Bản án số 03/2025/LĐ-ST ngày 11/09/2025 của Tòa án nhân dân khu vực 12 - Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh về tranh chấp về quyền, lợi ích liên quan đến việc làm, tiền lương
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 03/2025/LĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 03/2025/LĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 03/2025/LĐ-ST
| Tên Bản án: | Bản án số 03/2025/LĐ-ST ngày 11/09/2025 của Tòa án nhân dân khu vực 12 - Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh về tranh chấp về quyền, lợi ích liên quan đến việc làm, tiền lương |
|---|---|
| Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp về quyền, lợi ích liên quan đến việc làm, tiền lương... |
| Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
| Tòa án xét xử: | Tòa án nhân dân khu vực 12 - Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh |
| Số hiệu: | 03/2025/LĐ-ST |
| Loại văn bản: | Bản án |
| Ngày ban hành: | 11/09/2025 |
| Lĩnh vực: | Lao động |
| Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Thông tin về vụ/việc: | Lê Thị C - Trung Tâm bảo trợ X |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
KHU VỰC 12 – THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Bản án số: 03/2025/LĐ-ST
Ngày: 11-9-2025
V/v tranh chấp tiền lương, tranh chấp hợp đồng lao
động và trợ cấp thu hút
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN KHU VỰC 12 – THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH,
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Thùy
Các Hội thẩm nhân dân:
1. Bà Phan Thị Sơn
2. Ông Trần Đình Hải
- Thư ký phiên tòa: Bà Trịnh Thị Hằng – Thư ký Tòa án của Tòa án nhân dân
khu vực 12 – Thành phố Hồ Chí Minh
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân khu vực 12 – Thành phố Hồ Chí Minh tham
gia phiên tòa: Ông Lê Nguyễn Trường Giang – Kiểm sát viên.
Trong các ngày 10 và 11 tháng 9 năm 2025 tại phòng xử án, Tòa án nhân dân khu
vực 12 – Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án lao động thụ lý số
29/2025/TLST-LĐ ngày 13 tháng 3 năm 2025 về việc “tranh chấp tiền lương, tranh chấp
hợp đồng lao động và trợ cấp thu hút” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số
01/2025/QĐXXST-LĐ ngày 11 tháng 8 năm 2025, Quyết định hoãn phiên tòa số
01/2025/QĐST-LĐ ngày 29 tháng 8 năm 2025 và Quyết định thay đổi người tiến hành tố
tụng số 46/2025/QĐ-TĐ ngày 09 tháng 9 năm 2025 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Bà Lê Thị C, sinh năm 1988 (có mặt ngày 10 vắng mặt ngày 11)
Địa chỉ: Khu phố Tân Phú, phường Phú Mỹ, thị xã Phú Mỹ, tỉnh Bà Rịa - Vũng
Tàu (nay là phường Phú Mỹ, Thành phố Hồ Chí Minh)
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Tống Văn H, sinh năm: 1961 (có mặt)
Địa chỉ: 110/19A Phạm Hồng Thái, phường 7, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa
– Vũng Tàu (nay là phường Tam Thắng, Thành phố Hồ Chí Minh) (văn bản ủy quyền
ngày 20/3/2025)
Bị đơn: Trung tâm bảo trợ xã hội tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (nay là Trung tâm bảo
trợ và công tác xã hội thuộc Sở Y tế Thành phố Hồ Chí Minh)
Địa chỉ: Ấp 6, xã Tóc Tiên, thành phố Phú Mỹ, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (nay là
xã Châu Pha, Thành phố Hồ Chí Minh
Đại diện theo pháp luật: Bà Lê Thị Hồng Chín - chức vụ: Giám Đốc
Người đại diện theo ủy quyền:
1. Ông Trần Thanh Hồng, sinh năm: 1964 (có mặt)
2. Ông Đặng Duy Hiện, sinh năm: 1975 (vắng mặt)
2
(văn bản ủy quyền ngày 17/6/2025)
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn: Luật sư Nguyễn Thái H –
thuộc Đoàn luật sư tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu – Văn phòng Luật sư Hoàng Trung Chính
(có mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Tại đơn khởi kiện đề ngày 07/3/2025 của bà Lê Thị C và trong quá trình giải
quyết vụ án người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn là ông Tống Văn H trình
bày:
Bà Lê Thị C bắt đầu làm việc tại Trung tâm bảo trợ xã hội tỉnh Bà Rịa – Vũng
Tàu (nay là Trung tâm bảo trợ và công tác xã hội thuộc Sở Y tế Thành phố Hồ Chí
Minh) từ ngày 04/01/2011 theo hợp đồng lao động đã ký với Trung tâm. Đối với hợp
đồng lao động mà bà Cúc ký với Trung tâm bảo trợ xã hội tỉnh Bà Rịa – Vũng tàu từ
năm 2011 đến năm 2019 thì bà Cúc đã bị mất toàn bộ các hợp đồng lao động nên
không cung cấp được cho Tòa án án các hợp đồng mà bà Cúc đã ký trong thời gian
này.
Ngày 02/01/2020 thì bà Cúc có ký với Trung tâm hợp đồng số 53 ngày
02/01/2020 với thời hạn của hợp đồng là 12 tháng bắt đầu từ ngày 01/01/2020 đến hết
ngày 31/12/2020, vị trí công tác là nhân viên phục vụ, tiền lương khoán là 6.003.760
đồng trong đó lương vùng là 4.420.000 đồng, khoản phụ cấp khác là 1.583.760 đồng.
Ngoài ra còn được hưởng theo khoản 1 Điều 5 của Nghị định 90/2019/NĐ-CP là 7%
tiền lương so với lương tối thiểu vùng nếu có bằng cấp, chứng chỉ đào tạo. Bà Cúc có
bằng trung cấp kế toán.
Từ ngày 01/01/2021 đến hết ngày 30/12/2021 thì giữa bà Cúc với Trung tâm
không ký với nhau bất cứ một hợp đồng lao động nào. Bà Cúc vẫn làm việc với Trung
tâm bình thường và được trả lương theo hợp đồng số 53 ngày 02/01/2020. Tiền lương
bà Cúc được nhận vẫn là 6.003.760 đồng/tháng.
Ngày 31/12/2022 thì giữa bà Cúc với Trung tâm bảo trợ tiếp tục ký hợp đồng số
103 ngày 31/12/2022 với thời hạn hợp đồng lao động là không xác định thời hạn tính
từ ngày 01/01/2022, vị trí việc là nhân viên phục vụ, giá trị của hợp đồng lao động
(lương khoán) là 6.313.160 đồng trong đó lương cơ bản là 4.420.000 đồng, phụ cấp
độc hại là 309.400 đồng, phụ cấp bằng 7% 309.400 đồng, phụ cấp khác 1.274.360
đồng. Sau khi trừ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động,
bảo hiểm y tế thì mức lương thực nhận mà bà Cúc nhận hàng tháng là 5.816.573 đồng.
Theo quyết định số 2001/QĐ-UBND ngày 25/9/2012 của Ủy ban nhân dân tỉnh
Bà Rịa – Vũng Tàu thể hiện ưu đãi cho cán bộ công chức, viên chức, nhân viên người
lao động làm việc tại các cơ sở bảo trợ xã hội công lập trên địa bàn tỉnh Bà Rịa – Vũng
Tàu sẽ hỗ trợ thêm cho mỗi nhân viên là 1.200.000 đồng /tháng. Từ khi có quyết định
này thì bà Cúc đều được trung tâm xã hội hỗ trợ mỗi tháng 1.200.000 đồng từ năm
2011 đến tháng 12 năm 2019. Từ tháng 01 năm 2020 đến tháng 12/2024 thì bà Cúc
không được nhận tiền hỗ trợ 1.200.000 đồng này nữa. Mặc dù bà Cúc đã liên hệ với
ban giám đốc của Trung tâm để hỏi lý do không được nhận 1.200.000 đồng nhưng
không nhận được văn bản trả lời từ trung tâm.
Từ tháng 07 năm 2022 đến tháng 12/2024 bà Cúc không được nhận 7% phụ cấp
bằng theo hợp đồng đã ký số 103 ngày 31/12/2021.
Do đó, ông đại diện Lê Thị C yêu cầu nội dung như sau:
3
1. Hủy hợp đồng số 53/HĐLV ngày 02/01/2020 của Trung tâm Bảo trợ xã hội
tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (nay là Trung tâm Bảo trợ xã hội tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu (nay
là Trung tâm bảo trợ và công tác xã hội thuộc Sở Y tế Thành phố Hồ Chí Minh);
2. Hủy hợp đồng số 103/HĐ-TTBTXH ngày 31/12/2021 của Trung tâm Bảo trợ
xã hội tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (nay là Trung tâm Bảo trợ xã hội tỉnh Bà Rịa Vũng
Tàu (nay là Trung tâm bảo trợ và công tác xã hội thuộc Sở Y tế Thành phố Hồ Chí
Minh);
3. Buộc Trung tâm Bảo trợ xã hội tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu (nay là Trung tâm
Bảo trợ xã hội tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu (nay là Trung tâm bảo trợ và công tác xã hội
thuộc Sở Y tế Thành phố Hồ Chí Minh) trả lại cho bà Lê Thị C số tiền cụ thể sau:
+ Tiền ưu đãi người lao động theo Quyết định số 2001/QĐ-UBND ngày
25/9/2012 của Ủy ban nhân dân tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu mỗi tháng 1.200.000 đồng tính
từ tháng 12/2019 đến tháng 12/2024 là 72.000.000 đồng.
+ Tiền bị giảm khi chuyển hợp đồng tính từ tháng 01/2020 đến tháng 12/2021
mỗi tháng 657.200 đồng là 15.772.800 đồng; tiền bị giảm khi chuyển hợp đồng tính từ
tháng 01/2022 đến tháng 12/2024 mỗi tháng 966.600 đồng là 34.797.600 đồng.
+ Tiền phụ cấp bằng 7% đối với người đã qua học nghề, đào tạo từ tháng
7/2022 đến tháng 12/2024 là 9.828.000 đồng.
Tổng số tiền bà Cúc yêu cầu Trung tâm Bảo trợ xã hội tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu
phải trả cho bà là 132.398.400 đồng.
4. Buộc Trung tâm Bảo trợ xã hội tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu chi trả lương theo
Nghị định 204/2004/NĐ-CP ngày 14/12/2004 của Thủ tướng chính phủ như từng áp
dụng với bà Cúc tại Hợp đồng lao động theo Nghị định 68/2000/NĐ-CP và có tính thời
gian nâng bậc, nâng lương trong thời gian từ trước 01/01/2020 đến nay.
Tại phiên tòa nguyên đơn thay đổi yêu cầu khởi kiện đối với yêu cầu buộc
Trung tâm bảo trợ xã hội tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (nay là Trung tâm bảo trợ và công
tác xã hội thuộc Sở Y tế Thành phố Hồ Chí Minh) trả cho bà Cúc số tiền trợ cấp thu
hút mỗi tháng 1.200.000 đồng theo Quyết định số 2001/QĐ-UBND ngày 25/9/2012
của Ủy ban nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu từ tháng 02 năm 2020 đến tháng 12 năm
2024 là 69.600.000 đồng và phụ cấp 7% đối với người đã qua học nghề, đào tạo từ
tháng 07/2022 đến tháng 12/2024 là 9.282.000 đồng . Đối với các yêu cầu còn lại thì
bà Cúc vẫn giữ nguyên.
Trong quá trình giải quyết vụ án bị đơn Trung tâm bảo trợ xã hội tỉnh Bà Rịa –
Vũng Tàu (nay là Trung tâm bảo trợ và công tác xã hội thuộc Sở Y tế Thành phố Hồ
Chí Minh) có người đại diện theo ủy quyền là ông Đặng Duy Hiện trình bày:
Trung tâm Bảo trợ và công tác xã hội nhận được thông báo số 29/2025/TB-
TLVA ngày 13/03/2025 về việc thu lý vụ án của bà Lê Thị C là nhân viên Trung tâm
Bảo trợ xã hội (nay là trung tâm bảo trợ và công tác xã hội) khởi kiện Trung tâm. Liên
quan đến yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị C với Trung tâm Bảo trợ và công tác xã hội
có ý kiến như sau:
- Yêu cầu 1: Hủy hợp đồng số 53/HĐLV ngày 02/01/2020 được ký kết giữa
Trung tâm Bảo trợ xã hội tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu với bà Lê Thị C.
- Ý kiến trả lời của TTBTXH thứ 1: Hợp đồng số 53/HĐLV ngày 02/01/2020
giữa Trung tâm Bảo trợ xã hội tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu với bà Lê Thị C đã chấm dứt kể
từ thời điểm 31/12/2020.
- Yêu cầu 2: Hủy hợp đồng số 103/HĐ-TTBTXH ngày 31/12/2022 được ký kết
giữa Trung tâm Bảo trợ xã hội tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu với bà Lê Thị C.
4
- Ý kiến trả lời của TTBTXH thứ 2: Đồng ý chấm dứt hợp đồng số 103/HĐ-
TTBTXH ngày 31/12/2022 giữa Trung tâm Bảo trợ xã hội tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu với
bà Lê Thị C
- Yêu cầu 3: Tháng 12/2019 đến tháng 12/2024 là 60
tháng*1.200.000đồng/tháng= 72.000.000đồng theo Quyết định số 2001/QĐ-UBND
ngày 25/09/2012 của UBND tỉnh BR-VT.
- Ý kiến trả lời của TTBTXH thứ 3:
+ Từ tháng 12 năm 2019 trở về trước bà Lê Thị C ký hợp đồng lao động theo
nghị định số 68/2000/NĐ-CP ngày 17/11/2000 và được áp dụng bảng lương quy định
tại Nghị định số 204/2004/NĐ-CP ngày 14/12/2004 của Chính phủ. Được hưởng mức
lương theo hệ số, phụ cấp theo lương, phụ cấp thu hút theo QĐ số 2001/QĐ-UBND
như sau:
- Mức lương theo hệ số tháng 12/2019: 1.72hs*1.490.000đ =
2.562.800 đồng
- Phụ cấp khu vực tháng 12/2019: 20% * 1.490.000đ =
298.000 đồng
- Phụ cấp độc hại tháng 12/2019: 10% *1.490.000 đ =
149.000 đồng
- Phụ cấp theo Nghị định số 26/NĐ-CP: 70%**1.72hs*1.490.000 đ =
1.793.960 đồng
- Phụ cấp thu hút theo QĐ số 2001/QĐ-UBND tháng 12/2019:
1.200.000 đồng
- Tổng kinh phí bà Lê Thị C thực nhận tiền lương và các khoản phụ cấp trong
tháng 12/2019 là: 6.003.760 đồng. (kèm theo bảng lương, phụ cấp theo lương và danh
sách trợ cấp thu hút tháng 12/2019)
+ Căn cứ Công văn số 638/HD-SNV-STC về việc hướng dẫn thực hiện chế độ
hợp đồng một số công việc trong cơ quan hành chính nhà nước, đơn vị sự nghiệp công
lập của UBND tỉnh BRVT ngày 30/10/2019. Theo mục 2 của công văn này, đối với cá
nhân đang ký HĐLĐ để làm những công việc nêu tại điều 1 Nghị định số 68/2000/NĐ-
CP, quy định tại khoản 1 Điều 3 Nghị định số 161/2018/NĐ – CP và áp dụng bảng
lương theo quy định tại Nghị định số 204/2004/NĐ-CP ngày 14/12/2004 của Chính
phủ về chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang
thì chuyển sang thực hiện ký HĐLĐ theo quy định tại điếu 3 Nghị định số
161/2018/NĐ - CP của chính phủ. Mức lương trong hợp đồng lao động mới không
thấp hơn mức lương hiện hưởng (tổng thu nhập hiện hưởng của người lao động hợp
đồng theo quy định tại Nghị định số 68/2000/NĐ-CP hiện được áp dụng theo thang
bảng lương của Nghị định 204/2004/Nđ-CP và các khoản phụ cấp khác theo quy định
của pháp luật, được quy đổi ra số tiền cụ thể; Mức lương trong hợp đồng lao động mới
không được thấp hơn số tiền cụ thể hiện đang hưởng).
Từ các khoản lương, phụ cấp nêu trong đơn của bà Lê Thị C đã được đơn vị
chuyển đổi vào tiền lương và tiền công khác thể hiện trên bảng lương và trên hợp đồng
lao động số 53/HĐLV ngày 02/01/2020 và HĐ số 103/HĐ-TTBTXH ngày 31/12/2022
của người lao động theo bảng lương từ tháng 01 đến tháng 12/2021. Tổng số tiền là
6.003.760 đồng/tháng. Như vậy trong đơn của Bà Lê Thị C nói là người lao động
không được hưởng chế độ thu hút 1.200.000đồng /người/tháng là không đúng. Do
danh sách tiền lương theo Nghị định số 161//2018/NĐ-CP đã thay thế danh sách tiền

5
lương theo Nghị định số 204/2004/NĐ-CP nên các khoản phụ cấp không còn thể hiện
trên bảng lương của Nghị định số 161/2018/NĐ-CP. (Kèm theo danh sách tiền lương
theo nghị định số 161/2018/NĐ-CP). Do đó bị đơn không chấp nhận yêu cầu này của
nguyên đơn.
- Ý kiến thứ 4: Khoản chênh lệch khi chuyển hợp đồng từ tháng 1/2020 đến
tháng 12/2021 là 15.772.800 đồng; từ tháng 1/2022 đến tháng 12/2024 là 34.797.600
đồng
- Ý kiến trả lời của TTBTXH thứ 4: Từ tháng 1/2020 đến tháng 12/2021 qua
kiểm tra 02 hợp đồng số 53/HĐLV ngày 02/01/2020 và HĐ số 103/HĐ-TTBTXH ngày
31/12/2022 của người lao động trên bảng lương từ tháng 01/2020 đến tháng 12/2021.
Tổng số tiền là 6.003.760 đồng/tháng. Tổng số tiền Bà Lê Thị C tháng 12/2019 trên
bảng lương là 6.003.760 đồng/tháng. Như vậy qua so sánh chuyển giao hợp đồng thì
không có sự chênh lệch về số tiền từ tháng 1/2020 đến tháng 12/2021 là 15.772.800
đồng. Do đó bị đơn không chấp nhận yêu cầu này của nguyên đơn.
Từ tháng 1/2022 đến tháng 12/2024 bà Lê Thị C không ký thêm phụ lục hợp
đồng và hợp đồng lao động theo yêu cầu của Trung tâm. Nên khoản chênh lệch khi
chuyển hợp đồng từ tháng 1/2022 đến tháng 12/2024 là 34.797.600 đồng là không có
cơ sở. Do đó bị đơn không chấp nhận yêu cầu này của nguyên đơn.
- Yêu cầu 5: Trả 7% phụ cấp đối với người đã qua học nghề, đào tạo từ tháng
7/2022 đến 12/2024 là 30 tháng *4.680.000đ*7% = 9.828.000 đồng.
- Ý kiến trả lời của TTBTXH thứ 5: Theo Nghị định số 90/2019/NĐ-CP quy
định với những người lao động đã qua học nghề, đào tạo nghề (bằng nghề, trung cấp,
cao đẳng, đại học….) thì được trả lương cao hơn ít nhất 7% so với mức lương tối thiểu
vùng. Tuy nhiên trong Nghị định số 38/2022/NĐ-CP ngày 30/6/2022 thay thế Nghị
định số 90/2019/NĐ-CP không còn nội dung chi 7% bằng cấp. Thay vào đó Nghị định
số 38/2022/NĐ-CP chỉ quy định chung mức lương tối thiểu tháng là mức lương thấp
nhất làm cơ sở để thỏa thuận và trả lương cho người lao động áp dụng hình thức trả
lương theo tháng. Do đó bị đơn không chấp nhận yêu cầu này của nguyên đơn.
Từ ngày 01/7/2024 Nghị định số 74/2024/NĐ-CP thay thế nghị định số
38/2022/NĐ-CP thì người sử dụng lao động trả lương cho người lao động, qua học tập,
đào tạo nghề được trả lương cao hơn ít nhất 7% so với mức lương tối thiểu vùng.
Ngày 24/07/2024 đơn vị thông báo số 705/TB-TTBTXH về việc ký phụ lục hợp
đồng lao động do thay đổi các chế độ theo Nghị định.
Ngày 18/10/2024 đơn vị thông báo số 1092/TB-TTBTXH về việc ký phụ lục
hợp đồng và hợp đồng lao động do thay đổi các chế độ theo Nghị định.
Ngày 11/11/2024 đơn vị thông báo số 1194/TB-TTBTXH về việc ký phụ lục
hợp đồng và hợp đồng lao động (lần 3) do thay đổi các chế độ theo Nghị định.
Ngày 14/11/2024 bà Lê Thị C cùng 34 người lao động có văn bản gửi Giám đốc
Trung tâm BTXH về việc chưa thực hiện ký phụ lục hợp đồng và hợp đồng lao động
và tạm thời nhận lương theo bảng lương cũ.
Như vậy từ tháng 7/2022 đến tháng 12/2024 đơn vị không có cơ sở để trả 7%
tiền qua đào tạo học nghề cho bà Lê Thị C. (Đơn vị chi trả 7% cho những người đã ký
phụ lục hợp dồng và hợp đồng lao động đã qua đào tạo theo thông báo của đơn vị). Do
đó bị đơn không chấp nhận yêu cầu này của nguyên đơn.
- Yêu cầu 6: Buộc Trung tâm bảo trợ xã hội tỉnh BRVT thực hiện chi trả lương
theo nghị định 204/2004/NĐ-CP ngày 14/12/2004 của Thủ tướng chính phủ như từng

6
áp dụng tại hợp đồng lao động theo nghị định 68/2000/NĐ-CP và có tính thời gian
nâng bậc, nâng lương trong thời gian từ trước 01/01/2020 đến nay.
- Ý kiến trả lời của TTBTXH thứ 6: Trung tâm và Bà Lê Thị C đã thỏa thuận trả
lương khoán theo hợp đồng nên không có căn cứ để áp dụng theo Nghị định số
204/2004/NĐ-CP ngày 14/12/2004 của Chính phủ. Do đó bị đơn không chấp nhận yêu
cầu này của nguyên đơn.
Ngày 26 tháng 8 năm 2025 người đại diện ủy quyền của bị đơn yêu cầu Tòa án
áp dụng thời hiệu trong vụ án này vì bị đơn cho rằng thời hiệu đối với hợp đồng lao
động số 53/HĐLV ngày 02/01/2020 và những nội dung phát sinh trước ngày 13/3/2025
đối với hợp đồng số 103/HĐ/TTBTXH ngày 31/12/2022 đã hết hiệu lực do đó, đề nghị
Tòa án nhân dân khu vực 12 – Thành phố Hồ Chí Minh đình chỉ các yêu cầu khởi kiện
của nguyên đơn.
Tại phiên tòa: Người đại diện theo ủy quyền của Trung tâm bảo trợ và công tác
xã hội xác nhận giữa Trung tâm và bà Lê Thị C đã ký lại hợp đồng lao động số
55/HĐLĐ ngày 10/3/2025 và phụ lục hợp đồng số 55/PLHĐ ngày 26/4/2025 thời điểm
hợp đồng có hiệu lực từ ngày 01/3/2025. Đối với đơn yêu cầu Tòa án áp dụng thời hiệu
thì bị đơn xác định chỉ yêu cầu Tòa án áp dụng thời hiệu đối với yêu cầu hủy hợp đồng
số 53 ngày 02/01/2020, các yêu cầu còn lại bị đơn không yêu cầu Tòa án áp dụng thời
hiệu.
Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân khu vực 12 – Thành phố Hồ Chí
Minh phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng
xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án
kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và phát biểu ý kiến về
việc giải quyết vụ án như sau:
Áp dụng khoản 5 Điều 32, điểm c khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39,
Điều 147, Điều 184, điểm e khoản 1 Điều 217, Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm
2015, khoản 3 Điều 190 Bộ luật lao động, Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30
tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm,
thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án
Đề nghị hội đồng xét xử đình chỉ đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về
việc yêu cầu hủy hợp đồng lao động số 53/HĐLV ngày 02/01/2020 do hết thời hiệu
khởi kiện và không chấp nhận các yêu cầu khởi kiện còn lại của nguyên đơn.
Về án phí: Đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết theo quy định của pháp luật
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết: Nguyên đơn bà Lê Thị C
khởi kiện Trung tâm bảo trợ xã hội tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (nay là Trung tâm Bảo trợ
và Công tác xã hội thuộc sở Y tế Thành phố Hồ Chí Minh) yêu cầu hủy hợp đồng lao
động, trả tiền lương và trợ cấp thu hút, bị đơn có địa chỉ tại ấp 6, xã Tóc Tiên, thị xã
Phú Mỹ, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (nay là xã Châu Pha, Thành phố Hồ Chí Minh) do đó
có cơ sở xác định là vụ án Lao động về tranh chấp tiền lương, tranh chấp hợp đồng lao
động và trợ cấp thu hút thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân khu vực 12 –
Thành phố Hồ Chí Minh theo khoản 5 Điều 32, điểm c khoản 1 Điều 35, điểm a khoản
1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự và Điều 4 Nghị quyết số 81/2025/UBTVQH15 ngày
27/6/2025 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội
[2] Xét yêu cầu áp dụng thời hiệu của bị đơn, Hội đồng xét xử xét thấy:
7
Tại Điều 1 của hợp đồng lao động số 53/HĐLV ngày 02/01/2020 thỏa thuận về
thời hạn hợp đồng lao động là 12 tháng, bắt đầu từ ngày 01/01/2020 kết thúc ngày
31/12/2020. Ngày 01/01/2021 giữa Trung tâm và bà Cúc tiếp tục ký hợp đồng lao động
số 84/HĐ-TTBTXH. Như vậy, hợp đồng lao động số 53 đã kết thúc vào ngày
31/12/2020 theo thỏa thuận của các bên. Điều 429 Bộ luật dân sự quy định thời hiệu
khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp hợp đồng là 03 năm kể từ ngày
người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm
hại. Do đó, thời hiệu khởi kiện đối với hợp đồng này đã hết. Nên Hội đồng xét xử căn
cứ vào Điều 184, điểm e khoàn 1 Điều 217 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 để đình
chỉ giải quyết đối với yêu cầu hủy hợp đồng lao động số 53/HĐLV ngày 02/01/2020
của nguyên đơn.
[3] Xét các yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn
3.1. Xét yêu cầu hủy hợp đồng lao động số 53/HĐLV ngày 02/01/2020
Căn cứ vào nhận định số 2 nêu trên Hội đồng xét xử đình chỉ yêu cầu khởi kiện
yêu cầu hủy hợp đồng lao động số 53/HĐLV ngày 02/01/2020 của nguyên đơn vì hết
thời hiệu khởi kiện
3.2. Xét yêu cầu hủy hợp đồng lao động số 103/HĐ_TTBTXH ngày 31/12/2022
Điều 2 của Hợp đồng lao động số 103/HĐ_TTBTXH ngày 31/12/2022 giữa
Trung tâm bảo trợ xã hội tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu với bà Lê Thị C quy định thời hạn
hợp đồng lao động là không xác định thời hạn từ ngày 01/01/2022. Tuy nhiên vào ngày
10/3/2025 giữa Trung tâm bảo trợ xã hội và công tác tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu với bà Lê
Thị C đã ký hợp đồng lao động thực hiện công việc hỗ trợ, phục vụ số 55/HĐLĐ, hợp
đồng có hiệu lực từ ngày 01/3/2025. Như vậy hợp đồng lao động số 103/HĐ_TTBTXH
ngày 31/12/2022 đã chấm dứt theo thỏa thuận của các bên từ ngày 01/3/2025 là phù
hợp với khoản 3 Điều 422 Bộ luật dân sự. Do đó, Hội đồng xét xử không có cơ sở chấp
nhận yêu cầu khởi kiện này của nguyên đơn
3.3. Xét yêu cầu khởi kiện buộc Trung tâm bảo trợ xã hội tỉnh Bà Rịa – Vũng
Tàu (nay là Trung tâm bảo trợ và công tác xã hội thuộc Sở Y tế Thành phố Hồ Chí
Minh) trả cho bà Cúc số tiền trợ cấp thu hút mỗi tháng 1.200.000 đồng theo Quyết định
số 2001/QĐ-UBND ngày 25/9/2012 của Ủy ban nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu từ
tháng 02 năm 2020 đến tháng 12 năm 2024 là 69.6000.000 đồng
Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa nguyên đơn và bị đơn đều thừa nhận
từ tháng 01 năm 2020 trở về trước bà Cúc đều được nhận tiền trợ cấp thu hút theo
Quyết định số 2001/QĐ-UBND ngày 25/9/2012 của Ủy ban nhân dân tỉnh Bà Rịa –
Vũng mỗi tháng 1.200.000 đồng, đồng thời bà Cúc được ký hợp đồng theo Nghị định
68/2000/NĐ-CP ngày 17/11/2000 và được áp dụng bảng lương tại Nghị định số
204/2004/NĐ-CP của Chính Phủ. Lời thừa nhận này là sự kiện không cần phải chứng
minh theo Điều 92 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Nguyên đơn và bị đơn chỉ
tranh chấp về số tiền trợ cấp thu hút từ tháng 02 năm 2020 đến tháng 12 năm 2024. Hội
đồng xét xử xét thấy:
Tại mục 2 của Công văn số 638/HD-SNV-STC ngày 30/10/2019 về việc hướng
dẫn thực hiện chế độ hợp đồng một số công việc trong cơ quan hành chính nhà nước,
đơn vị sự nghiệp công lập của Sở Nội vụ - Sở Tài chính Ủy ban nhân dân tỉnh Bà Rịa –
Vũng Tàu thì “đối với các cá nhân đang ký hợp đồng lao động để làm những công việc
nêu tại Điều 1 Nghị định 68/2000/NĐ-CP, quy định tại khoản 1 Điều 3 Nghị định
161/2018/NĐ-CP và áp dụng bảng lương quy định tại Nghị định số 204/2004/NĐ-CP
ngày 14/12/2004 của chính phủ về chế độ tiền lương đối với cán bộ công chức, viên
8
chức và lực lượng vũ trang thì chuyển sang ký hợp đồng lao động theo quy định tại
Điều 3 Nghị định số 161/2018/NĐ-CP của Chính phủ
Mức lương trong hợp đồng lao động mới không thấp hơn mức lương hiện
hưởng (tổng thu nhập hiện hưởng của người lao động theo quy định tại Nghị định số
68/2000/NĐ-CP hiện được áp dụng theo thang bảng lương của Nghị định
204/2004/NĐ-CP và các khoản phụ cấp khác theo quy định của pháp luật, được quy
đổi ra số tiền cụ thể; mức lương trong hợp đồng lao động mới không được thấp hơn số
tiền cụ thể đang hưởng)
Tại bảng lương tháng 12 năm 2019 (BL 118-119) và danh sách trợ cấp thu hút
cho CBVC và NLĐ tháng 12 năm 2019 (BL 115-117) thì tổng số tiền mà bà Cúc đang
được hưởng trước khi ký hợp đồng lao động theo quy định tại Nghị định số 161 là
6.003.760 đồng
Ngày 02/01/2020 bà Cúc ký hợp đồng lao động số 53 với Trung tâm thỏa thuận
tiền lương khoán là 6.003.760 đồng.
Như vậy tiền lương trong hợp đồng lao động số 53 bằng số tiền bà Cúc đang
được hưởng trước khi ký hợp đồng lao động số 53. Hợp đồng lao động số 53 phù hợp
với hướng dẫn số 638/HD-SNV-STC ngày 30/10/2019 về việc hướng dẫn thực hiện
chế độ hợp đồng một số công việc trong cơ quan hành chính nhà nước, đơn vị sự
nghiệp công lập của Sở Nội vụ - Sở Tài chính Ủy ban nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng
Tàu. Do đó, Hội đồng xét xử không có cơ sở chấp nhận yêu cầu khởi kiện này của
nguyên đơn.
3.4. Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn buộc Trung tâm phải trả tiền bị giảm
khi chuyển đổi hợp đồng từ tháng 01/2020 đến tháng 12 năm 2021 mỗi tháng 657.200
đồng là 15.772.800 đồng và từ tháng 01/2022 đến tháng 12/2024 mỗi tháng 966.600
đồng là 34.797.600 đồng
Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, nguyên đơn không cung cấp
được bất kỳ tài liệu chứng cứ nào chứng minh cho việc nguyên đơn bị giảm tiền khi
chuyển đổi hợp đồng. Bị đơn cung cấp được các bảng lương từ tháng 12 năm 2019 đến
hết năm 2024 nên Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 4 Điều 91 Bộ luật tố tụng dân sự
để xem xét giải quyết.
Theo bảng lương tháng 12 năm 2019 và tiền trợ cấp thu hút tháng 12/2019 thì
bà Cúc được nhận là 6.003.760 đồng
Ngày 01/01/2020 thì bà Cúc ký hợp đồng mới với Trung tâm là hợp đồng số 53
(thời hạn hợp đồng là 01/01/2020 đến 31/12/2020) thể hiện tiền lương của bà Cúc là
6.003.760 đồng. Theo danh sách bảng lương năm 2020 mà bị đơn cung cấp thì số tiền
lương (chưa trừ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp) bằng hoặc cao
hơn số tiền lương mà bà Cúc nhận được vào tháng 12 năm 2019
Ngày 01/01/2021 bà Cúc và Trung tâm ký hợp đồng lao động số 84 thời hạn là
một năm kể từ ngày 01/01/2021 đến ngày 31/01/2021 và ngày 31/12/2022 bà Cúc và
Trung tâm ký hợp đồng lao động số 103 thời hạn của hợp đồng lao động là vô thời hạn
thể hiện tiền lương của bà Cúc là 6.313.160 đồng. Theo danh sách bảng lương năm
2021, 2022, 2023 và 2024 mà bị đơn cung cấp thì số tiền lương (chưa trừ bảo hiểm xã
hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp) đều bằng hoặc cao hơn mức lương mà bà Cúc
ký với trung tâm tại hợp đồng lao động số 53 và 84
Do đó, Hội đồng xét xử có cơ sở xác định khi chuyển đổi hợp đồng lao động
người lao động không bị giảm tiền lương so với các hợp đồng đã ký trước đó, có
những tháng người lao động được nhận tiền lương cao hơn so với hợp đồng lao động
9
ký với trung tâm. Vì vậy, Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu khởi kiện này của
nguyên đơn.
3.5. Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn buộc Trung tâm phải trả phụ cấp 7%
bằng cấp đối với người đã qua học nghề đào tạo từ tháng 7 năm 2022 đến tháng 12
năm 2024 là 9.282.000 đồng
Tại điểm b khoản 1 Điều 5 của Nghị định số 90/2019/CN-CP ngày 15 tháng 11
năm 2019 của Chính phủ quy định về việc có chi trả 7% đối với người lao động đã qua
học nghề đào tạo. Tuy nhiên, khoản 2 Điều 5 của Nghị định số 38/2022/NĐ-CP ngày
12 tháng 6 năm 2022 đã bãi bỏ Nghị định số 90/2019/CN-CP ngày 15 tháng 11 năm
2019, Nghi định số 38 không còn quy định về việc chi trả 7% đối với người lao động
đã qua học nghề đào tạo và Nghị định này có hiệu lực kể từ ngày 01/7/2022. Đồng
thời Quyết định về việc ban hành quy chế tiền lương, tiền thưởng năm 2022 của Trung
tâm bảo trợ xã hội tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu ngày 22/02/2022, Quyết định về việc ban
hành Quy chế tiền lương, tiền thưởng năm 2023 của Trung tâm bảo trợ xã hội tỉnh Bà
Rịa – Vũng Tàu ngày 15/01/2023 đến trước ngày 09/10/2024 (là ngày trung tâm ban
hành Quy chế sửa đổi bổ sung tiền lương, tiền thưởng năm 2024) không quy định về
việc chi trả tiền phụ cấp 7% đối với người đã qua học nghề đào tạo. Mặt khác tại bảng
thanh toán tiền lương, các khoản phụ cấp theo lương, các khoản trích nộp theo lương
cho người lao động từ tháng 08 năm 2022 không còn chi trả tiền phụ cấp 7% cho
người đã qua học nghề đào tạo, tại phiên tòa người lao động thừa nhận khi nhận lương
đã biết về việc trong số tiền lương mà người lao động được nhận hàng tháng từ tháng
08/2022 trở về sau không có phụ cấp 7% tiền bằng nhưng vẫn tiếp tục làm việc và
nhận lương mà không có ý kiến khiếu nại gì đối với trung tâm lên các cơ quan có thẩm
quyền. Ngoài ra ngày 24/7/2024 và ngày 18/10/2024 Trung tâm đã yêu cầu người lao
động ký lại phụ lục hợp đồng và hợp đồng lao động theo quy định nhưng người lao
động không thực hiện việc ký lại theo thông báo mặc dù đã biết được các thông báo
nêu trên. Do đó, Hội đồng xét xử có cơ sở xác định người lao động đã đồng ý với mức
lương hàng tháng mà Trung tâm chi trả không có phụ cấp 7% tiền bằng cấp đã qua đào
tạo, việc không đồng ý ký lại phụ lục hợp đồng là người lao động đã tự ý từ bỏ quyền
lợi của người lao động, vì vậy, Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu khởi kiện
này của nguyên đơn.
3.6. Xét yêu cầu khởi kiện buộc Trung tâm bảo trợ xã hội tỉnh Bà Rịa – Vũng
Tàu (nay là Trung tâm bảo trợ và công tác xã hội thuộc Sở Y tế Thành phố Hồ Chí
Minh) chi trả lương theo Nghị định 204/2004/NĐ-CP ngày 14/12/2004 của Thủ tướng
Chính phủ như từng áp dụng với bà Cúc tại Hợp đồng lao động theo Nghị định
68/2000/NĐ-CP và có tính thời gian nâng bậc, nâng lương trong thời gian từ trước
01/01/2020 đến nay
Hội đồng xét xử xét thấy, bà Cúc thuộc trường hợp người lao động làm việc
theo hợp đồng, không phải là công chức, viên chức nên không được chi trả lương theo
như nghị định dành cho cán bộ công chức viên chức và lực lượng vũ trang. Đồng thời
nghị định 204/2004/NĐ-CP và Nghị định 68/2000/NĐ-CP đã hết hiệu lực nên không
có cơ sở để Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện này của nguyên đơn.
Từ những nhận định và phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử đình chỉ một phần
yêu cầu khởi kiện và không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện còn lại của nguyên
đơn.
[4] Về án phí: Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn không được chấp nhận
một phần nên nguyên đơn chịu án phí lao động sơ thẩm theo quy định của Nghị quyết
10
326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội
quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Cụ thể:
Nguyên đơn chịu 300.000 đồng án phí không có giá ngạch đối với yêu cầu hủy
số 103/HĐ_TTBTXH ngày 31/12/2022 và 2.088.000 đồng án phí có giá ngạch đối với
yêu cầu trả tiền trợ cấp thu hút, nguyên đơn không phải chịu án phí đối với yêu cầu trả
tiền bị giảm khi chuyển đổi hợp đồng, chi trả 7% phụ cấp bằng và yêu cầu trả lương
theo Nghị định 204/2004/NĐ-CP ngày 14/12/2004 của Thủ tướng Chính phủ như từng
áp dụng với bà Cúc tại Hợp đồng lao động theo Nghị định 68/2000/NĐ-CP. Tổng cộng
là 2.388.000 đồng án phí lao động sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 5 Điều 32, điểm c khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39,
Điều 91, Điều 92, Điều 147, Điều 184, điểm e khoản 1 Điều 217, Điều 273, Điều 244
Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;
Căn cứ Điều 4 Nghị quyết số 81/2025/UBTVQH15 ngày 27/6/2025 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội
Căn cứ Điều 422, Điều 429 Bộ luật dân sự năm 2015;
Căn cứ khoản 3 Điều 190 Bộ luật Lao động năm 2019;
Căn cứ vào Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của
Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử
dụng án phí và lệ phí Tòa án
Tuyên xử:
1. Đình chỉ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc yêu cầu hủy hợp đồng
lao động số 53/HĐLV ngày 02/01/2020 do hết thời hiệu khởi kiện.
2. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Lê Thị C đối với bị
đơn Trung tâm bảo trợ xã hội tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (nay là Trung tâm bảo trợ và
công tác xã hội thuộc Sở Y tế Thành phố Hồ Chí Minh) về việc:
- Hủy hợp đồng lao động số 103/HĐ_TTBTXH ngày 31/12/2022 giữa Trung
tâm bảo trợ xã hội tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu với bà Lê Thị C
- Buộc Trung tâm bảo trợ xã hội tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (nay là Trung tâm
bảo trợ và công tác xã hội thuộc Sở Y tế Thành phố Hồ Chí Minh) trả cho ông Châu số
tiền trợ cấp thu hút mỗi tháng 1.200.000 đồng theo Quyết định số 2001/QĐ-UBND
ngày 25/9/2012 của Ủy ban nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu từ tháng 02 năm 2020
đến tháng 12 năm 2024 là 69.600.000 đồng
- Buộc Trung tâm bảo trợ xã hội tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (nay là Trung tâm
bảo trợ và công tác xã hội thuộc Sở Y tế Thành phố Hồ Chí Minh) phải trả tiền bị giảm
khi chuyển đổi hợp đồng từ tháng 01/2020 đến tháng 12 năm 2021 mỗi tháng 657.200
đồng là 15.772.800 đồng và từ tháng 01/2022 đến tháng 12/2024 mỗi tháng 966.600
đồng là 34.797.600 đồng
- Buộc Trung tâm bảo trợ xã hội tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (nay là Trung tâm
bảo trợ và công tác xã hội thuộc Sở Y tế Thành phố Hồ Chí Minh) trả cho bà Cúc phụ
cấp 7% bằng cấp từ tháng 7 năm 2022 đến tháng 12 năm 2024 là 9.282.000 đồng (chín
triệu hai trăm tám mươi hai nghìn đồng)
- Buộc Trung tâm bảo trợ xã hội tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (nay là Trung tâm
bảo trợ và công tác xã hội thuộc Sở Y tế Thành phố Hồ Chí Minh) chi trả lương theo
11
Nghị định 204/2004/NĐ-CP ngày 14/12/2004 của Thủ tướng Chính phủ như từng áp
dụng với bà Cúc tại Hợp đồng lao động theo Nghị định 68/2000/NĐ-CP và có tính thời
gian nâng bậc, nâng lương trong thời gian từ trước 01/01/2020 đến nay
3. Về án phí: Bà Lê Thị C chịu 2.388.000 đồng (hai triệu ba trăm tám mươi
tám nghìn đồng) án phí lao động sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong
thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân
sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả
thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế
thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7A, 7B và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời
hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Nơi nhận:
- Các đương sự;
- TAND TPHCM;
- VKSND TPHCM;
- VKSND KV 12 - TPHCM;
- Thi hành án dân sự TPHCM;
- Lưu VP, hồ sơ.
T.M HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nguyễn Thị Thùy
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 09/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 04/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 28/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 26/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 31/07/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 28/07/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 28/07/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 21/07/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 06/07/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 30/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 26/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 19/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 12/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 28/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 23/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 23/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 23/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 09/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 25/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm