Bản án số 02/2025/LĐ-PT ngày 23/05/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp về quyền, lợi ích liên quan đến việc làm, tiền lương

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 02/2025/LĐ-PT

Tên Bản án: Bản án số 02/2025/LĐ-PT ngày 23/05/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp về quyền, lợi ích liên quan đến việc làm, tiền lương
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp về quyền, lợi ích liên quan đến việc làm, tiền lương...
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND cấp cao tại TP.HCM
Số hiệu: 02/2025/LĐ-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 23/05/2025
Lĩnh vực: Lao động
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Ông Shin Hyo J kiện Công ty TNHH J1 về Tranh chấp đòi tiền lương, yêu cầu chốt sổ và trả sổ bảo hiểm xã hội
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Bản án số: 02/2025/-PT
Ngày 23 - 4 - 2025
V/v “Tranh chấp đòi tiền lương, yêu
cầu chốt sổ và trả sổ bảo hiểm xã hội
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa:
Bà Nguyễn Thị Thụy Vũ;
Các Thẩm phán:
Ông Nguyễn Văn Khương;
Nguyn Th Thúy Hòa.
- Thư phiên tòa: Ông Nguyn Hu Trung Thư Tòa án nhân dân
cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
tham gia phiên tòa: Ông Phạm Văn Nhàn - Kiểm sát viên.
Ngày 23 tháng 4 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành
phố Hồ Chí Minh tiến hành xét xử phúc thẩm công khai vụ án lao động thụ lý số
06/2024/TLPT-DS ngày 12 tháng 12 năm 2024 về “Tranh chấp đòi tiền lương,
yêu cầu chốt sổ và trả sổ bảo hiểm xã hội”.
Do Bản án lao động sơ thẩm số 04/2024/LĐST ngày 10 tháng 9 năm 2024
của Tòa án nhân dân tỉnh Long An bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 1030/2025/QĐ-PT ngày
17 tháng 3 năm 2025, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Ông Shin Hyo J, sinh năm 1974. (Vắng mặt)
Địa chỉ: Juno B, 875-4 T-dong, D-gu, Koyang-city, K.
Người đại diện theo ủy quyền: Trần Thị Kim A, sinh năm 1977. (Vắng
mặt)
Địa chỉ: Số E D, phường T, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh.
Bị đơn: Công ty TNHH J1.
Địa chỉ: X, 15-17-19, đường số E, khu công nghiệp T, huyện Đ, tỉnh
Long An.
Người đại diện theo pháp luật: Jang Myung H; chức vụ: Giám đốc.
(Vắng mặt)
2
Người đại diện theo ủy quyền:
1. Ông Cho Seung M, sinh năm 1971. (Vắng mặt)
2. Bà Cho Y, sinh năm 1974. (Vắng mặt)
3. Ông Seungmok O, sinh năm 1979. (Vắng mặt)
4. Bà Đinh Tuyết Anh T, sinh năm 1994. (Vắng mặt)
5. Bà Bùi Thị Thủy T1, sinh năm 1997. (Có mặt)
Cùng địa chỉ liên hệ: Tầng G, Vincom L, G Đ, Phường B, quận B, Thành
phố Hồ Chí Minh.
- Người kháng cáo: Bị đơn Công ty TNHH J1.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo Đơn khởi kiện ngày 08/3/2024 lời trình bày trong qtrình giải
quyết vụ án của nguyên đơn ông Shin Hyo J người đại diện theo ủy quyền bà
Trần Thị Kim A có nội dung như sau:
Ngày 30/4/2023, ông Shin Hyo J có ký hợp đồng lao động số HĐ 2023 với
Công ty TNHH J1, thời hạn hợp đồng 02 năm tngày 30/4/2023 đến ngày
27/4/2025, chức vụ, công việc ông Shin Hyo J phải làm kỹ thuật cho công ty.
Mức lương ông Shin H1 Jae nhận hàng tháng là 1.500 USD, hình thức trả lương
bằng tiền mặt. Sau khi kết hợp đồng, ông Shin Hyo J đã thực hiện đúng các
công việc được giao, chấp nh tốt nội quy công ty, luôn hoàn thành tốt công việc,
chưa từng bị công ty xử kỷ luật, công ty trả lương đầy đủ cho ông đến hết tháng
6/2023. Tuy nhiên, trong thời gian làm việc ttháng 7/2023 đến tháng 3/2024 thì
công ty không trả lương cho ông S Hyo Jae nữa, mặc ông Shin Hyo J nhắc nhở
liên tục nhưng giám đốc công ty C không thực hiện việc chi trả lương cho ông,
trong khi đó công ty lại trả lương đầy đcho các chuyên gia Hàn Quốc khác. Ông
Shin Hyo J nhận thấy công ty không thực hiện đúng với nội dung hợp đồng đã
kết ông cần thu nhập để lo cho gia đình bản thân nên ngày 05/3/2024,
ông Shin Hyo J đã nộp đơn thôi việc nhận được sự đồng ý từ giám đốc của
công ty.
Tại đơn khởi kiện đề ngày 08/3/2024, ông Shin Hyo J khởi kiện buộc Công
ty TNHH J1 phải trả cho ông S Hyo Jae số tiền lương còn nợ ttháng 7/2023 đến
tháng 3/2024 314.550.000đồng (34.950.000đồng x 09 tháng =
314.500.000đồng). Do tháng 3/2024, ông Shin Hyo J nộp đơn xin nghỉ và không
làm việc nên nguyên đơn không yêu cầu công ty phải hoàn trả lương tháng
3/2024, nguyên đơn thay đổi yêu cầu khởi kiện: Buộc Công ty TNHH J1 phải trả
cho ông S Hyo Jae số tiền lương còn nợ từ tháng 7/2023 đến tháng 02/2024
279.600.000đồng đồng (34.950.000đồng x 8 tháng = 279.600.000đồng). Yêu cầu
đóng và chốt sổ bảo hiểm xã hội cho nguyên đơn theo quy định.
Tại đơn tường trình ngày 09/9/2024, đại diện theo ủy quyền của nguyên
đơn trình bày: Nguyên đơn xin thay đổi yêu cầu khởi kiện, cụ thể: Buộc Công ty
3
TNHH J1 phải trả cho ông S Hyo Jae số tiền lương còn nợ từ tháng 7/2023 đến
tháng 02/2024 279.600.000đồng đồng (34.950.000đồng x 8 tháng =
279.600.000đồng). Yêu cầu chốt sổ bảo hiểm xã hội và trả lại sổ bảo hiểm xã hội
cho nguyên đơn. Do bị đơn đã đóng đầy đủ tiền bảo hiểm cho nguyên đơn theo
quy định của pháp luật nên nguyên đơn không yêu cầu bị đơn phải đóng tiền bảo
hiểm. Ngoài ra, nguyên đơn không còn ý kiến và yêu cầu gì khác.
Bị đơn Công ty TNHH J1 do Đinh Thị Tuyết N đại diện theo ủy quyền
trình bày tại bản ý kiến ngày 07/8/2024:
Bị đơn đề nghị không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn
vì những lý do sau đây:
Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bao gồm cả phần tiền lương chưa thanh
toán theo hợp đồng lao động ký giữa bị đơn công ty mẹ của bị đơn tại Hàn
Quốc. Theo đó, phần tiền lương chưa thanh toán theo hợp đồng lao động giữa
nguyên đơn với công ty mẹ của bị đơn (chủ sở hữu của bị đơn) tại Hàn Quốc
không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án Việt Nam theo Điều 469 Bộ luật
Tố tụng dân sự.
Không những vậy, nguyên đơn còn nộp đơn đến quan quản lý về lao
động tại Hàn Quốc để yêu cầu giải quyết phần tiền lương chưa thanh toán theo
hợp đồng lao động ký giữa bđơn công ty mẹ của bị đơn tại Hàn Quốc cũng
như hợp đồng lao động ký giữa nguyên đơn và bị đơn. Theo đó, phần tiền lương
chưa thanh toán theo hợp đồng lao động giữa nguyên đơn bị đơn đã được
giải quyết một phần bởi cơ quan quản về lao động tại Hàn Quốc. Bị đơn sẽ sớm
cung cấp các tài liệu, chứng cứ chứng minh cho thông tin bị đơn cung cấp nêu
trên cho Tòa án để cân nhắc xem xét.
Tại Bản án lao động sơ thẩm số 04/2024/LĐST ngày 10 tháng 9 năm 2024,
Tòa án nhân dân tỉnh Long An đã quyết định:
Căn cứ Điều 32, Điều 35, Điều 37, Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 228,
Điều 271, Điều 273 và 483 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 15, Điều 17,
Điều 22, Điều 23 và Điều 25 Bộ luật Lao động năm 2019; khoản 5 Điều 21 Luật
Bảo hiểm hội năm 2014; Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm,
thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông S Hyo Jae tranh chấp
đòi tiền lương với bị đơn Công ty TNHH J1.
Buộc Công ty TNHH J1 phải trả cho ông Shin H1 Jae tiền lương nợ từ tháng
7/2023 đến tháng 02/2024 (08 tháng) với số tiền 279.600.000 đồng.
Kể từ khi án hiệu lực pháp luật, kể từ ngày đơn yêu cầu thi hành án
của người được thi hành án cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, bên
có nghĩa vụ chậm thi hành sẽ phải chịu thêm khoản tiền lãi tính trên số tiền chậm
4
trả theo quy định tại Điều 357, khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự tương ứng với
thời gian chưa thi hành án, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác hoặc pháp
luật có quy định khác.
2. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Shin Hyo J về việc yêu cầu Công
ty TNHH J1 chốt và trả lại sổ Bảo hiểm xã hội cho ông Shin Hyo J.
Buộc Công ty TNHH J1 hn tất các thtục chốt và trả lại Sổ Bảo hiểm xã
hội cho cho ông S Hyo Jae theo quy định của pháp luật.
Ngoài ra, bản án thẩm còn tuyên về án phí, quyền kháng cáo vụ án
quyền yêu cầu thi hành án theo luật định.
Ngày 09/10/2024, Công ty TNHH J1 kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm với
do quá trình giải quyết vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm và nguyên đơn đã nhiều
hành vi vi phạm thủ tục tố tụng, ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi ích
hợp pháp của bị đơn. Cụ thể:
Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bao gồm cả phần tiền lương chưa thanh
toán theo hợp đồng lao động giữa bị đơn và Công ty mẹ của bị đơn tại Hàn
Quốc. Theo đó, phần tiền lương chưa thanh toán theo hợp đồng lao động giữa
nguyên đơn với Công ty mẹ của bị đơn tại Hàn Quốc không thuộc thẩm quyền
giải quyết của Tòa án Việt Nam theo Điều 469 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Ngoài ra, nguyên đơn đã nộp đơn đến cơ quan quản lý về lao động tại Hàn
Quốc để yêu cầu giải quyết phần tiền lương chưa thanh toán theo hợp đồng lao
động ký giữa bị đơn và Công ty mẹ của bị đơn tại Hàn Quốc, cũng như hợp đồng
lao động giữa nguyên đơn và bị đơn. Theo đó, phần tiền lương chưa thanh toán
theo hợp đồng lao động giữa nguyên đơn bị đơn đã được giải quyết một
phần bởi cơ quan quản về lao động tại Hàn Quốc. Do nguyên đơn cố tình che
giấu không cung cấp các tài liệu này cho Tòa án, làm sai lệch sự thật khách quan,
ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn.
Tại phiên tòa phúc thẩm ngày 31/3/2025, đại diện theo ủy quyền của bị đơn
xuất trình các văn bản được cho gửi về từ Hàn Quốc liên quan đến việc giải
quyết tiền lương cho nguyên đơn. Tuy nhiên, văn bản này chưa được hợp pháp
hóa lãnh sự và chưa được dịch sang tiếng Việt theo đúng quy định nên Hội đồng
xét xử đã hoãn phiên tòa để bị đơn thực hiện thủ tục xuất trình chứng cứ hợp pháp.
Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay,
Đại diện theo ủy quyền của bđơn không cung cấp được văn bản hợp lcủa
các tài liệu đã xuất trình vào ngày 31/3/2025, trình bày giữ nguyên yêu cầu kháng
cáo, thừa nhận các thông tin về hợp đồng lao động đã kết như nguyên đơn trình
bày là đúng, do Công ty mẹ tại Hàn Quốc xảy ra sự cố nên Công ty hoạt động tại
Việt Nam cũng bị ảnh hưởng sự việc chi trả lương gián đoạn như nguyên
đơn trình bày. Tuy nhiên, án thẩm buộc bị đơn thanh toán tiền lương cho
nguyên đơn từ tháng 7/2023 đến tháng 03/2024 với số tiền 314.550.000 đồng
không đúng vì thực tế nguyên đơn đã được Công ty mẹ của bị đơn tại Hàn Quốc
5
chi trả các khoản tiền lương xong, do đó yêu cầu không chấp nhận yêu cầu khởi
kiện của nguyên đơn.
Đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn vắng mặt không do, không
văn bản trình bày ý kiến về yêu cầu kháng cáo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh phát
biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án:
Về thủ tục tố tụng: giai đoạn giải quyết ở cấp sơ thẩm đã tuân thủ đúng quy
định, tại phiên tòa phúc thẩm, Hội đồng xét xử, Thư ký và những người tham gia
tố tụng có mặt đã thực hiện đúng quy định tố tụng. Kháng cáo được làm trong hạn
luật định, đđiều kiện để xem xét theo thủ tục phúc thẩm.
Về yêu cầu kháng cáo: Đề nghị Hội đồng xét xkhông chấp nhận kháng
cáo, giữ nguyên bản án thẩm do Tòa án cấp thẩm đã tuân thủ thủ tục tố tụng,
chứng cứ được thu thập đầy đđđánh giá và giải quyết các vấn đề trong vụ kiện
một cách khách quan, đúng pháp luật. Bị đơn kháng cáo nhưng không cung cấp
thêm chứng cứ nào mới làm thay đổi bản chất vụ án nên không có căn cứ để chấp
nhận.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu trong hồ vụ án đã được thẩm tra tại
phiên tòa căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận
định:
[1] Về hình thức:
Bị đơn kháng cáo trong thời hạn luật định nên đơn kháng cáo hợp lệ,
được xem xét theo thủ tục phúc thẩm.
Quá trình tiến hành tố tụng, Tòa án cấp thẩm đã tuân thủ các quy định
về thủ tục tố tụng. Án sơ thẩm đã xác định quan hệ pháp luật trong vụ án và thẩm
quyền giải quyết thuộc Tòa án nhân dân tỉnh Long An là đúng theo quy định của
Bộ luật Tố tụng dân sự.
Tòa án đã tiến hành triệu tập hợp lệ nhưng nguyên đơn cùng đại diện hợp
pháp vắng mặt không do. Căn cứ Điều 296 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng
xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các nguyên đơn tại phiên tòa phúc thẩm.
[2] Về nội dung:
Hợp đồng lao động số HĐ 2023 được ngày 30/4/2023 bởi Công ty
TNHH J1 và ông Shin Hyo J có nội dung ông Shin Hyo J sẽ làm việc tại công ty
với công việc là kỹ thuật, thời hạn hợp đồng 02 năm từ ngày 30/4/2023 đến ngày
27/4/2025; mức lương ông Shin H1 Jae nhận hàng tháng là 90.000.000 đồng, trả
bằng tiền mặt. Theo đơn khởi kiện, sau khi hợp đồng được ký, ông Shin Hyo J đã
vào làm việc được trả lương như đã thỏa thuận trong hợp đồng, nhưng ttháng
07/2023 đến tháng 02/2024 thì công ty không tiếp tục trả lương nên nguyên đơn
yêu cầu thanh toán tiền lương còn thiếu và chốt sổ bảo hiểm xã hội trả cho ông.
6
Quá trình tố tụng, bị đơn thừa nhận nội dung hợp đồng nhưng cho rằng ông
Shin Hyo J đã khiếu nại đòi tiền lương với Công ty mẹ Hàn Quốc đã được
giải quyết một phần theo hợp đồng lao động đã tại Hàn Quốc, nên vụ việc
không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án Việt Nam.
Như vậy, có cơ sở xác định Hợp đồng lao động các bên đã ký đã phát sinh
hiệu lực pháp luật, ông Sim B người lao động nước ngoài làm việc cho Công
ty vốn đầu tư nước ngoài nhưng công việc được thực hiện trên lãnh thổ Việt
Nam, có liên quan đến chính sách về người lao động nước ngoài tại Việt Nam và
các vấn đề về bảo hiểm xã hội theo P điều chỉnh. Tranh chấp phát sinh được giải
quyết bởi Tòa án Việt Nam đúng quy định tại Điều 32 Điều 469 Luật Tố
tụng dân sự. Việc người sử dụng lao động không thanh toán tiền lương cho người
lao động nhưng không đưa ra được lý do chính đáng là đã vi phạm nghĩa vụ theo
hợp đồng lao động. Nguyên đơn khởi kiện đòi tiền lương còn thiếu là có cơ sở đ
chấp nhận. Tại phiên tòa thẩm phúc thẩm, bị đơn đều thừa nhận các nội
dung của hợp đồng lao động và thực tế thực hiện hợp đồng, nên án sơ thẩm chấp
nhận yêu cầu của nguyên đơn về số tiền tương ứng với thời gian lao động của
nguyên đơn chưa được bị đơn thanh toán là đúng thực tế đúng với tài liệu do
nguyên đơn xuất trình.
Đối với yêu cầu chốt trả lại sổ bảo hiểm hội cho nguyên đơn: Hội
đồng xét xử nhận thấy tại Công văn 1868/BHXH-PQLT-ST ngày 20/7/2024 của
Bảo hiểm xã hội tỉnh L xác định Công ty TNHH J1, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất
nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp cho ông Shin Hyo J từ tháng
6/2021 đến tháng 02/2024 trên mã số bảo hiểm xã hội 8023083785 (có kèm theo
phụ lục bản ghi quá trình đóng bảo hiểm hội, bảo hiểm thất nghiệp). Quá trình
tham gia trên chưa được xác nhận chốt bảo lưu. Án thẩm căn cứ quy định tại
khoản 5 Điều 21 Luật Bảo hiểm hội năm 2014 để chấp nhận yêu cầu buộc bị
đơn chốt và trả lại sổ bảo hiểm xã hội cho ông Shin Hyo J là có cơ sở.
[3] Về yêu cầu kháng cáo:
Bị đơn kháng cáo cho rằng vviệc không thuộc thẩm quyền giải quyết của
Tòa án Việt Nam. Tuy nhiên Hợp đồng lao động giữa nguyên đơn và bđơn được
kết bởi Công ty nước ngoài đăng hoạt động tại Việt Nam với nhân
người nước ngoài, và công việc phải thực hiện trên lãnh thổ Việt Nam; các chế đ
đăng ký cho lao động người nước ngoài chế độ bảo hiểm hội tuân theo sự
điều chỉnh của pháp luật Việt Nam nên tranh chấp xảy ra trong quá trình thực hiện
hợp đồng thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án Việt Nam theo quy định tại
Điều 32 và Điều 469 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Tại phiên tòa ngày 31/3/2025, đại diện theo ủy quyền của bị đơn cho rằng
khoản tiền lương nguyên đơn yêu cầu đã được Công ty mẹ tại Hàn Quốc chi trả
xong cung cấp các văn bản bị đơn cho rằng được gửi từ Hàn Quốc sang.
Nhận thấy các tài liệu này không được hợp pháp hóa lãnh sự và không được phiên
dịch đúng quy định nên Hội đồng xét xđã hoãn phiên tòa để bị đơn thực hiện
7
dịch thuật, hợp pháp hóa lãnh sự các tài liệu này theo đúng quy định. Tuy nhiên
tại phiên tòa m nay, bị đơn không xuất trình được các tài liệu trên theo yêu cầu
của Hội đồng xét xtiếp tục xin hoãn phiên tòa để thời gian cung cấp chứng
cứ. Do đã được giải thích về thủ tục cung cấp chứng cứ và dành thời gian để thu
thập chứng cứ cung cấp cho Tòa án nhưng bị đơn không thực hiện nên không có
cơ sở để chấp nhận yêu cầu kháng cáo.
Xét như nhận định trên, Tòa án cấp thẩm đã tuân thủ quy định về tố tụng;
về nội dung: với các tài liệu chứng cứ đã thu thập, án thẩm đã giải quyết phù
hợp với quy định của pháp luật và các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đối với yêu
cầu khởi kiện của nguyên đơn. Hội đồng xét xử thống nhất giữ nguyên bản án sơ
thẩm như đề nghị của Kiểm sát viên.
Án phí lao động phúc thẩm bđơn phải chịu do yêu cầu kháng cáo không
được chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự;
Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn Công ty TNHH J1.
Giữ nguyên Bản án lao động thẩm số 04/2024/LĐST ngày 10 tháng 9
năm 2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An.
Căn cứ:
Các điều 32, 35, 37, 39, 147, 227, 228, 271, 273 483 Bộ luật Tố tụng
dân sự năm 2015;
Các điều 15, 17, 22, 23 và 25 Bộ luật Lao động năm 2019;
Khoản 5 Điều 21 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014;
Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ
Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sử dụng án phí
và lệ phí Tòa án;
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông S Hyo Jae tranh chấp
đòi tiền lương với bị đơn Công ty TNHH J1.
Buộc Công ty TNHH J1 phải trả cho ông Shin H1 Jae tiền lương nợ từ tháng
7/2023 đến tháng 02/2024 (08 tháng) với số tiền 279.600.000 đồng.
Kể từ khi án hiệu lực pháp luật, kể từ ngày đơn yêu cầu thi hành án
của người được thi hành án cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, bên
có nghĩa vụ chậm thi hành sẽ phải chịu thêm khoản tiền lãi tính trên số tiền chậm
trả theo quy định tại Điều 357, khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự tương ứng với
thời gian chưa thi hành án, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác hoặc pháp
luật có quy định khác.
8
2. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Shin Hyo J về việc yêu cầu Công
ty TNHH J1 chốt và trả lại sổ Bảo hiểm xã hội cho ông Shin Hyo J.
Buộc Công ty TNHH J1 hoàn tất các thủ tục chốt và trả lại S Bảo hiểm
hội cho cho ông S Hyo Jae theo quy định của pháp luật.
Công ty TNHH J1 phải chịu 300.000 đồng án plao động phúc thẩm nhưng
được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng đã nộp theo Biên lai thu
số 0000168 ngày 22 tháng 10 năm 2024 của Chi cục Thi hành án dân stỉnh Long
An.
Các quyết định khác của án thẩm không kháng cáo, kháng nghị
hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi
hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự
quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành
án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi
hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30
Luật thi hành án dân sự.
Nơi nhận:
- Tòa án nhân dân tối cao (1);
- VKSND cấp cao tại TP.HCM (1);
- TAND tỉnh Long An (1);
- VKSND tỉnh Long An (1);
- Cục THADS tỉnh Long An (1);
- ĐS (2);
- Lưu VP(3), HS(2).14b.NHT.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nguyễn Thị Thụy
Tải về
Bản án số 02/2025/LĐ-PT Bản án số 02/2025/LĐ-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 02/2025/LĐ-PT Bản án số 02/2025/LĐ-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất