Bản án số 06/2023/HS-ST ngày 21/02/2023 của TAND huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng tội danh
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 06/2023/HS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 06/2023/HS-ST
| Tên Bản án: | Bản án số 06/2023/HS-ST ngày 21/02/2023 của TAND huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản |
|---|---|
| Tội danh: | 139.Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Bộ luật hình sự năm 1999) |
| Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
| Tòa án xét xử: | TAND huyện Đông Giang (TAND tỉnh Quảng Nam) |
| Số hiệu: | 06/2023/HS-ST |
| Loại văn bản: | Bản án |
| Ngày ban hành: | 21/02/2023 |
| Lĩnh vực: | Hình sự |
| Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Thông tin về vụ án: |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TOÀ ÁN NHÂN DÂN CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
HUYỆN Đ Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
TỈNH QUẢNG NAM
Bản án số: 06/2023/HS-ST
Ngày: 21/02/2023
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Đ, TỈNH QUẢNG NAM
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán- Chủ tọa phiên tòa: Ông Lê Tự Soái.
Các Hội thẩm nhân dân: Bà Lê Thị Kim Phụng và ông Nguyễn Công Hiền.
- Thư ký phiên tòa: Ông Mạc Văn Hinh- Thư ký Tòa án nhân dân huyện Đ.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ tham gia phiên toà: Ông Nguyễn
Phước- Kiểm sát viên.
Ngày 21 tháng 02 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Quảng
Nam tiến hành mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số:
09/2023/TLST-HS ngày 19 tháng 01 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử
số: 02/2023/QĐXXST-HS ngày 30 tháng 01 năm 2023 đối với các bị cáo:
1. Họ và tên: Trương Thanh T, sinh năm 1980 tại huyện D, tỉnh Quảng Nam;
nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: thôn A , xã H, huyện D, tỉnh
Quảng Nam; giới tính: Nam; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ học vấn: 12/12; con ông
Trương T (đã chết) và bà Hồ Thị A (sinh năm 1956); có vợ là Trần Thị T (sinh năm
1982) và có 03 con (con lớn sinh năm 2002, con nhỏ sinh năm 2018); tiền án, tiền sự:
Không.
Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 16/3/2022, đến ngày 21/10/2022 thay đổi biện
pháp ngăn chặn (Bảo lĩnh); có mặt tại phiên tòa.
2. Họ và tên: Trần Thị T, sinh năm 1982 tại huyện Duy X, tỉnh Quảng Nam;
nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: thôn A, xã H, huyện D, tỉnh Quảng
Nam; giới tính: Nữ; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ học vấn: 12/12; con ông Trần
Thanh B (sinh năm 1956) và bà Nguyễn Thị T (sinh năm 1957); có chồng là Trương
Thanh T (sinh năm 1980) và có 03 con (con lớn sinh năm 2002, con nhỏ sinh năm
2018); tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú; có mặt
tại phiên tòa.
* Bị hại: Bà Nguyễn Thị Q, sinh năm 1972; trú tại: thôn P, xã N, huyện Đ, tỉnh
Quảng Nam; vắng mặt.
* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án:
- Ông Phan Đình N, sinh năm 1995; trú tại: thôn P, xã N, huyện Đ, tỉnh Quảng
Nam; vắng mặt.
- Ông Nguyễn Hoàng Q, sinh năm 1996; trú tại: thôn P, xã N, huyện Đ, tỉnh
Quảng Nam; vắng mặt.
2
+ Ông Nguyễn Đắc A, sinh năm 1967; trú tại: thôn 3, xã H, huyện Đ, tỉnh
Quảng Nam; vắng mặt.
- Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1989; trú tại: khu H, thị trấn A, huyện Đ, tỉnh
Quảng Nam; có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án
được tóm tắt như sau:
Ngày 14/12/2019, Trương Thanh T ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất số BY799885, thửa đất số 1096, tờ
bản đồ số 26, địa chỉ thôn 4, xã H, huyện D, tỉnh Quảng Nam mang tên Trương Thanh
T cho ông Nguyễn Văn T (sinh năm 1963; trú thôn B, xã X, huyện Q, tỉnh Quảng
Nam) và được Văn phòng công chứng Đặng Thị B (địa chỉ 30 Nguyễn Thành H, thị
trấn N, huyện D) chứng thực và ông Nguyễn Văn T giữ giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất trên.
Đến thời gian khoảng tháng 01 năm 2021, do làm ăn thua lỗ nợ nần nên Trương
Thanh T truy cập mạng xã hội Facebook thấy có người làm giấy tờ, tài liệu giả nên
nảy sinh ý định làm giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả để thế chấp vay tiền trả
nợ. T liên hệ với một tài khoản Facebook (không rõ nhân thân, lai lịch) và đặt làm một
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất số
BY799885, thửa đất số 1096, tờ bản đồ số 26; địa chỉ thôn 4, xã H, huyện D, tỉnh
Quảng Nam mang tên Trương Thanh T giả với số tiền là 10.000.000 đồng. Tài khoản
trên yêu cầu T chuyển trước vào tài khoản mang tên Nguyễn Long A số tài khoản
12815867 mở tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần A số tiền 500.000 đồng để đặt
cọc và cung cấp thông tin cá nhân để làm giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả.
Khoảng 07 ngày sau, T nhận được 01 bưu phẩm bên trong có 01 giấy chứng nhận giả
trên và giao lại cho nhân viên giao hàng số tiền 9.500.000 đồng.
Sau khi nhận được giấy chứng nhận giả, T đưa cho vợ là Trần Thị T và nói “tôi
mới làm cái sổ trên mạng đây, điện chỗ thằng Q qua cầm đỡ lấy tiền trả nợ”. Nghe
vậy, Trần Thị T biết là giấy tờ giả nên nói lại “làm ri ở tù chết”, nhưng Trương Thanh
T nói “mình vay tư nhân chớ có chi đâu mà sợ, vay đỡ vài bữa rồi bán đất trả nợ”.
Nghe vậy, T đồng ý và điện thoại Nguyễn Hoàng Q (là nhân viên dịch vụ cầm đồ M)
để trao đổi việc cầm cố giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài
sản khác gắn liền với đất giả. Sau đó, Q cùng Phan Đình N (là nhân viên dịch vụ cầm
đồ M) đến nhà của vợ chồng Trương Thanh T, Trần Thị T để xem đất và giấy tờ. Tại
đây, Trương Thanh T và Trần Thị T thế chấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BY799885 mang tên Trương
Thanh T giả cho dịch vụ cầm đồ M (địa chỉ thôn P, xã N, huyện Đ) để vay tiền số tiền
200.000.000 đồng với lãi suất là 5%/tháng. Sau khi thống nhất, vợ chồng Trương
Thanh T và Trần Thị T đưa giấy chứng nhận giả trên cho Q và N để làm thủ tục. Đến
ngày 29/01/2021, để bảo đảm cho việc cầm cố trên nên Trương Thanh T và Phan Đình
N đến Văn phòng Công chứng Đ để ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
và nhà ở cho Phan Đình N và hợp đồng đã được Văn phòng Công chứng Đ chứng
thực. Sau đó, Trương Thanh T và Trần Thị T ký hợp đồng cầm cố 01 giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất giả với bà
Nguyễn Thị Q (là chủ dịch vụ cầm đồ M) và bà Q đưa cho vợ chồng Trương Thanh T
và Trần Thị T số tiền 200.000.000 đồng, đồng thời dịch vụ cầm đồ M giữ giấy chứng
3
nhận giả trên. Trong thời gian này, vợ chồng Trương Thanh T và Trần Thị T có trả
tiền lãi cho dịch vụ cầm đồ M số tiền là 10.000.000 đồng. Đến ngày 27/4/2021,
Trương Thanh T và Trần Thị T tiếp tục sử dụng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất giả trên vay thêm 160.000.000
đồng thì dịch vụ cầm đồ M đồng ý và hai bên ký lại hợp đồng cầm cố với số tiền là
360.000.000 đồng và thời hạn cầm cố là đến ngày 27/7/2021. Trương Thanh T và Trần
Thị T nhận số tiền 140.000.000 đồng do dịch vụ cầm đồ trừ đi 02 tháng tiền lãi mà vợ
chồng Trương Thanh T và Trần Thị T chưa trả. Đến hạn thanh lý hợp đồng, do
Trương Thanh T và Trần Thị T không trả tiền nên Phan Đình N cầm giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BY799885
mang tên Trương Thanh T giả đến UBND xã H, huyện D xác nhận nguồn gốc đất thì
phát hiện giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có dấu hiệu làm giả nên trình báo cơ
quan Công an để giải quyết.
Tại kết luận giám định số: 14/KL-PC09(TL) ngày 18/02/2022 của Phòng kỹ
thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Nam, kết luận:
- Chữ ký, chữ viết họ tên Trần Thị T (dưới chữ ký) trên tài liệu cần giám định
ký hiệu A so với chữ ký, chữ viết đứng tên Trần Thị T trên các tài liệu mẫu so sánh ký
hiệu M1 và M2 là do cùng một người ký, viết ra.
Tại kết luận giám định số: 15/KL-PC09(TL) ngày 18/02/2022 của Phòng kỹ
thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Nam, kết luận:
- Chữ ký, chữ viết họ tên Trương Thanh T (dưới chữ ký) trên tài liệu cần giám
định ký hiệu A1 và A2 so với chữ ký, chữ viết đứng tên Trương Thanh T trên các tài
liệu mẫu so sánh ký hiệu M1, M2 và M3 là do cùng một người ký, viết ra.
Tại kết luận giám định số: 16/KL-PC09(TL) ngày 18/02/2022 của Phòng kỹ
thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Nam, kết luận:
- Phôi của tài liệu cần giám định ký hiệu A so với phôi mẫu so sánh ký hiệu M1
không phải được in ra từ cùng phương pháp in.
- Chữ ký đứng tên Nguyễn Công D trên tài liệu cần giám định ký hiệu A so với
chữ ký đứng tên Nguyễn Công D trên các tài liệu mẫu so sánh ký hiệu từ M2 đến M5
không phải do cùng một người ký ra.
- Hình dấu tròn màu đỏ có nội dung “ỦY BAN NHÂN DÂN H. D -T.QUẢNG
NAM” trên tài liệu cần giám định ký hiệu A so với hình dấu tròn màu đỏ có cùng nội
dung trên các tài liệu mẫu so sánh ký hiệu M2, M4, M6 không phải do cùng một con
dấu đóng ra.
Tại bản Cáo trạng số: 11/CT-VKS ngày 18/01/2023 của Viện kiểm sát nhân dân
huyện Đ, tỉnh Quảng Nam đã truy tố bị cáo Trương Thanh T về tội “Lừa đảo chiếm
đoạt tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 174 Bộ luật Hình sự năm 2015 và
tội“Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức” theo quy định tại điểm b khoản 3
Điều 341 Bộ luật Hình sự năm 2015; bị cáo Trần Thị T về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài
sản” theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 174 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ giữ nguyên quan điểm
như Cáo trạng truy tố đối với các bị cáo, phân tích tính chất mức độ nguy hiểm cho xã
hội về hành vi phạm tội của các bị cáo và nhân thân cũng như các tình tiết tăng nặng,
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của từng bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:
- Đối với bị cáo Trương Thanh T:
4
+ Căn cứ điểm a khoản 3 Điều 174; điểm b, s (02 tình tiết là thành khẩn khai
báo, ăn năn hối cải) khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 54 Bộ luật Hình sự năm
2015; xử phạt bị cáo từ 36 đến 42 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.
+ Căn cứ điểm b khoản 3 Điều 341; điểm s (02 tình tiết là thành khẩn khai báo,
ăn năn hối cải) khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 54
Bộ luật Hình sự năm 2015; xử phạt bị cáo từ 24 đến 30 tháng tù về tội “Làm giả con
dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức”.
+ Căn cứ Điều 55 Bộ luật Hình sự năm 2015 để tổng hợp hình phạt chung cho cả
02 tội từ 60 đến 72 tháng tù.
- Đối với bị cáo Trần Thị T:
+ Căn cứ điểm a khoản 3 Điều 174; điểm b, s (02 tình tiết là thành khẩn khai
báo, ăn năn hối cải) khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 65; Điều
54 Bộ luật Hình sự năm 2015; xử phạt bị cáo từ 24 đến 30 tháng tù nhưng cho hưởng
án treo, thời gian thử thách từ 48 đến 60 tháng về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.
* Về vật chứng: Tạm giữ 01 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu
nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất giả; 02 hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất và nhà ở; 01 hợp đồng cầm cố tài sản. Tất cả những vật chứng trên được lưu trong
hồ sơ vụ án.
* Về dân sư: Các bị cáo Trương Thanh T và Trần Thị T đã trả lại số tiền
330.000.000 đồng cho bị hại Nguyễn Thị Q và bị hại không yêu cầu gì thêm nên miễn
xét.
Tại phiên tòa các bị cáo Trương Thanh T và Trần Thị T đã khai nhận hành vi
phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng đã nêu.
Bị hại Nguyễn Thị Q; những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án
Phan Đình N, Nguyễn Hoàng Q, Nguyễn Đắc A và Nguyễn Thị H tất cả đã khai nhận
phù hợp lời khai của các bị cáo và sự việc như đã cung cấp trong giai đoạn điều tra.
Tại lời nói sau cùng, các bị cáo nhận thức được hành vi của bị cáo là vi phạm
pháp luật và mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được
tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng:
Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Đ, Điều tra
viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố
đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình
sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo không có ý kiến hay khiếu
nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố
tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến
hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về nội dung:
{2.1} Xét lời nhận tội của các bị cáo Trương Thanh T và Trần Thị T tại phiên
tòa phù hợp với lời khai tại Cơ quan Cảnh sát điều tra, bị hại, những người có quyền
lợi và nghĩa vụ liên quan; kết luận giám định, vật chứng thu giữ và các tài liệu, chứng
cứ khác được Cơ quan điều tra chứng minh có tại hồ sơ vụ án và đã được thẩm tra tại
phiên tòa. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để xác định: Khoảng thời gian tháng 01/2021,
5
do làm ăn thua lỗ nợ nần nên bị cáo Trương Thanh T nảy sinh ý định làm giả giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất giả để lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Bị cáo Trương Thanh
T đã thông qua mạng xã hội Facebook cung cấp thông tin cá nhân của mình để một
người (không rõ nhân thân, lai lịch) làm 01 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền
sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất giả. Sau khi có giấy tờ giả bị cáo T cùng
bị cáo Trần Thị T sử dụng cầm cố 02 lần nhằm lừa đảo bị hại Nguyễn Thị Q (trú tại
thôn P, xã N, huyện Đ là chủ dịch vụ cầm đồ M) để chiếm đoạt số tiền 360.000.000
đồng.
Hành vi bị cáo Trương Thanh T cung cấp thông tin cho một người trên mạng
Facebook (không rõ nhân thân, lai lịch) làm giả giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
giả, bằng thủ đoạn gian dối sử dụng giấy tờ giả để chiếm đoạt tài sản của bị hại
Nguyễn Thị Q số tiền 360.000.000 đồng đã phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” với
tình tiết định khung “Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến 500.000.000
đồng” theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 174 Bộ luật Hình sự năm 2015 và tội
“Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức” với tình tiết định khung “Sử dụng
con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ khác thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm
đặc biệt nghiêm trọng” theo quy định tại điểm b khoản 3 Điều 341 Bộ luật Hình sự
năm 2015; hành vi bị cáo Trần Thị T bằng thủ đoạn gian dối sử dụng giấy tờ giả để
chiếm đoạt tài sản của bị hại Nguyễn Thị Q số tiền 360.000.000 đồng đã phạm tội
“Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” với tình tiết định khung “Chiếm đoạt tài sản trị giá từ
200.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng” theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 174
Bộ luật Hình sự năm 2015. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ đã đưa ra các
chứng cứ buộc tội và truy tố các bị cáo Trương Thanh T và Trần Thị T về các tội danh
nêu trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội và phù hợp với quy định pháp luật.
{2.2} Các bị cáo Trương Thanh T và Trần Thị T đều nhận thức rõ quyền sở hữu
hợp pháp về tài sản của người khác phải được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ, mọi
hành vi xâm phạm đến tài sản của người khác là vi phạm pháp luật. Do thiếu ý thức tôn
trọng pháp luật, động cơ tư lợi nên các bị cáo Trương Thanh T và Trần Thị T đã cố ý
thực hiện việc phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản của người khác; bị cáo Trương
Thanh T đã cố ý thực hiện việc phạm tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức.
Hành vi mà các bị cáo gây ra là rất nguy hiểm cho xã hội, không chỉ trực tiếp xâm
phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp được pháp luật bảo vệ, xâm phạm hoạt động
bình thường của cơ quan, tổ chức trong lĩnh vực quản lý hành chính Nhà nước, mà còn
gây ra tâm lý hoang mang trong đời sống nhân dân, ảnh hưởng xấu đến tình hình an
ninh trật tự tại địa phương. Do vậy, theo quy định pháp luật cần phải xử phạt các bị cáo
một cách nghiêm minh, tương xứng với tính chất mức độ hành vi phạm tội của từng bị
cáo để răn đe và ngăn ngừa tội phạm chung.
Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội, vai trò, nhân thân, tình tiết tăng nặng và
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo thì thấy:
- Bị cáo Trương Thanh T: Bị cáo T cung cấp thông tin cá nhân của mình để
cho một đối tượng (không rõ nhân thân, lai lịch) làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan,
tổ chức nhằm mục đích sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản trái pháp luật. Sau khi có giấy tờ giả bị cáo chủ động khởi xướng, rủ rê bị cáo Trần
Thị T 02 lần cầm cố lừa đảo bị hại chiếm đoạt tổng số tiền 360.000.000 đồng nên phải
chịu tình tiết tăng nặng “Phạm tội 02 lần trở lên” theo quy định tại điểm g khoản 1
Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015. Tuy nhiên xét thấy, bị cáo không trực tiếp mà chỉ
6
cung cấp thông tin cá nhân của mình để cho một đối tượng (không rõ nhân thân, lai
lịch) làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức để sử dụng thực hiện hành vi lừa
đảo. Khi phạm tội bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự, lần đầu phạm tội.
Sau khi hành vi phạm tội lừa đảo bị phát hiện bị cáo cùng với bị cáo Trần Thị T nhanh
chóng trả lại tiền chiếm đoạt trái pháp luật cho bị hại nhằm khắc phục hậu quả gây ra là
tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm b khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm
2015. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo hành vi
phạm tội của mình, tỏ rõ sự ăn năn hối cải (là 02 tình tiết giảm nhẹ thành khẩn khai
báo, ăn năn hối cải) được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm
2015. Theo nội dung Đơn xin xét xử vắng mặt bị hại Nguyễn Thị Q xin giảm nhẹ hình
phạt cho bị cáo, nhiều người thân trong gia đình bị cáo có công lao trong sự nghiệp
cách mạng được Nhà nước tặng thưởng nhiều danh hiệu cao quý, bị cáo là lao động
chính trong gia đình, các con còn nhỏ dại, mẹ già thường xuyên đau bệnh có xác nhận
của chính quyền địa phương là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại khoản 2 Điều 51
Bộ luật Hình sự năm 2015. Hội đồng xét xử sẽ xem xét các tình tiết này để giảm nhẹ
một phần hình phạt cho bị cáo khi lượng hình.
Xét thấy, bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ nên Hội đồng xét xử áp dụng Điều
54 Bộ luật Hình sự năm 2015 để quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung
hình phạt được áp dụng.
Về tổng hợp hình phạt: Bị cáo Trương Thanh T phạm 02 tội, Hội đồng xét xử
áp dụng khoản 1 Điều 55 Bộ luật Hình sự năm 2015 quyết định hình phạt đối với từng
tội và tổng hợp hình phạt chung đối với bị cáo Tường.
- Bị cáo Trần Thị T: Bị cáo T thực hiện hành vi phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản có vai trò chỉ là thứ yếu, khi nghe bị cáo Trương Thanh T rủ rê thì bị cáo từ chối,
nhưng do mối quan hệ vợ chồng khi bị cáo Trương Thanh T tác động cầm đỡ lấy tiền
trả nợ thì bị cáo nghe theo cùng bị cáo Trương Thanh T sử dụng giấy chứng nhận
quyền sử dụng giả 02 lần cầm cố để lừa đảo chiếm đoạt tài sản bị hại tổng số tiền
360.000.000 đồng nên bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng “Phạm tội 02 lần trở lên”
theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015. Tuy nhiên xét
thấy, khi phạm tội bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự, lần đầu phạm tội.
Sau khi hành vi phạm tội lừa đảo bị phát hiện bị cáo cùng với bị cáo Trương Thanh T
nhanh chóng trả lại tiền chiếm đoạt trái pháp luật cho bị hại nhằm khắc phục hậu quả
gây ra là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm b khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự
năm 2015. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo hành vi
phạm tội của mình, tỏ rõ sự ăn năn hối cải (là 02 tình tiết giảm nhẹ thành khẩn khai
báo, ăn năn hối cải) được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm
2015. Theo nội dung Đơn xin xét xử vắng mặt bị hại Nguyễn Thị Q xin giảm nhẹ hình
phạt cho bị cáo, nhiều người thân trong gia đình bị cáo có công lao trong sự nghiệp
cách mạng được Nhà nước tặng thưởng nhiều danh hiệu cao quý, bị cáo trực tiếp nuôi
dưỡng 03 con còn nhỏ dại, chăm sóc mẹ chồng già yếu (mẹ bị cáo T) thường xuyên
đau bệnh có xác nhận của chính quyền địa phương là tình tiết giảm nhẹ được quy định
tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015. Hội đồng xét xử sẽ xem xét các tình
tiết này để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo khi lượng hình.
Xét thấy, bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ nên Hội đồng xét xử áp dụng Điều
54 Bộ luật Hình sự năm 2015 để quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung
hình phạt được áp dụng.
7
Xét hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản của bị cáo vai trò chỉ là thứ yếu, có nhân
thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự, trực tiếp nuôi dưỡng 03 còn còn nhỏ dại, chăm sóc
mẹ chồng già yếu (mẹ bị cáo T) thường xuyên đau bệnh, có nơi cư trú cụ thể, rõ ràng,
có khả năng tự cải tạo nên áp dụng Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015 cho bị cáo
được hưởng án treo, ấn định thời gian thử thách và giao cho chính quyền địa phương
giám sát, giáo dục đối với bị cáo cũng thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật, cho bị
cáo có cơ hội sửa chữa sai lầm, có điều kiện chăm lo cuộc sống gia đình con nhỏ, mẹ
già và trở thành công dân có ích cho xã hội.
{2.3} Về trách nhiệm dân sự: Các bị cáo Trương Thanh T và Trần Thị T đã trả
lại số tiền 330.000.000 đồng cho bị hại Nguyễn Thị Q và bị hại không yêu cầu các bị
cáo bồi thường gì thêm nên không xét.
{2.4} Về vật chứng: Tạm giữ 01 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở
hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất giả; 02 hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất và nhà ở; 01 hợp đồng cầm cố tài sản. Tất cả những vật chứng trên được lưu
trong hồ sơ vụ án.
{2.5} Về vấn đề liên quan đến vụ án: Đối với số tài khoản 12815867 mở tại
Ngân hàng Thương mại Cổ phần A có tên chủ tài khoản Nguyễn Long A; nơi
đăng ký HKTT: 220/16 Lê Văn T, Phường 9, quận G, thành phố Hồ Chí Minh. Tuy
nhiên, qua điều tra xác minh địa chỉ trên không có người nào tên Nguyễn Long A, Cơ
quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đ tách ra để điều tra, khi nào điều tra làm rõ xử
lý sau.
Đối với việc Văn phòng Công chứng Đ đã Công chứng hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất giả giữa Trương Thanh T và Phan Đình N, quá trình điều
tra Công chứng viên không xác định được giấy tờ giả. Hơn nữa, trước khi tiến hành
chứng thực hợp đồng, Công chứng viên đã kiểm tra trên hệ thống phần mềm quản lý
hồ sơ công chứng CMC tuy nhiên do xảy ra lỗi nên không kiểm tra được và đã tiến
hành công chứng hợp đồng. Do đó không đủ cơ sở để truy cứu trách nhiệm hình sự
đối với Công chứng viên là phù hợp.
{2.6} Về án phí: Các bị cáo Trương Thanh T và Trần Thị T phải chịu án phí
hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
1. Căn cứ điểm a khoản 3 Điều 174; điểm b khoản 3 Điều 341; điểm b, s khoản
1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 54; khoản 1 Điều 55 Bộ
luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Tuyên bố bị cáo Trương Thanh T phạm các tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”
và “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức”.
Xử phạt bị cáo Trương Thanh T 03 (Ba) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài
sản” và 02 (Hai) năm tù về tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức”;
tổng hợp hình phạt chung cho cả 02 tội là 05 (Năm) năm tù; được khấu trừ thời tạm
giam trước là 07 (Bảy) tháng 05 (Năm) ngày (từ ngày 16/3/2022 đến ngày
21/10/2022). Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị cáo bị bắt thi hành
án.
2. Căn cứ điểm a khoản 3 Điều 174; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm
g khoản 1 Điều 52; Điều 65; Điều 54 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung
năm 2017).
8
Tuyên bố bị cáo Trần Thị T phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.
Xử phạt bị cáo Trần Thị Thúy 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng tù nhưng cho
hưởng án treo; thời gian thử thách là 05 (Năm) năm, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm
(ngày 21/02/2023).
Giao bị cáo Trần Thị T cho Ủy ban nhân dân xã H, huyện D, tỉnh Quảng Nam
giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trong trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư
trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 3 Điều 92 Luật Thi hành án hình sự.
Trong thời gian thử thách án treo, nếu bị cáo Trần Thị T cố ý vi phạm nghĩa vụ
theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết
định buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù đã cho hưởng án.
3. Căn cứ Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án
phí, lệ phí Tòa án.
Buộc các bị cáo Trương Thanh T và Trần Thị T mỗi bị cáo phải chịu 200.000
đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ
án có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ
ngày tuyên án sơ thẩm. Bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại
phiên tòa có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận
được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
- Các cơ quan tiến tố tụng; Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà
- Người tham gia tố tụng;
- Chi cục THADS huyện Đ;
- Vụ Giám đốc kiểm tra I);
- Lưu hồ sơ vụ án.
Lê Tự Soái
9
10
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 05/04/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 28/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 06/02/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 01/02/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 01/02/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 01/02/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 31/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 30/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 29/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 26/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 25/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Bản án số 02/2024/HS-ST ngày 17-01-2024 của TAND tỉnh Hậu Giang về về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Ban hành: 17/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 12/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 28/12/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 28/12/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 27/12/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 26/12/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 22/12/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 22/12/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 22/12/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm