Bản án số 05/2024/HS-ST ngày 02-02-2024 của TAND tỉnh Bình Phước về tội giết người
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng tội danh
- Tải về
Tải văn bản
-
05_2024_HS-ST_ BINH PHUOC
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
05_2024_HS-ST_ BINH PHUOC
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 05/2024/HS-ST
| Tên Bản án: | Bản án số 05/2024/HS-ST ngày 02-02-2024 của TAND tỉnh Bình Phước về tội giết người |
|---|---|
| Tội danh: | 123.Tội giết người (Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015) |
| Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
| Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Bình Phước |
| Số hiệu: | 05/2024/HS-ST |
| Loại văn bản: | Bản án |
| Ngày ban hành: | 02/02/2024 |
| Lĩnh vực: | Hình sự |
| Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Thông tin về vụ án: | Lê Sơn B phạm tội giết người |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH BÌNH PHƯỚC
Bản án số: 05/2024/HS-ST
Ngày: 02 - 02 - 2024
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH PHƯỚC
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Đinh Thị Quý Chi
Thẩm phán: Bà Lê Hồng Hạnh
Các Hội thẩm nhân dân: Ông Điểu Bách
Ông Phạm Hiến
Bà Lê Thị Vân Anh
- Thư ký phiên tòa: Bà Hoàng Minh Thư - Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh
Bình Phước.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Phước tham gia phiên toà:
Ông Lê Văn Hòa - Kiểm sát viên.
Trong các ngày 26/01/2024 và 02/02/2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh
Bình Phước xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 69/2023/TLST-
HS ngày 02 tháng 11 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số
06/2024/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 01 năm 2024, đối với bị cáo:
Lê Sơn B, sinh năm 1962, tại thành phố Hồ Chí Minh; giới tính: Nam;
nơi cư trú: ấp F, xã T, huyện H, tỉnh Bình Phước; quốc tịch: Việt Nam; dân
tộc: Kinh; tôn giáo: không; trình độ học vấn: 06/12; nghề nghiệp: Phụ giúp gia
đình; cha tên Lê Văn S (chết) và mẹ tên Đỗ Thị Bạch M (chết); vợ tên Trần
Thị T, sinh năm 1966; Bị cáo có 02 người con, lớn nhất sinh năm 1992, nhỏ
nhất sinh năm 2007.
Tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 30/01/2023 cho đến nay, bị cáo
có mặt tại phiên tòa.
- Bị hại: Nguyễn Thanh T1, sinh năm 1977, địa chỉ: Ấp X, xã P, huyện
H, tỉnh Bình Phước (có mặt khi xét xử, vắng mặt khi tuyên án)
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ có liên quan: Trần Thị T, sinh năm 1966,
địa chỉ: Ấp F, xã T, huyện H, tỉnh Bình Phước (có mặt)
2
- Người làm chứng: Nguyễn Minh Q, sinh năm 1978, địa chỉ: Ấp T, xã
M, huyện D, tỉnh Bình Dương (vắng mặt)
- Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Bùi Văn D, sinh năm 1983; Đoàn
luật sư tỉnh B; Địa chỉ: Văn phòng luật sư Phạm Quang B1 (Chi nhánh B2), số
A, đường P, phường T, thành phố Đ, tỉnh Bình Phước (có mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung
vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 17 giờ ngày 27/12/2020, Lê Sơn B điều khiển xe mô tô nhãn
hiệu Yamaha – Sirius, biển số 93C1-083.80 đến Công ty TNHH N thuộc Khu
công nghiệp M - Hàn Quốc ở phường M, thị xã C, tỉnh Bình Phước để gặp vợ
là chị Trần Thị T đang làm công nhân trong Công ty. Bá dựng xe mô tô trước
cổng chính rồi đi vào gặp nhân viên bảo vệ đang trực là anh Nguyễn Thanh T1
để nhờ gọi chị T ra nói chuyện. Sau đó, anh T1 vào trong Công ty gọi chị T ra
nói chuyện với B trước cổng Công ty. Sau khi nói chuyện xong, chị T xin anh
T1 cho B dẫn xe mô tô vào trong Công ty để chờ chị T làm việc xong rồi cùng
về thì anh T1 không đồng ý vì quy định của Công ty không cho người ngoài
vào trong Công ty, nhưng B vẫn dẫn xe mô tô biển số 93C1-083.80 vào trong
cổng và dựng xe gần phòng (chốt) trực bảo vệ tại cổng Công ty thì anh T1
không cho, nên giữa anh T1 và B xảy ra mâu thuẫn cãi nhau. Anh T1 vào
phòng trực bảo vệ lấy 01 cây gậy bằng tre dài 78cm, đường kính 2,5cm, sơn
màu trắng - đỏ đi ra và dùng chân phải đạp 01 cái vào chắn bùn trước xe mô tô
của B, đồng thời cầm gậy tre đánh vào 01 cái vào vùng đầu và 01 cái vào vùng
ngực B thì được chị T và anh Nguyễn Minh Q là bảo vệ đang trực tại cổng
Công ty can ngăn. Thấy vậy, chị T đẩy Bá ra phía ngoài cổng Công ty, anh T1
cầm gậy bằng tre đi ra trước cổng Công ty định đánh B thì anh Q can ngăn. Do
bức xúc việc anh T1 dùng gậy đánh nên B đứng trước cổng Công ty tiếp tục to
tiếng với anh T1. Lúc này T1 cầm gậy bằng tre đi đến chỗ B thì anh Q can
ngăn giật cây gậy bằng tre trên tay của T1 cất vào phòng trực bảo vệ và dẫn xe
mô tô của B ra khỏi cổng Công ty, thì T1 tiếp tục đi vào phòng trực bảo vệ, lấy
01 cây gậy (dùi cui) bằng mũ cao su màu đen, dài khoảng 60cm, đường kính
khoảng 2,5cm, đi theo anh Q ra ngoài cổng để đánh B. Thấy T1 cầm dùi cui
chạy tới thì chị T ôm giữ, can ngăn đẩy T1 ra không để đánh B. Ngay lúc này
B dùng tay phải lấy dao nhọn dài khoảng 20cm ở trong túi quần bên phải đâm
liên tiếp khoảng 05 đến 06 nhát vào vùng bụng, ngực anh T1. Bị đâm, anh T1
ném gậy cao su vào bãi cỏ trước cổng rồi chạy vào trong cổng Công ty và được
mọi người đưa đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện C, còn B cầm theo dao rồi điều
khiển xe mô tô biển số 93C1 – 083.80 đi về thành phố Hồ Chí Minh trốn. Trên
đường đi, B vứt con dao đã đâm anh T1 ở ven đường nhưng không xác định
được địa điểm, cụ thể. Quá trình điều tra, Lê Sơn B đã thành khẩn khai nhận
toàn bộ hành vi phạm tội như trên.
3
* Tại bản Kết luận giám định pháp y về thương tích số 129/2021/GĐPY
ngày 24/03/2021 của Trung tâm Pháp y tỉnh B kết luận:
- Dấu hiệu chính qua giám định:
+ 02 vết thương vùng ngực trái (1,7 x 0,1) cm và (1,7 x 0,2) cm thấu
ngực, tràn khí, tràn máu màng phổi trái, đã phẫu thuật dẫn lưu màng phổi; vết
mổ (1,5 x 0,3) cm, sẹo lành;
+ 02 vết thương ngang rốn (1,5 x 0,2)cm và (1,5x0,2)cm, thấu bụng
thủng phúc mạc hố chậu trái, thủng đại tràng sigma, đã phẫu thuật đưa chỗ
thủng đại tràng ra hông trái làm hậu môn tạm, vết mổ giữa đường bụng trên
dưới rốn (1,7 x 0,5)cm, sẹo lành;
- Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên đối với ông Nguyễn
Thanh T1 là 46%.
- Cơ chế hình thành vết thương:
+ 02 vết thương vùng ngực trái: Chiều nằm ngang hướng từ trước ra sau,
bờ sắc gọn khả năng do vật sắc gây ra.
+ 02 vết thương ngang rốn: Chiều nằm ngang, hướng từ trước ra sau, bờ
sắc gọn khả năng do vật sắc gây ra
* Tại bản Kết luận giám định số 72/2021/GĐ-KTS ngày 22/10/2021 của
Phòng K Công an tỉnh B kết luận:
- Không tìm thấy dấu hiệu cắt, ghép, chỉnh sửa nội dung trong tập tin
video gửi giám định ký hiệu A (đoạn camera thu giữ qua trích xuất camera tại
cổng Công ty N).
- Trích xuất được 43 hình ảnh về diễn biến vụ án
Việc thu giữ, tạm giữ tài liệu, đồ vật và xử lý vật chứng:
- 01 (một) gậy tre dài 78cm, đường kính 2,5cm.
- Thu giữ qua khám nghiệm hiện trường 01 con dao, loại dao gấp bằng
kim loại, dài 24cm, lưỡi dao nhọn, dài 11,5cm, bản lưỡi dao rộng nhất 2,4cm,
sống lưỡi dao nhẵn.
- 01 con dao dài 20 cm, lưỡi dao bằng kim loại dài 10 cm, bản dao rộng
02cm, mũi dao nhọn, cách mũi dao 1,5 cm có 03 răng cưa, mỗi răng cưa cách
nhau 1,5cm
* Về trách nhiệm dân sự: Bị hại Nguyễn Thanh T1 yêu cầu bị cáo Lê
Sơn B phải bồi thường tổng số tiền 71.000.000 đồng.
Cáo trạng số 39/CT-VKS-P2 ngày 30/10/2023 của Viện kiểm sát nhân
dân tỉnh Bình Phước truy tố bị cáo Lê Sơn B phạm tội “Giết người” theo điểm
n khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Tại phiên tòa sơ thẩm:
4
- Bị hại là ông Nguyễn Thanh T1 đề nghị Hội đồng xét xử đúng người,
đúng tội, đúng quy định pháp luật và yêu cầu bị cáo phải tiếp tục bồi thường số
tiền 71.000.000 đồng.
- Bị cáo Lê Sơn B thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội
dung bản Cáo trạng đã truy tố. Trong lời nói sau cùng: Bị cáo ăn năn hối cải về
hành vi phạm tội của mình và xin lỗi gia đình bị hại. Đề nghị Hội đồng xét xử
xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
- Bị hại, bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Trần Thị T
(vợ bị cáo) tự nguyện thỏa thuận được với nhau về việc ngoài số tiền
10.000.000 đồng mà gia đình bị cáo (do bà T thực hiện) xong và đã bồi thường
cho bị hại thì bị cáo và bà T có trách nhiệm liên đới tiếp tục bồi thường cho bị
hại số tiền 71.000.000 đồng.
- Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Phước tại
phiên tòa:
Vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo Lê Sơn B tại Cáo trạng
số 39/CT-VKSBP-P2 ngày 30/10/2023 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình
Phước.
Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Lê Sơn B phạm tội “Giết người”.
Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung
năm 2017; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 50, Điều 38, Điều 15,
Điều 57 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo
Lê Sơn B mức hình phạt từ 07 đến 08 năm tù.
Về trách nhiệm dân sự: Đề nghị Hội đồng xét xử ghi nhận sự tự nguyện
thỏa thuận giữa bị hại và bị cáo.
Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật
Tố tụng hình sự đề nghị Hội đồng xét xử tuyên xử lý vật chứng và đồ vật theo
bảng kê kèm theo Cáo trạng.
Về án phí: Đề nghị Hội đồng xét xử buộc bị cáo chịu án phí hình sự sơ
thẩm, dân sự sơ thẩm có giá ngạch theo quy định pháp luật.
- Quan điểm của luật sư Bùi Văn D là người bào chữa cho bị cáo tại phiên
tòa:
Thống nhất quan điểm của đại diện Viện kiểm sát về tội danh đối với bị
cáo B. Tuy nhiên, ông D cho rằng bị cáo phạm tội không có tính chất côn đồ
theo điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự mà bị cáo phạm tội theo quy
định tại khoản 2 Điều 123 Bộ luật Hình sự. Bị cáo có hai tình tiết giảm nhẹ là
bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; đã bồi thường khắc phục hậu quả
cho bị hại, đây là các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm b, s khoản 1
Điều 51 Bộ luật Hình sự. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 54 Bộ luật
Hình sự quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt.
5
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên cơ sở các tài liệu, chứng cứ đã thu thập được thẩm tra công khai tại
phiên tòa, căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Cơ quan điều tra -
Công an tỉnh B, Kiểm sát viên, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Phước, trong
quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo
quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo,
người bào chữa cho bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị hại, không có ai có
ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng,
người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan
tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Quá trình điều tra, truy tố và tại
phiên tòa bị cáo Lê Sơn B đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như
nội dung bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Phước đã truy
tố. Xét, lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với biên bản khám nghiệm hiện
trường, biên bản thực nghiệm điều tra; phù hợp với lời khai của bị cáo, người
làm chứng về thời gian, địa điểm, thực hiện hành vi phạm tội và các tài liệu,
chứng cứ khác đã thu thập có tại hồ sơ vụ án được xét hỏi công khai tại phiên
tòa. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: khoảng 17 giờ 20 phút ngày
27/12/2021, Lê Sơn B đến cổng chính Công ty TNHH N1 thuộc Khu công
nghiệp M - Hàn Quốc ở phường M, thị xã C, tỉnh Bình Phước để đón vợ là bà
Trần Thị T đang làm công nhân tại đây. Do giữa bị cáo và bị hại có bất đồng
về việc bị hại không cho phép bị cáo để xe và chờ vợ trong phạm vi khuôn
viên của Công ty nên giữa bị cáo và bị hại xảy ra cãi vã, xô sát. Bị hại T1 đã
dùng chân phải đạp 01 cái vào chắn bùn trước xe mô tô của B, đồng thời cầm
gậy tre đánh vào 01 cái vào vùng đầu và 01 cái vào vùng ngực B thì được chị
T và anh Nguyễn Minh Q là bảo vệ đang trực tại cổng Công ty can ngăn. Sau
khi bị cáo và xe máy của bị cáo đã được di chuyển ra khỏi cổng Công ty, giữa
bị cáo và bị hại vẫn tiếp tục cãi vã, xúc phạm lẫn nhau dẫn đến bị hại T1 tiếp
tục vào phòng bảo vệ lấy 01 cây gậy (dùi cui) bằng mũ cao su màu đen, dài
khoảng 60cm, đường kính khoảng 2,5cm đi ra ngoài cổng để đánh B. Mặc dù,
bị cáo và hại T1 đã được anh Nguyễn Minh Q cùng bà T can ngăn nhưng hai
bên vẫn tiếp tục cãi vã và tiến lại gần nhau. Khi hai bên ở khoảng cách gần
khoảng 01m, bị hại T1 đang cầm gậy giơ lên để đánh bị cáo thì được bà T nắm
tay cản lại, cùng lúc bị cáo rút dao trong túi và đâm vào vùng ngực, bụng của
bị hại T1 5-6 nhát. Hậu quả gây ra khiến bị hại bị 02 vết thương vùng ngực trái
(1,7 x 0,1) cm và (1,7 x 0,2)cm thấu ngực, tràn khí, tràn máu màng phổi trái;
02 vết thương ngang rốn (1,5 x 0,2)cm và (1,5x0,2)cm, thấu bụng thủng phúc
mạc hố chậu trái, thủng đại tràng sigma với tỉ lệ tổn thương cơ thể 46%.
[3] Xét thấy, căn cứ vào lời khai của các bên và hình ảnh diễn biến sự
việc được trích xuất từ camera thể hiện thì thấy rằng thời điểm bị cáo thực hiện
6
hành vi phạm xâm phạm tính mạng của ông T1 là xuất phát từ quá trình cãi vã,
xô sát lẫn nhau giữa bị cáo, bị hại và xuất phát từ hành vi cầm gậy (công cụ hỗ
trợ) xấn tới tấn công của bị hại khi được can ngăn. Trong đó, trước khi bị hại
bị đâm thì bị hại cũng là người có hành vi dùng vũ lực đối với bị cáo (dùng
chân đạp xe máy của bị hại, dùng gậy tre đánh vào người bị hại). Mặc dù, bị
cáo cho rằng bị cáo không có mục đích tước đoạt mạng sống của bị hại nhưng
xét thấy việc dùng dao nhọn là hung khí nguy hiểm dâm nhiều nhát vào các
vùng trọng yếu trên cơ thể người bị hại có thể gây ra cái chết cho bị hại. Bị cáo
nhận thức được việc này nhưng vẫn thực hiện. Vì vậy, Hội đồng xét xử đủ căn
cứ để xác định bị cáo Lê Sơn B phạm tội “Giết người” theo quy định tại khoản
2 Điều 123 Bộ luật Hình sự mà không thuộc trường hợp phạm tội “có tính chất
côn đồ” theo quy định tại điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự. Việc Cáo
trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Phước đã truy tố đối với bị cáo
phạm tội “Giết người” theo quy định tại điểm n khoản Điều 123 Bộ luật Hình
sự là chưa phù hợp.
[4] Xét tính chất mức độ hành vi và hậu quả hành vi mà bị cáo gây ra là
đặc biệt nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến sức khỏe, tính mạng con
người là khách thể được Bộ luật hình sự ưu tiên bảo vệ. Hành vi của bị cáo còn
gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự tại địa phương nên cần xem
xét xử phạt bị cáo mức án thật nghiêm để phát huy tác dụng răn đe, giáo dục và
phòng ngừa chung.
[5] Tuy nhiên, xét thấy quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo thành
khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, sau khi thực hiện
hành vi phạm tội đã tác động gia đình bồi thường, khắc phục một phần hậu quả
cho bị hại số tiền 10.000.000 đồng. Đây là 02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm
theo quy định tại các điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa
đổi, bổ sung năm 2017, được Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần
hình phạt cho bị cáo.
[6] Về trách nhiệm dân sự:
Quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị hại là Nguyễn Thanh T1 yêu cầu bị
cáo bồi thường tổng số tiền 71.000.000 đồng.
Tại phiên tòa bị cáo B, bà T là vợ bị cáo và bị hại T1 tự nguyện thỏa
thuận được với nhau về việc bị cáo và bà T có trách nhiệm bồi thường tiếp cho
bị hại số tiền 71.000.000 đồng, phương án bồi thường số tiền trên được thực
hiện vào hai đợt: đợt 1 ngày 26/7/2024 bồi thường 35.500.000 đồng, đợt 2
ngày 26/01/2025 bồi thường 35.500.000 đồng. Xét thấy, sự thỏa thuận của bị
cáo, bà T và bị hại là sự tự nguyện và phù hợp với quy định pháp luật nên cần
ghi nhận.
[7] Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ
luật Tố tụng hình sự:
Tịch thu, tiêu hủy:
7
- 01 (một) gậy tre dài 78cm, đường kính 2,5cm; 01 con dao, loại dao gấp
bằng kim loại, dài 24cm, lưỡi dao nhọn, dài 11,5cm, bản lưỡi dao rộng nhất
2,4cm, sống lưỡi dao nhẵn; 01 con dao dài 20 cm, lưỡi dao bằng kim loại dài
10 cm, bản dao rộng 02cm, mũi dao nhọn, cách mũi dao 1,5 cm có 03 răng
cưa, mỗi răng cưa cách nhau 1,5cm.
[8] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Lê Sơn B phải chịu 200.000đồng;
bị cáo B và bà T phải liên đới chịu 3.550.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm có
giá ngạch.
[9] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa về tội danh và
mức hình phạt là có căn cứ nên được chấp nhận, về khung hình phạt không
được chấp nhận.
[10] Quan điểm của người bào chữa cho bị cáo tại phiên tòa được Hội
đồng xét xử chấp nhận.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Lê Sơn B phạm tội “Giết người”
2. Về áp dụng điều luật và hình phạt:
Áp dụng khoản 2 Điều 123 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung
năm 2017; điểm b, s khoản 1 Điều 51; Điều 50; Điều 38 của Bộ luật Hình sự
năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Xử phạt bị cáo Lê Sơn B 07 (bảy) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày
30/01/2023.
3. Về trách nhiệm dân sự:
Áp dụng Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017;
Điều 30 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và các Điều 584, Điều 585, Điều
586, Điều 590 Bộ luật dân sự năm 2015;
Ghi nhận sự tự nguyện của bị cáo Lê Sơn B, người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan bà Trần Thị T (vợ bị cáo) và bị hại Nguyễn Thanh T1 về việc:
Bị cáo Lê Sơn B và bà Trần Thị T có trách nhiệm tiếp tục bồi thường
cho bị hại Nguyễn Thanh T1 số tiền 71.000.000 (bảy mươi mốt triệu) đồng.
Phương án bồi thường được thực hiện như sau: ngày 26/7/2024 bị cáo B và bà
T phải bồi thường cho ông T1 số tiền 35.500.000 (ba mươi lăm triệu năm trăm
nghìn) đồng; ngày 26/01/2025 bị cáo B và bà T phải bồi thường cho ông T1
phải bồi thường nốt số tiền 35.500.000 (ba mươi lăm triệu năm trăm nghìn)
đồng còn lại.
Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường
hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể
từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các
8
khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong
tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản
tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2
Điều 468 của Bộ luật Dân sự 2015.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2
của Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi
hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự
nguyện thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 của Luật thi hành án
dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của
Luật thi hành án dân sự.
4. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ
luật Tố tụng hình sự tuyên:
Tịch thu, tiêu hủy: 01 (một) gậy tre dài 78cm, đường kính 2,5cm; 01 con
dao, loại dao gấp bằng kim loại, dài 24cm, lưỡi dao nhọn, dài 11,5cm, bản lưỡi
dao rộng nhất 2,4cm, sống lưỡi dao nhẵn; 01 con dao dài 20 cm, lưỡi dao bằng
kim loại dài 10 cm, bản dao rộng 02cm, mũi dao nhọn, cách mũi dao 1,5 cm có
03 răng cưa, mỗi răng cưa cách nhau 1,5cm
(Theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 14/11/2023 và Bảng kê
tang vật kèm theo của Cục thi hành án dân sự tỉnh Bình Phước)
5. Án phí: Bị cáo Lê Sơn B phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án
phí hình sự sơ thẩm; bị cáo B và bà T phải liên đới chịu 3.550.000 (ba triệu
năm trăm năm mươi nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm.
6. Quyền kháng cáo: Bị cáo Lê Sơn B, bị hại Nguyễn Thanh T1 và người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Trần Thị T được quyền kháng cáo bản án
trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- TAND, VKSND CC tại TP.HCM; (2)
- VKSND tỉnh Bình Phước; (1)
- CQCSĐT - CA tỉnh Bình Phước; (1);
- CQTHAHS - CA tỉnh Bình Phước (1)
- PV 06 - CA tỉnh Bình Phước; (1)
- Sở Tư pháp tỉnh Bình Phước; (1)
- Cục THADS tỉnh Bình Phước; (1)
- Bị cáo; (1)
- Bị hại; (1)
- Trại tạm giam CA tỉnh Bình Phước; (1)
- THCTP; Lưu THS; Tòa HS (3).
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TOÀ
Đinh Thị Quý Chi
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng