Bản án số 05/2025/HNGĐ-ST ngày 27/06/2025 của TAND tỉnh Thái Nguyên về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 05/2025/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 05/2025/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 05/2025/HNGĐ-ST
Tên Bản án: | Bản án số 05/2025/HNGĐ-ST ngày 27/06/2025 của TAND tỉnh Thái Nguyên về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Thái Nguyên |
Số hiệu: | 05/2025/HNGĐ-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 27/06/2025 |
Lĩnh vực: | Hôn nhân gia đình |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn anh Nguyễn Văn T |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH BẮC KẠN
Bản án số: 05/2025/HNGĐ-ST
Ngày: 27/6/2025
V/v tranh chấp ly hôn, nuôi con
chung sau ly hôn
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẮC KẠN
Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Vi Thị Tuyết Mai
Các Hội thẩm nhân dân: Ông Vi Thanh Cầm
Ông Lương Đình Bảo
Thư ký phiên tòa: Bà Lường Thị Hiền – Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh
Bắc Kạn.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Kạn tham gia phiên toà: Ông
Nông Văn Đổi - Kiểm sát viên.
Ngày 27 tháng 6 năm 2025 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Kạn, Tòa
án nhân dân tỉnh Bắc Kạn xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân gia đình thụ
lý số: 10/2025/TLST-HNGĐ ngày 09/6/2025 về việc “Ly hôn, nuôi con chung
sau ly hôn”.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 06/2025/QĐXXST-HNGĐ ngày
23 tháng 6 năm 2025 giữa các đương sự:
*Nguyên đơn: Anh Nguyễn Văn T. Sinh năm 1993. Địa chỉ: Thôn K, xã
C, huyện N, tỉnh Bắc Kạn. Vắng mặt, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
*Bị đơn: Chị Phùng Thị X, sinh năm 1997.
Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn K, xã C, huyện N, tỉnh Bắc Kạn.
Hiện nay sinh sống và làm việc tại: Công ty Cổ phần H1, số G, Đạm Văn
H, thôn Đ, xã T, huyện M, lãnh thổ Đài Loan. Vắng mặt, có đơn đề nghị xét xử
vắng mặt.
- Người được ủy quyền nhận văn bản tố tụng: Chị Phùng Thị P, sinh năm
1993, địa chỉ: Bản C, xã P, huyện L, tỉnh Tuyên Quang. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo Đơn khởi kiện ly hôn ngày 25/9/2024, đơn xin ly hôn ngày
13/5/2025, Biên bản lấy lời khai nguyên đơn anh Nguyễn Văn T trình bày:
2
Về quan hệ hôn nhân: Anh và chị Phùng Thị X kết hôn trên cơ sở tự
nguyện có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã C, huyện N, tỉnh Bắc Kạn
ngày 13/11/2017. Sau khi kết hôn, thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh
phúc và có 01 con chung là cháu Nguyễn Gia N, sinh ngày 18/12/2017. Nhưng
sau đó đã phát sinh nhiều mâu thuẫn, bất đồng quan điểm dẫn đến thường xuyên
cãi vã, vợ chồng đã cố gắng hàn gắn nhưng không thành.
Ngày 08/10/2022, chị X đi xuất khẩu lao động tại Đài Loan, từ đó vợ
chồng sống ly thân, đến nay chị X cũng chưa có ý định về Việt Nam mà vẫn tiếp
tục ở lại nước ngoài làm việc. Trong thời gian sinh sống và làm việc tại Đài
Loan, chị X đã có lần yêu cầu anh làm đơn ly hôn. Nay xác định tình cảm vợ
chồng không còn, cuộc sống chung không thể kéo dài nên anh đề nghị Tòa án
giải quyết cho anh được ly hôn với chị X.
Về con chung: Trong thời kỳ hôn nhân, anh và chị X có 01 con chung là
cháu Nguyễn Gia N, sinh ngày 18/12/2017. Hiện nay cháu đang sinh sống cùng
anh tại thôn K, xã C, huyện N, tỉnh Bắc Kạn và đang học tại Trường tiểu học xã
C, huyện N, cháu hoàn toàn khỏe mạnh và phát triển bình thường. Khi ly hôn,
anh yêu cầu được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con chung cho đến
khi con đủ 18 tuổi.
Về cấp dưỡng nuôi con chung: Anh không yêu cầu chị X phải cấp dưỡng
nuôi con chung, nếu chị X tự nguyện thì anh không ngăn cản.
Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết.
Về các thủ tục tố tụng tại Tòa án: Do chị X đang sinh sống và làm việc ở
nước ngoài không thể có mặt trực tiếp tham gia quá trình Tòa án giải quyết vụ
việc ly hôn và để sớm ổn định cuộc sống anh đề nghị Tòa án không tiến hành
hòa giải, mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp tiếp cận công khai chứng cứ và
hòa giải, phiên tòa xét xử vụ án trước các mốc thời gian mà Tòa án đã ấn định
tại Thông báo thụ lý vụ án, vắng mặt trong tất cả các phiên họp, phiên tòa xét
xử.
Tại Bản trình bày ý kiến của bị đơn đối với yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn, chị Phùng Thị X trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh T kết hôn trên cơ sở tự nguyện như anh T
đã trình bày. Sau khi kết hôn, thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc và
có 01 con chung là cháu Nguyễn Gia N, sinh ngày 18/12/2017. Nhưng sau đó đã
phát sinh nhiều mâu thuẫn, bất đồng quan điểm dẫn đến thường xuyên cãi vã, vợ
chồng đã cố gắng hàn gắn nhưng không thành.
Ngày 08/10/2022, chị đi xuất khẩu lao động tại Đài Loan, từ đó vợ chồng
sống ly thân, đến nay chị cũng chưa có ý định về Việt Nam mà vẫn tiếp tục ở lại
nước ngoài làm việc. Trong thời gian sinh sống và làm việc tại Đài Loan, chị đã
có lần yêu cầu anh T làm đơn ly hôn. Nay xác định tình cảm vợ chồng không
còn, cuộc sống chung không thể kéo dài nên chị nhất trí với yêu cầu xin ly hôn
của anh T, đề nghị Tòa án xem xét giải quyết.
Về con chung: Chị xác nhận như phần trình bày của anh T. Trong thời kỳ
hôn nhân, chị và anh T có 01 con chung là cháu Nguyễn Gia N, sinh ngày
3
18/12/2017. Do chị phải đi làm ăn xa, không có điều kiện trực tiếp chăm sóc
con, do vậy chị nhất trí giao con chung cho anh T tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc,
giáo dục con cho đến khi trưởng thành.
Về cấp dưỡng nuôi con chung: Do anh T không yêu cầu cấp dưỡng nên
chị nhất trí.
Về tài sản chung, khoản nợ chung: Không yêu cầu Tòa án xem xét, giải
quyết.
Về các thủ tục tố tụng tại Tòa án: Do chị đang sinh sống và làm việc ở
nước ngoài không thể có mặt trực tiếp tham gia quá trình Tòa án giải quyết vụ
việc ly hôn nên chị đề nghị:
- Vắng mặt trong toàn bộ quá trình giải quyết vụ án và phiên tòa xét xử.
- Tòa án tiến hành mở Phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công
khai chứng cứ và hòa giải và phiên tòa xét xử trước các mốc thời gian mà Tòa
án đã ấn định tại Thông báo thụ lý vụ án.
- Ủy quyền cho cho chị gái là Phùng Thị P nhận toàn bộ các văn bản tố
tụng của Tòa án và có trách nhiệm thông báo nội dung của các văn bản tố tụng
của Tòa án cho chị.
Tại Biên bản lấy lời khai, con chung Nguyễn Gia N trình bày:
Cháu là Nguyễn Gia N sinh ngày 18/12/2017, là con chung của anh
Nguyễn Văn T và chị Phùng Thị X. Hiện nay, cháu đang sống cùng bố tại thôn
K, xã C, huyện N, tỉnh Bắc Kạn và đang học tại Trường tiểu học xã C, huyện N,
cháu hoàn toàn khỏe mạnh và phát triển bình thường. Nay bố mẹ cháu ly hôn,
cháu có nguyện vọng được sống cùng bố và không yêu cầu mẹ cấp dưỡng.
Tại Biên bản lấy lời khai, chị Phùng Thị P trình bày:
Chị là chị gái ruột của chị Phùng Thị X. Hiện nay, chị X đã ủy quyền cho
chị nhận các văn bản tố tụng của Tòa án, chị hoàn toàn nhất trí việc ủy quyền
của chị X, chị sẽ có trách nhiệm nhận các văn bản tố tụng của Tòa án và gửi
hoặc thông báo lại nội dung của các văn bản cho chị X.
Tại phiên tòa:
- Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Kạn phát biểu quan điểm về
việc giải quyết vụ án:
Về thủ tục tố tụng: Việc tuân theo pháp luật của những người tiến hành tố
tụng và việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng từ khi thụ lý
vụ án đến trước khi nghị án đều thực hiện đúng quy định của pháp luật tố tụng
dân sự. Việc mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ
và hòa giải và phiên tòa xét xử trước các mốc thời gian mà Tòa án đã ấn định tại
Thông báo thụ lý vụ án và việc xét xử vắng mặt các đương sự tại phiên tòa là
đúng quy định của pháp luật.
Về nội dung vụ án:
4
Về quan hệ hôn nhân: Cả anh T và chị X đều xác định tình cảm vợ chồng
không còn nên việc anh T xin ly hôn, chị X nhất trí ly hôn là có căn cứ cần được
chấp nhận.
Về con chung: Trong thời kỳ hôn nhân anh T và chị X có 01 con chung là
cháu Nguyễn Gia N sinh ngày 18/12/2017. Hiện nay con đang sinh sống cùng
anh T, cháu khỏe mạnh, phát triển bình thường và đang học tại Trường tiểu học
xã C, huyện N, tỉnh Bắc Kạn. Do chị X đang sinh sống, làm việc tại Đài Loan
không có điều kiện để trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc con chung, cháu N ở với
bố được bố quan tâm, chăm sóc, bố cháu có chỗ ở và thu nhập ổn định nên đảm
bảo lợi ích về mọi mặt của cháu, theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình,
cần giao cháu Nguyễn Gia N cho anh T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo
dục là phù hợp.
Về cấp dưỡng nuôi con chung, tài sản chung và nợ chung: Do các đương
sự không yêu cầu nên không xem xét, giải quyết.
Đương sự phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại
phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận
định:
[1] Về thủ tục tố tụng:
[1.1] Về thẩm quyền: Bị đơn trước khi sinh sống và làm việc tại nước
ngoài cư trú tại tỉnh Bắc Kạn, hiện nay bị đơn đang sinh sống và làm việc tại Đài
Loan. Do vậy đủ căn cứ xác định đây là vụ án hôn nhân gia đình có yếu tố nước
ngoài. Việc Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Kạn thụ lý, giải quyết vụ án là phù hợp
quy định tại Điều 28, 37, 469 của Bộ luật tố tụng dân sự 2015.
[1.2] Về sự vắng mặt của bị đơn tại quá trình giải quyết vụ án và phiên
tòa xét xử: Hiện nay, bị đơn đang sinh sống và làm việc tại nước ngoài không
thể về Việt Nam tham gia tố tụng, vụ án thuộc trường hợp không hòa giải được.
Quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn, bị đơn đều đề nghị xét xử vắng mặt. Do
vậy, việc Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Kạn giải quyết và xét xử vắng mặt nguyên
đơn, bị đơn là phù hợp quy định của pháp luật tại Điều 228, khoản 5 Điều 477
và Điều 478 của Bộ luật tố tụng dân sự.
[1.3] Về việc ủy quyền nhận các văn bản tố tụng của Tòa án: Chị Phùng
Thị X ủy quyền cho chị Phùng Thị P nhận các văn bản tố tụng của Tòa án, chị P
nhất trí nhận ủy quyền của bị đơn và cam kết thực hiện đầy đủ, đúng các nội
dung nhận ủy quyền. Do vậy, Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Kạn sẽ thực hiện việc
tống đạt các văn bản tố tụng cho bị đơn theo quy định tại Điều 474 của Bộ luật
tố tụng dân sự.
[1.4] Về thời hạn giải quyết vụ án:
Theo Thông báo thụ lý vụ án, Tòa án ấn định thời gian mở phiên họp về
kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ vào ngày 09/12/2025, thời
5
gian mở phiên tòa vào ngày 09/3/2026 là đúng thời hạn quy định tại Điều 476
của Bộ luật tố tụng dân sự. Tuy nhiên, quá trình giải quyết vụ án, các đương sự
đều đề nghị Tòa án mở phiên họp về kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai
chứng cứ và mở phiên tòa trước các mốc thời hạn Tòa án đã ấn định. Mặt khác
anh T và chị X đều được tiếp cận đầy đủ các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ
án và cũng đã cung cấp cho Tòa án đầy đủ tài liệu, chứng cứ. Do vậy, việc Tòa
án mở phiên họp về kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và
phiên tòa xét xử trước các mốc thời gian đã ấn định tại Thông báo thụ lý vụ án
không ảnh hưởng đến quyền và nghĩa vụ của các đương sự trong vụ án.
[2] Về nội dung vụ án:
[2.1] Về quan hệ hôn nhân: HĐXX thấy:
Anh Nguyễn Văn T và chị Phùng Thị X kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có
đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã C, huyện N, tỉnh Bắc Kạn ngày
13/11/2017. Vì vậy hôn nhân giữa anh T và chị X được xác định là hôn nhân
hợp pháp. Anh T và chị X đều thừa nhận, sau khi kết hôn, thời gian đầu cuộc
sống vợ chồng hạnh phúc. Tuy nhiên sau đó đã phát sinh nhiều mâu thuẫn,
nguyên nhân do bất đồng quan điểm sống và nhất là từ khi chị X đi xuất khẩu
lao động tại Đài Loan, do sống xa cách về địa lý nên không có điều kiện chăm
sóc giúp đỡ nhau trong cuộc sống hàng ngày, cũng như nuôi dạy con cái nên
mâu thuẫn càng trầm trọng hơn. Cả anh T và chị X đều xác định tình cảm vợ
chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được và có nguyện vọng được
ly hôn. Căn cứ khoản 1 Điều 56/ Luật hôn nhân gia đình, Hội đồng xét xử chấp
nhận yêu cầu ly hôn của anh Nguyễn Văn T, xử cho anh T được ly hôn với chị
X.
[2.2] Về con chung:
Anh T và chị X đều xác nhận trong thời kỳ hôn nhân hai anh chị có 01
con chung là cháu Nguyễn Gia N sinh ngày 18/12/2017. Hiện nay con đang sinh
sống cùng anh T, cháu khỏe mạnh, phát triển bình thường và đang học tại
Trường tiểu học xã C, huyện N, tỉnh Bắc Kạn. Khi ly hôn anh T yêu cầu được
trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung cho đến khi con trưởng
thành, bản thân cháu N cũng có ý kiến khi bố mẹ ly hôn cháu có nguyện vọng ở
với bố. Chị X nhất trí với yêu cầu nuôi con của anh T, anh T có thu nhập trung
bình 10.000.000 đồng/tháng.
Hội đồng xét xử thấy, yêu cầu của nguyên đơn và ý kiến của bị đơn về
việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung là hoàn toàn tự
nguyện và phù hợp với thực tế bởi anh T hiện đang sinh sống tại Việt Nam, có
việc làm, thu nhập, chỗ ở ổn định nên có đủ điều kiện để trực tiếp trông nom,
chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung đến khi con đủ 18 tuổi và cũng là
phù hợp với nguyện vọng của con, còn chị X đang sinh sống và làm việc tại Đài
Loan không thể trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con. Do
vậy căn cứ Điều 81/Luật Hôn nhân và gia đình. Hội đồng xét xử chấp nhận yêu
cầu của anh T về việc nuôi con chung, anh T được trực tiếp trông nom, chăm
6
sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung là cháu Nguyễn Gia N cho đến khi con đủ
18 tuổi.
Về cấp dưỡng nuôi con chung: Anh T không yêu cầu chị X cấp dưỡng
nuôi con chung, chị X cũng không có ý kiến gì về cấp dưỡng nuôi con chung
nên Hội đồng xét xử không xem xét.
Theo quy định tại Điều 82/Luật Hôn nhân và gia đình. Sau khi ly hôn chị
X có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung, không ai được cản trở.
[2.3] Về tài sản chung, nợ chung: Anh T và chị X đều thống nhất không
yêu cầu Tòa án giải quyết do vậy Hội đồng xét xử không xem xét.
[3] Về án phí: Nguyên đơn ạnh Nguyễn Văn T phải chịu 300.000
đ
(Ba
trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào các Điều 28, Điều 37, Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 228,
Điều 469, Điều 474, Điều 475, Điều 476, khoản 5 Điều 477, Điều 478, Điều 479
của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về
mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Áp dụng Điều 51, Điều 56, Điều 57, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83
và Điều 122, 123 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014;
Tuyên xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn anh
Nguyễn Văn T cụ thể:
1. Về quan hệ hôn nhân: Anh Nguyễn Văn T được ly hôn với chị Phùng
Thị X.
2. Về con chung: Giao con chung là cháu Nguyễn Gia N sinh ngày
18/12/2017 cho anh Nguyễn Văn T được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi
dưỡng, giáo dục cho đến khi con chung đủ 18 tuổi.
Sau khi ly hôn chị X có quyền và nghĩa vụ đi lại, thăm nom con chung,
không ai được cản trở.
Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Anh T không yêu cầu Tòa án giải
quyết.
3. Về tài sản chung và nợ chung: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải
quyết.
4. Về án phí: Anh Nguyễn Văn T phải chịu 300.000
đ
(Ba trăm nghìn
đồng) án phí dân sự sơ thẩm, được trừ vào tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm
đã nộp là 300.000
đ
(Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số 0000081 ngày 09
tháng 6 năm 2025 của Cục thi hành án dân sự tỉnh Bắc Kạn.
“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2
Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành
án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự
7
nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều
6,7, và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy
định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”
Án xử công khai sơ thẩm vắng mặt nguyên đơn, bị đơn. Nguyên đơn có
quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ
ngày bản án được niêm yết. Bị đơn ở nước ngoài có quyền kháng cáo trong thời
hạn 01 tháng kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ hoặc kể từ ngày bản án
được niêm yết hợp lệ theo quy định của pháp luật./.
Nơi nhận:
- TAND cấp cao tại Hà Nội;
- VKSND tỉnh;
- Cục THADS tỉnh Bắc Kạn;(Khi bản án có
hiệu lực pháp luật)
- Đương sự;
- UBND xã Cư Lễ, huyện Na Rì;;(Khi bản án
có hiệu lực pháp luật)
- Lưu Tổ HCTP;
- Lưu Hồ sơ.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(Đã ký)
Vi Thị Tuyết Mai
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 21/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 20/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 18/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 18/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 18/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 16/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 15/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 15/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 13/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 12/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 11/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Bản án số 23/2025/HNGĐ-PT ngày 08/08/2025 của TAND TP. Cần Thơ về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
Ban hành: 08/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 08/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 08/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 07/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 06/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 05/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 05/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 04/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 01/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm