn Thị Thu T khai về diễn biến vụ án như cáo trạng mô tả. Ông Bảy, bà Phương đã
nhận đủ tiền do bị cáo T và Tr bồi thường, bà Tâm đã nhận lại tài cản bị chiếm đoạt,
không có yêu cầu gì thêm về phần dân sự. Tại các đơn xin xét xử vắng mặt bà Tâm, ông
Bảy và bà Phương xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo T và Trung. Đối với anh Tấn,
5
chị Minh có yêu cầu bị cáo Th và T liên đới bồi thường giá trị tài sản bị trộm cắp là
2.616.000 đồng và đề nghị xử phạt xác bị cáo Thái, T theo quy định pháp luật.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thị T, Đặng Thị D, Nguyễn Văn
Đ, Trần Minh Qu, Lê Thu H và người làm chứng Nguyễn Xí khai phù hợp với nội dung
truy tố của cáo trạng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh
tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] V tính hp pháp ca các hành vi, quynh t tng:
Tại phiên tòa, các bị cáo thừa nhận trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, các bị
cáo không bị dùng nhục hình, ép cung, mớm cung mà đã được Điều tra viên, Kiểm sát
viên, Thẩm phán, Hội đồng xét xử phổ biến về quyền, nghĩa vụ của mình trong từng giai
đoạn tố tụng và tự khai báo về hành vi phạm tội của mình. Các bị cáo và những người
tham gia tố tụng không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố
tụng, người tiến hành tố tụng. Hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên; Kiểm sát
viên, Thẩm phán, Hội đồng xét xử trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện
đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự.
[2] V ni dung v án:
[2.1]. V ti danh và khung hình pht: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa
hôm nay, các bị cáo Trần Minh T, Trần Văn Tr, Nguyễn Văn Th đã thừa nhận toàn bộ
hành vi phạm tội như cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ đã truy tố. Lời khai
nhận tội của các bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan, người làm chứng, biên bản thu giữ vật chứng, kết luận định giá, vật chứng và các
tài liệu, chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án và đã được thẩm tra tại phiên tòa.
Hng xét x c:
Trưa ngày 23/7/2021 Nguyễn Văn Th rủ Trần Minh T cùng nhau trộm cắp 05 cuộn dây
dẫn điện và 20 mét dẫn dây điện (với tổng giá trị là 2.616.000 đồng) tại cửa hàng cơ khí,
quảng cáo T (thôn TA, xã L) của vợ chồng anh Võ Ngọc T và chị Trần Nguyễn Thị T Minh
rồi mang số tài sản trên bán cho chị Đặng Thị D được 1.700.000 đồng để chia nhau tiêu xài
cá nhân.
Đến khoảng 10 giờ 30 phút ngày 30/7/2021, Trần Văn Tr rủ Trần Minh T cùng nhau
thực hiện hành vi trộm 01 bao phân bón NPK 20-20-15 TE ba màu có giá trị là 700.000
đồng của bà Nguyễn Thị Thúy Ph (ti khu Song M, th trn A) và trộm 02 bao phân bón
có giá trị 1.300.000 đồng của ông Lê Văn B (ti Thng),tổng giá
trị tài sản chiếm đoạt là 2.000.000 đồng. Số phân bón này sau mỗi lần trộm được, T và
Tr mang đến bán cho bà Nguyễn Thị T được tổng số tiền 1.100.000 đồng để tiêu xài cá
nhân.
Ngoài ra, khoảng 01 giờ sáng ngày 31/7/2021, Trần Văn Tr trộm 05 bao phân bón
của bà Nguyễn Thị Thu T (thôn A2, xã N), có giá trị 3.150.000 đồng mang về nhà ông
Nguyễn Xí tại thôn A, xã Q, huyện Đ cất giấu. Đến 04 giờ sáng cùng ngày bị Công an xã
Q phát hiện.
Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo T , Thái, Tr khai nhận khi thực hiện
hành vi trộm cắp tài sản, các bị cáo có sự câu kết chặt chẽ, rủ rê, thống nhất tiếp nhận về
6
ý chí, cùng chuẩn bị phương tiện, hiểu ý nhau khi phân công nhiệm vụ nên thuộc trường
hợp phạm tội “có t ”.
Do đó Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận bị cáo Trần Minh T, Nguyễn Văn Th,
Trần Văn Tr phạm tội: “Trm cp tài sn” quy định tại điểm a khoản 2 Điều 173 Bộ luật
Hình sự 2015 như cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ truy tố là có căn cứ,
đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[2.2] Xét tính cht, m hành vi phm t cáo thì thy:
Các bị cáo Trung, T , Th đều đã trưởng thành, có đầy đủ năng lực nhận thức và điều
khiển hành vi, hiểu biết pháp luật, nhận thức được rằng quyền sở hữu đối với tài sản được
pháp luật bảo vệ. Thế nhưng, chỉ vì muốn có tiền tiêu xài cá nhân mà không phải bỏ công
sức lao động, các bị cáo đã bất chấp các quy định của pháp luật, đạo đức xã hội, lén lút
thực hiện hành vi trộm cắp tài sản của các bị hại, xâm phạm quyền sở hữu tài sản của
người các bị hại đồng thời còn xâm phạm nghiêm trọng trật tự trị an trên địa bàn huyện
Đ, gây tâm lý hoang mang, lo lắng trong quần chúng nhân dân. Do đó cần phải xử phạt
các bị cáo một cách nghiêm khắc bằng cách áp dụng hình phạt tù, cách ly các bị cáo ra
ngoài xã hội một thời gian để giáo dục các bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội.
[2.3] Xét vai trò ca các b cáo thì thy:
i vi b cáo Tr: Bị cáo Tr thực hiện 02 lần trộm cắp mà mỗi lần đều có
giá trị trên 2.000.000 đồng, trong đó có 01 lần Tr trộm một mình và 01 lần trộm cắp có tổ
chức với vai trò là người khởi xướng và là người thực hành tội phạm, trực tiếp trộm tài
sản của bị hại khi được T cảnh giới, đồng thời tích cực tìm kiếm phương thức tiêu thụ tài
sản trộm được. Tổng giá trị tài sản bị cáo Tr chiếm đoạt của các bị hại là 5.150.000 đồng.
B cáo Trn Minh T: Trong đồng phạm, bị cáo T tham gia 02 vụ trộm cắp có tổ
chức với vai trò thực hành tội phạm tích cực. Tổng giá trị tài sản chiếm đoạt là 4.616.000
đồng. Bản thân bị cáo T có nhân thân xấu: ngày 5/8/2011, bị TAND huyện Đ xử phạt 06
tháng tù về tội trộm cắp tài sản (chấp hành xong hình phạt) và ngày 11/10/2017 bị Công
an thị trấn A, huyện Đ xử phạt vi phạm hành chính tổng số tiền 2.250.000 đồng về hành
vi “Trộm cắp tài sản” và “Sử dụng trái phép chất ma túy” (Toàn nh
mà Công an th trn A không có bt k bin pháp nào buc T phi chp hành quynh
x pht nên T x pht vi phm hành chính). Tuy nhiên, T không ăn
năn hối cải mà lại tiếp tục trộm cắp tài sản của người khác, thể hiện Th độ bất chấp, coi
thường pháp luật.
chỉ tham gia 01 vụ trộm cắp có tổ chức nhưng là người khởi
xướng, rủ rê bị cáo T và là người thực hành tội phạm, làm nhiệm vụ cảnh giới cho T
trộm cắp và chở T đi tiêu thụ tài sản. Tổng giá trị tài sản chiếm đoạt là 2.616.000 đồng.
Bị cáo Th nhân thân có tiền án, ngày 16/02/2021 bị cáo mới chấp hành xong hình phạt
21 tháng tù về tội “Trm cp tài sn” nhưng không ăn năn hối cải, tu dưỡng bản thân làm
ăn lương thiện mà tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội thuộc trường hợp “tái phm”.
Hội đồng xét xử xét thấy cần xử phạt các bị cáo một mức án tương xứng với vai trò,
tính chất, mức độ hành vi và hậu quả do các bị cáo gây ra.
[2.3] V tình ting, gim nh trách nhim hình s i vi các b cáo:
- V tính ting:
Các bị cáo Trần Minh T và Trần Văn Tr có 02 lần trộm cắp tài sản, mỗi lần trộm cắp
tài sản có giá trị từ 2.000.000 đồng trở lên nên bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm
7
hình sự “phm ti t 02 ln tr lên” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự
2015. Bị cáo Nguyễn Văn Th có 01 tiền án về tội trộm cắp tài sản, chưa được xóa án tích
nay lại phạm tội do cố ý nên bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “tái
phm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015;
- V tình tit gim nh: Xét thấy trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo
thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình. Bị cáo Tr nhân thân chưa có tiền án,
tiền sự, phạm tội lần đầu. Các bị cáo Trần Minh T, Trần Văn Tr đã tác động gia đình bồi
thường, khắc phục hậu quả cho bị hại Nguyễn Thị Thúy Ph và Lê Văn B. Tại các đơn xin
xét xử vắng mặt bà Tâm, ông Bảy và bà Phương xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo T
và Trung. Bị cáo Trần Minh T có ông nội là liệt sĩ. Bị cáo Trần Văn Tr có 02 con nhỏ
sinh năm 2016 và 2018, hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn. Do đó, hội đồng xét xử áp
dụng cho bị cáo Nguyễn Văn Th tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm
s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015; bị cáo Trần Văn Tr và Trần Minh T các tình tiết
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ
luật hình sự 2015.
[2.4] V trách nhim dân s: Gia đình Trần Văn Tr, Trần Minh T đã khắc phục cho
ông Lê Văn B số tiền là 1.300.000 đồng, gia đình Trần Văn Tr đã bồi thường cho bà
Nguyễn Thị Thúy Ph số tiền 700.000 đồng. Ông Bảy, bà Phương không yêu cầu bồi
thường thêm về dân sự. Bà Nguyễn Thị Thu T đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi
thường về dân sự nên Hội đồng xét xử không đề cập.
Hội đồng xét xử xét yêu cầu của vợ chồng anh Võ Ngọc T và chị Trần Nguyễn Thị
T Minh đề nghị Tòa buộc Nguyễn Văn Th và Trần Minh T liên đới bồi thường số tiền
2.616.000 đồng là phù hợp nên chấp nhận.
[2.5] V x lý vt chng: Hội đồng xét xử xét thấy Cơ quan điều tra đã trao trả các
vật chứng vụ án gồm 01 bao phân bón URE - Đạm Phú Mỹ; 02 bao phân bón NPK - Đầu
trâu; 02 bao phân bón NPK – Mặt trời mới, mỗi bao có trọng lượng 50kg cho chủ sở hữu
là phù hợp nên không đề cập.
Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA loại JANUS màu đỏ, BKS 92E1-533.06,
do chị Lê Thi Hằng đứng tên đăng ký sở hữu: Hội đồng xét xử xét thấy đây là tài sản
chung được tạo lập trong thời kỳ hôn nhân của vợ chồng bị cáo Tr và chị Hằng, được Tr
sử dụng làm phương tiện phạm tội nên cần tịch thu sung công quỹ ½ giá trị chiếc xe mô
tô nêu trên theo quy định tại Điều 47 Bộ luật hình sự là phù hợp.
[2.6] V các v khác:
- Trong vụ án này, ông Nguyễn Văn Đ không biết việc Nguyễn Văn Th sử dụng xe
mô tô biển số 92E1-599.61 để thực hiện hành vi phạm tội, Trần Minh Qu không biết việc
Trần Minh T sử dụng xe mô tô biển số 92E1-019.77 để thực hiện hành vi vi phạm pháp
luật nên không có cơ sở xử lý.
- Đối với chị Đặng Thị D có mua 05 cuộn và 20 mét dây dẫn diện của T và Thái;
bà Nguyễn Thị T mua 03 bao phân bón của T và Tr nhưng chị Diễm, bà Tuyết không
biết đây là tài sản do phạm tội mà có nên không đề cập xử lý.
[3] Các bị cáo T , Trung, Th mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí
hình sự sơ thẩm, bị cáo T và Th phải cùng chịu án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 đồng
theo quy định pháp luật.
Vì các l trên,
8
QUYẾT ĐỊNH:
1. Tuyên bố: Các bị cáo Trần Minh T, Trần Văn Tr, Nguyễn Văn Th phạm tội
“Trộm cắp tài sản” theo điểm a khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự 2015.
2. Áp dụng: điểm a khoản 2 Điều 173, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g
khoản 1 Điều 52, Điều 38 Bộ luật hình sự 2015:
- Xử phạt: Bị cáo Trần Minh T 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn chấp
hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giam từ ngày 15/10/2021.
- Xử phạt: Bị cáo Trần Văn Tr 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn chấp
hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giam từ ngày 24/9/2021.
3. Áp dụng: điểm a khoản 2 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1
Điều 52, Điều 38 Bộ luật hình sự 2015.
Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn Th 02 (Hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt
tù tính từ ngày bị bắt tạm giam 20/9/2021.
4. Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 48 Bộ luật hình sự 2015, các Điều 584,
589, 357, 468 Bộ luật dân sự 2015: Buộc các bị cáo Trần Minh T và Nguyễn Văn Th liên
đới chịu trách nhiệm bồi thường cho vợ chồng anh Võ Ngọc T, chị Trần Nguyễn Thị T
Minh giá trị tài sản trộm cắp là 2.616.000 (Hai trii sáu ngàn) đồng.
Thời hạn bồi thường: tính từ ngày án có hiệu lực pháp luật.
Kể từ ngày vợ chồng chị Minh anh Tấn có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi thi
hành án xong, các bị cáo T , Th còn phải chịu khoản tiền lãi tính trên số tiền còn phải thi
hành án theo mức lãi suất theo quy định của pháp luật là 10%/năm.
5. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, Điều 47 Bộ luật
hình sự 2015: Tuyên tịch thu sung công quỹ ½ (mt na) giá trị chiếc xe mô tô nhãn hiệu
YAMAHA loại JANUS màu đỏ, BKS 92E1-533.06, số máy E3Y8E126175, số khung:
C820KY126163. Trả lại cho chị Lê Thu H ½ (mt na) giá trị còn lại của chiếc xe này
(Vt chng hin do Chi cc Thi hành án dân s huyn qun lý).
6. Về án phí: áp dụng Điều 136 BLTTHS 2015 và Điều 23, 26 Nghị quyết
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTV Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án:
Buộc các bị cáo Trần Minh T, Trần Văn Tr, Nguyễn Văn Th mỗi bị cáo phải chịu
200.000 () đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Án phí dân sự sơ thẩm bị cáo Trần Minh T và Nguyễn Văn Th cùng chịu là
300.000 đồng (ng).
- Về quyền kháng cáo: Các bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày
tuyên án. Đối với bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có
quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án
được niêm yết.
c thi hành án dân s i phi thi hành án dân s có quyn tha
thun thi hành án, quyn yêu cu thi hành án, t nguyn thi hành án hoc b ng ch
nh tu 6, 7 và 9 Lut Thi hành án dân s; thi hiu thi
c thc hinh tu 30 Lut thi hành án dân s.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
- THẨM PHÁN- CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
9
- ;
- ;
-
- Lu h án.
Nguyễn Thị Ái Linh
10
HỘI ĐÔNG XÉT XỬ SƠ THẨM
HỘI THẨM NHÂN DÂN THẨM PHÁN-CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 28/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 15/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 14/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 14/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 12/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 06/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 05/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 01/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 27/02/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 23/02/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 16/02/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Bản án số 04/2024/HS-PT ngày 05/02/2024 của TAND TP. Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình về tội trộm cắp tài sản
Ban hành: 05/02/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Bản án số 14/2024/HS-ST ngày 05/02/2024 của TAND huyện Hòa Vang, TP. Đà Nẵng về tội trộm cắp tài sản
Ban hành: 05/02/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 01/02/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 31/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 31/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 31/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 31/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 30/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 30/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm