Bản án số 07/2024/DS-ST ngày 04/07/2024 của TAND huyện Lăk, tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 07/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 07/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 07/2024/DS-ST
Tên Bản án: | Bản án số 07/2024/DS-ST ngày 04/07/2024 của TAND huyện Lăk, tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND huyện Lăk (TAND tỉnh Đắk Lắk) |
Số hiệu: | 07/2024/DS-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 04/07/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | ông Lê Kim H trả lại cho ông Nguyễn Xuân T 26.8m2 |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LẮK, TỈNH ĐẮK LẮK
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Ông Văn Công Cường
Các Hội thẩm nhân dân:
1. Bà Nguyễn Thị Vui;
2. Bà Lê Thị Hoa.
- Thư ký phiên toà: Bà Lê Thị Lý- Thư ký Tòa án nhân dân huyện Lắk, tỉnh
Đắk Lắk
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lắk, tỉnh Đắk Lắk tham gia phiên
tòa: Ông Nguyễn Thanh Thạnh - Kiểm sát viên.
Ngày 04/7/2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lắk, tỉnh Đắk Lắk mở
phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân s thụ lý số: 115/2023/TLST-DS
ngày 18 tháng 7 năm 2023 về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất” theo Quyết
định đưa vụ án ra xét xử số: 28/2023/QĐXXST-DS ngày 20/11/2023, giữa các
đương s:
1. Nguyên đơn: Ông Trần Xuân T, sinh năm 1966, địa chỉ: 27 V, tổ dân phố 2,
thị trấn L, huyện L, tỉnh Đắk Lắk, có mặt.
2. Bị đơn:
- Anh Lê Kim H, sinh năm 1986, địa chỉ: 25 V, tổ dân phố 2, thị trấn Liên S,
huyện L, tỉnh Đắk Lắk. có mặt.
- Bà Bùi Thị H, sinh năm 1966, địa chỉ: 29 V, tổ dân phố 2, thị trấn L, huyện L,
tỉnh Đắk Lắk. có mặt.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Nguyễn Hoàng P, sinh năm
1999, địa chỉ: 29 V, tổ dân phố 2, thị trấn L, huyện L, tỉnh Đắk Lắk;
Người đại diện theo ủy quyền của anh Phúc: Bà Bùi Thị H, sinh năm 1966, địa
chỉ: 29 V, tổ dân phố 2, thị trấn L, huyện L, tỉnh Đắk Lắk (theo văn bản ủy quyền
ngày 23/10/2023) có mặt
NỘI DUNG VỤ ÁN:
TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN LẮK
TỈNH ĐẮK LẮK
Bản án số: 07/2024/DS-ST
Ngày: 04/7/2024
“V/v tranh chấp quyền sử dụng đất”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
2
* Theo đơn khởi kiện, quá trình tham gia tố tụng và tại phiên tòa, ông
Trần Xuân T trình bày như sau:
Ngày 11 tháng 11 năm 2016, tôi được sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Đắk
Lắk cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 118, tờ bản đồ số 6
diện tích 1.950m2, theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CE 458412, số vào
sổ cấp GCN: CS 0026 tại TDP 2, thị trấn Liên Sơn, huyện Lắk, tỉnh Đắk Lắk;
nguồn gốc sử đất được thc hiện theo bản án số 28/2016/HNGĐ-PT ngày 29 tháng
09 năm 2016 của Tòa án tỉnh Đắk Lắk. Thc tế thửa đất này có nguồn gốc tôi mua
lại từ năm 1993, từ đó đến nay tôi và hai gia đình liền kề chưa xác định ranh giới
đất phía sau. Đến tháng 09 năm 2022, tôi gửi đơn lên Ủy ban nhân dân thị trấn L,
huyện L, tỉnh Đắk Lắk và phòng Địa chính thị trấn L yêu cầu xác định vị trí ranh
giới.
Ngày 13 tháng 09 năm 2022, đại diện cán bộ địa chính thị trấn L, đại diện ban
t quản của TDP 2, bà Bùi Thị H và anh Lê Kim H, chúng tôi đã thỏa thuận cắm
mốc và ký vào biên thỏa thuận và tôi làm hàng rào cọc bê tông nhưng sau đó anh H
đã nhổ ra và làm gãy một số cọc, bà H cũng không đồng ý chôn cọc rào vị trí như
đã thỏa thuận. Đến tháng 12 năm 2022, tôi lại viết đơn gửi lên Ủy ban nhân dân thị
trấn L và Ban địa chính yêu cầu hòa giải tiếp. Ngày 02 tháng 12 năm 2022, Ủy ban
nhân dân thị trấn L mời 3 nhà lên hòa giải nhưng hòa giải không thành. Ngày 11
tháng 07 năm 2023 tôi gửi đơn khởi kiện đên Tòa án để yêu cầu giải quyết tranh
chấp ranh giới đất.
Nay theo kết quả đo đạc thc tế của Công ty TNHH Dịch vụ Kỹ thuật trắc địa
Sài Gòn-Chi nhánh Đắk Lắk do tôi chỉ dẫn thì phía ông H lấn chiếm đất của tôi là
26,8m
2
. Do đó tôi yêu cầu anh Lê Kim H trả lại đất nguyên hiện trạng diện tích đất
theo kết quả đo đạc trích lục diện tích đất tranh chấp của Công ty TNHH Dịch vụ
Kỹ thuật trắc địa Sài gòn, Chi nhánh Đắk Lắk mà tôi đã chỉ dẫn. Đối với các tài
sản trên đất thì tôi không có tranh chấp gì vì đó là tài sản của anh H và buộc anh H
phải di dời toàn bộ tài sản trên đất để trả lại đất đã lấn chiến của tôi. Đối với bà Bùi
Thị H thì tôi không yêu cầu bà H trả lại đất nữa và rút đơn yêu cầu khởi kiện đối
với bà Hồng.
* Quá trình tham gia tố tụng và tại phiên tòa, bị đơn anh Lê Kim H trình
bày:
Tôi có diện tích đất khoảng 1.000m
2
đất được Nhà nước công nhận quyền sử
dụng đất số 118a, tờ bản đồ số 06 tại tổ dân phố 2, thị trấn L, huyện L, tỉnh Đắk
Lắk. Đến năm 2010, Nhà nước có thu hồi một phần diện tích đất phía sau thuộc
phía nam còn lại diện tích đất khoảng 700m
2
, Nhà nước đã bồi thường cho tôi. Nay
ông Trần Xuân T khởi kiện yêu cầu tôi trả lại phần diện tích đất mà ông T cho rằng
tôi đã lấn chiếm thì tôi không đồng ý vì tôi không lấn chiếm đất của ông Trần
Xuân T và phần diện tích đất mà ông T cho rằng tôi lấn chiếm không thuộc quyền
sở hữu của tôi, còn đối với tài sản trên đất là của tôi, tôi không có tranh chấp gì,
ngoài ra tôi không có yêu cầu gì khác. Hiện tại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
của tôi đang đăng ký thế chấp ở Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai huyện Lắk.
3
* Quá trình tham gia tố tụng và tại phiên tòa bị đơn bà Bùi Thị H trình
bày:
Năm 1994 tôi có mua của bà T mảnh đất 118b, tờ bản đồ số 6 tại TDP 2 thị
trấn L, huyện L, tỉnh Đắk Lắk, diện tích 13m ngang, 88,75m dọc, tổng diện tích là
1153,75m
2
có tứ cận phía đông giáp đất ông T, phía nam giáp đất rừng, phía tây
giáp đất ông T và phía bắc giáp đường đi. Năm 1995 gia đình tôi có bán lại cho
ông T 5m ngang diện tích là 443,75m
2
, diện tích còn lại là 710m
2
. Từ năm 1995
gia đình ông T đã xây hàng rào giáp ranh giữa hai nhà và sử dụng từ đó cho đến
nay. Phần đằng sau gia đình ông T trồng cây chè tàu làm ranh giới giữa hai bên.
Đến tháng 3 năm 2021 gia đình ông T đơn phương phá bỏ mà không được s đồng
ý của gia đình tôi. Ông T đã trồng cây sang phần đất của gia đình tôi. Ngày 13
tháng 9 năm 2022 địa chính xã xuống hòa giải và cắm mốc nhưng ông T không
làm đúng nên tôi không chấp nhận hòa giải, gia đình tôi không lấn chiếm đất của
ông T. Hiện tại ông T đã trồng cây keo rào sang phần đất nhà tôi với 0,5m ngang
và 50m dọc.
Nay ông Trần Xuân T khởi kiện yêu cầu tôi trả lại phần diện tích đất mà ông
T cho rằng tôi đã lấn chiếm thì tôi không đồng ý vì tôi không lấn chiếm đất của
ông Trần Xuân T, còn đối với tài sản trên đất tôi không có tranh chấp gì, còn ông
Tửu rút yêu cầu khởi kiện đối với tôi thì tôi không có ý kiến gì. Hiện tại giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất của tôi đang quản lý chưa đăng ký thế chấp ở cơ
quan, tổ chức nào.
* Quá trình tham gia tố tụng, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh
Nguyễn Hoàng P trình bày có nội dung:
Tôi đã được thông báo về việc ông Trần Xuân T khởi kiện mẹ tôi là bà Bùi
Thị H về tranh chấp đất đai. Nay tôi xác định như sau: Năm 2018 tôi đã được bố
mẹ tôi tặng cho quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 118b, tờ bản đồ số 06 có
diện tích 710m
2
tại tổ dân phố 2, thị trấn L mà hiện nay ông T đang khởi kiện, thửa
đất này hiện nay bà H đang quản lý và sử dụng nên tôi đồng ý với mọi ý kiến của
mẹ tôi và tôi ủy quyền cho mẹ tôi toàn quyền quyết định. Do tôi công việc bận và
đi làm ở xa nên tôi từ chối tham gia tố tụng, đề nghị Tòa án không triệu tập tôi
tham gia tố tụng.
* Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lắk phát biểu:
Thẩm quyền thụ lý vụ án: Đây là vụ án “tranh chấp quyền sử dụng đất”, vụ án
thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 9 Điều 26; điểm a
khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân s. Về việc chấp
hành pháp luật của người tham gia tố tụng đã thc hiện đúng quy định tại các Điều
70, 71, 72, 73 của Bộ luật tố tụng Dân s.
Việc tống đạt các văn bản tố tụng cho đương s và cho Viện kiểm sát đúng
theo quy định tại Điều 170 đến Điều 175, Điều 177 Bộ luật tố tụng dân s. Vấn đề
thu thập chứng cứ, thời hạn chuẩn bị xét xử và chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát.
Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử (viết là
HĐXX), Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết
4
vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm HĐXX nghị án đã chấp hành đúng
quy định của Bộ luật tố tụng dân s.
Về việc giải quyết vụ án: Anh Lê Kim H không cung cấp được tài liệu, chứng
cứ gì để chứng minh nguồn gốc diện tích đất 26,8m
2
là thuộc thửa đất số 118a, nay
là thửa đất số 101, tờ bản đồ số 06 mà anh H đang quản lý, sử dụng nên không có
căn cứ xác định diện tích đất này là đất của anh H. Đối với thửa đất số 118, nay là
thửa đất số 100, tờ bản đồ số 06 của ông Trần Xuân T đã được Ủy ban nhân dân
huyện L, tỉnh Đắk Lắk cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số X 782571 ngày
28/4/2004 và sau này được sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Đắk Lắk cấp lại số
CE 458412 ngày 11/11/2016 theo bản án, quyết định của Tòa án xét thấy là đúng
theo trình t thủ tục quy định, đúng vị trí trên thc tế và trong giấy chứng
nhậnquyền sử dụng đất. Do đó đề nghị HĐXX chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi
kiện của nguyên đơn, buộc anh Lê Kim H phải di dời toàn bộ tài sản trên đất mà
anh H đã tạo lập ra khỏi diện tích đất 26,8m
2
đã lấn chiểm để trả lại cho ông T
thuộc thửa đất số 118 (cũ), nay là thửa đất số 100, tờ bản đồ số 06 tại tổ dân phố 2,
thị trấn L, huyện L, tỉnh Đắk Lắk.
Đình chỉ đối với yêu cầu buộc bị đơn bà Bùi Thị H trả lại diện tích đất 21,0m
2
thuộc thửa đất số 118b, tờ bản đồ số 06 tại tổ dân phố 2, thị trấn L, huyện L, tỉnh
Đắk Lắk.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét, thẩm tra tại
phiên tòa; lời trình bày của những người tham gia tố tụng, kết quả tranh tụng và ý kiến
của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa, HĐXX xét thấy:
[1] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết: Nguyên đơn khởi kiện
yêu cầu Tòa án buộc bị đơn trả lại diện tích đất 26,8m
2
của thửa đất số 118, tờ bản
đồ số 06 tại tổ dân phố 2, thị trấn L cho nguyên đơn. HĐXX xác định đây là vụ án
tranh chấp quyền sử dụng đất được quy định tại khoản 9 Điều 26 Bộ luật tố tụng
Dân s. Bị đơn cư trú và diện tích đất tranh chấp có vị trí tại tổ dân phố 2, thị trấn L,
huyện L, tỉnh Đắk Lắk nên Tòa án nhân dân huyện Lắk căn cứ vào điểm a khoản 1
Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng Dân s thụ lý vụ án là đúng thẩm
quyền.
[2] Về nội dung vụ án: Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn cùng các tài
liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thể hiện vào năm 2004 hộ ông Trần Xuân T đã
thc hiện việc kê khai, đăng ký và được Ủy ban nhân dân huyện L cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 118, tờ bản đồ 06. Nguồn gốc sử dụng
đất được công nhận quyền sử dụng đất theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số
X 782571 ngày 28/01/2004 và quản lý, sử dụng không tranh chấp với ai. Năm
2016 ông T thc hiện việc kê khai và yêu cầu cấp lại giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất theo bản án số 28/2016/HNGĐ-PT ngày 29/9/2016 của Tòa án nhân dân
tỉnh Đắk Lắk và được sở tài nguyên và Môi trường tỉnh Đắk Lắk cấp lại giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số CE 458.412 ngày 11/11/2016 và ông Tửu cho
rằng diện tích đất đang tranh chấp với anh H 26,8m
2
(theo kết quả đo đạc thc tế) là
đất của ông. Theo các tài liệu, chứng cứ do Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai
5
huyện Lắk và Ủy ban nhân dân thị trấn L cung cấp cùng quá trình xem xét thẩm
định tại chỗ, đo vẽ kỹ thuật, HĐXX xét thấy việc Ủy ban nhân dân huyện L cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 118, tờ bản đồ số 06 và sau
này được sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Đắk Lắk cấp lại giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số CE 458.412 ngày 11/11/2016 cho ông Trần Xuân T là đúng
theo trình t thủ tục quy định, đúng vị trí được xác định trong giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất và tờ bản đồ giải thửa năm 2004, nguồn gốc đất được Nhà nước
công nhận quyền sử dụng đất. Xét thấy diện tích đất được ghi trong giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất của ông T và anh H thì cả hai thửa đất đều thiếu so với kết
quả đo đạc diện tích đất đang sử dụng trên thc tế hiện nay. Do đó việc anh Lê
Kim H rào thép B40 để phân định ranh giới giữa đất mình đang sử dụng với thửa
đất số 118 của ông T là đã lấn chiếm phần diện tích 26,8m
2
(theo kết quả đo đạc
thc tế) thửa đất của ông Tửu đã được Nhà nước công nhận và cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất và theo hiện trạng kết quả đo đạc thc tế được lồng ghép
lên bản đồ nên việc ông T khởi kiện yêu cầu anh H trả lại phần diện tích đất 26,8m
2
là có căn cứ chấp nhận. Buộc anh H trả lại diện tích đất đã lấn chiếm cho ông T là
26,8m
2
thuộc thửa đất số 118 (cũ), nay là thửa đất số 100, tờ bản đồ số 06 tại tổ dân
phố 2, thị trấn L, huyện L, tỉnh Đắk Lắk và phải di dời toàn bộ tài sản trên đất mà
anh Hương đã tạo lập ra khỏi diện tích đất đã lấn chiếm là bờ rào lưới B40 dài
21,87m, cao 1,2m và 01 cây Nhãn trồng năm 1980 có đường kính 60cm để trả lại
đất cho ông T.
[3] Đình chỉ đối với yêu cầu khởi kiện buộc bị đơn bà Bùi Thị H trả lại diện
tích đất 21,0m
2
thuộc thửa đất số 118b, tờ bản đồ số 06 tại tổ dân phố 2, thị trấn L,
huyện L, tỉnh Đắk Lắk.
[4] Đối với phát biểu của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa HĐXX xét thấy
là phù hợp nên chấp nhận.
[5] Về án phí và tạm ứng án phí: p dụng khoản 2 Điều 27 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về
mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án và danh
mục án phí lệ phí Tòa án ban hành kèm theo Nghị quyết xác định như sau: Do yêu
cầu của nguyên đơn được chấp nhận nên bị đơn phải chịu toàn bộ án phí dân s sơ
thẩm là 300.000 đồng, nguyên đơn được nhận lại tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Chi
cục Thi hành án dân s huyện Lắk, tỉnh Đắk Lắk.
[6] Về chi phí tố tụng khác: Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp
nhận nên bị đơn phải chịu 8.000.000 đồng tiền chi phí xem xét thẩm định tại chỗ và
định giá tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 157 và khoản 1 Điều 165 Bộ luật tố
tụng Dân s, số tiền này nguyên đơn đã nộp tạm ứng và đã chi nên bị đơn có nghĩa vụ
hoàn trả lại cho nguyên đơn theo quy định tại khoản 1 Điều 158 và khoản 1 Điều 166
Bộ luật tố tụng Dân s.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 9 Điều 26, khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39; các điều
92; 93, 144; 147; 157; 158; 165; 166; 203; 235; 266 và 273 Bộ luật tố tụng Dân s;
6
Căn cứ Điều 175, 197, 199 Bộ luật Dân s năm 2015; khoản 3 Điều 4, Điều
15, khoản 4 Điều 49 luật Đất đai năm 2003, sửa đổi, bổ sung năm 2009; Điều 12,
Điều 66 và Điều 203 luật Đất đai năm 2013.
Căn cứ khoản 2 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu
nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án và danh mục án phí, lệ phí Tòa án ban
hành kèm theo Nghị quyết.
Tuyên xử:
1. Về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn ông Trần Xuân T khởi kiện anh Lê Kim H về tranh chấp quyền sử
dụng đất.
- Buộc anh Lê Kim H trả lại 26,8m
2
diện tích đất đã lấn chiếm cho ông Trần
Xuân T
có vị trí tứ cận như sau: Phía bắc là điểm giao nhau giữa ranh hiện trạng và
ranh bản đồ; phía nam giáp thửa đất số 118ª(nay là thửa đất số 101) do anh H đang
sử dụng có cạnh dài 02m; phía đông giáp thủa đất số 118ª(nay là thửa đất số 101) do
anh H đang sử dụng có cạnh dài 21,87m và phía tây giáp thửa đất số 118 (nay là
thửa đất số 100) do ông T đang sử dụng có cạnh dài 12,7m + 9,61m (có kèm theo
trích lục địa chính thửa đất).
- Buộc anh Lê Kim H phải di dời toàn bộ tài sản trên đất mà anh H đã tạo lập
ra khỏi diện tích đất 26,8m
2
là bờ rào lưới B40 dài 12,7m + 9,61m, cao 1,2m và 01
cây nhãn trồng năm 1980 có đường kính 60cm để trả lại diện tích đất nói trên
cho
ông Trần Xuân T.
- Đình chỉ đối với yêu cầu buộc bị đơn bà Bùi Thị H trả lại diện tích đất
21,0m
2
thuộc thửa đất số 118b, tờ bản đồ số 06 tại tổ dân phố 2, thị trấn L, huyện L,
tỉnh Đắk Lắk.
2. Về án phí và tạm ứng án phí:
- Về án phí: Buộc bị đơn anh Lê Kim H phải chịu 300.000đồng (ba trăm
nghìn đồng) án phí dân s sơ thẩm.
- Về tiền tạm ứng án phí: Ông Trần Xuân T được nhận lại 300.000 đồng (ba
trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Chi cục Thi hành án Dân s huyện
Lắk, tỉnh Đắk Lắk theo biên lai thu số AA/2021/0021061 ngày 18/7/2023.
3. Về chi phí tố tụng khác: Buộc anh Lê Kim H có nghĩa vụ hoàn trả lại cho ông
Trần Xuân T 8.000.000 đồng (tám triệu đồng )chi phí xem xét thẩm định tại chỗ và
định giá tài sản.
4. Về quyền kháng cáo: Đương s có mặt tại phiên toà được quyền kháng cáo
bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương s vắng mặt được quyền
kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận hoặc bản án hoặc bản án được
niêm yết.
Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành án theo quy định tại Điều
2 Luật THADS thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền
7
thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị
cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật
THADS; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật
THADS./.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
- TAND tỉnh Đắk Lắk; THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- VKSND huyện Lắk;
- Các đương s;
- Lưu hồ sơ vụ án.
(Đã ký)
Văn Công Cường
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 15/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 14/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 10/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 10/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 09/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 09/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 04/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 02/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 01/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 31/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 31/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 31/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 27/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 26/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 26/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 26/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm