Bản án số 02/2023/HS-ST ngày 04/01/2023 của TAND TP. Long Khánh, tỉnh Đồng Nai về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Mục lục
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 02/2023/HS-ST

Tên Bản án: Bản án số 02/2023/HS-ST ngày 04/01/2023 của TAND TP. Long Khánh, tỉnh Đồng Nai về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Tội danh: 249.Tội tàng trữ trái phép chất ma túy (Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015)
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND TP. Long Khánh (TAND tỉnh Đồng Nai)
Số hiệu: 02/2023/HS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 04/01/2023
Lĩnh vực: Hình sự
Áp dụng án lệ: Không
Đính chính: Không
Thông tin về vụ án:
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LONG KHÁNH, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 02/2023/HS-ST NGÀY 04/01/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 04 tháng 01 năm 2023, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Long Khánh, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 140/2022/HS-ST ngày 12 tháng 12 năm 2022, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 142/2022/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 12 năm 2022 và Thông báo dời lịch xét xử số 14/TB-TA ngày 22/12/2022, đối với bị cáo:

Trần Văn K, sinh năm 1998, tại Đồng Nai. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Khóm 6, phường C, thành phố C, tỉnh An Giang. Nởi sinh sống trước khi bị bắt: Khu phố 1, phường X thành phố L, tỉnh Đồng Nai. Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn): 02/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn T, sinh năm 1967 và bà Phạm Thị Kim P, sinh năm 1974. Tiền án: Không;

Tiền sự: 01, ngày 13/5/2021, bị Tòa án nhân dân thành phố Long Khánh ra Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào Cơ sở cai nghiện bắt buộc tại Cơ sở điều trị nghiện ma túy tỉnh Đồng Nai, với thời hạn 16 tháng theo Quyết định số 43/QĐ-TA. Chấp hành xong ngày 03/5/2022.

Nhân thân: Ngày 18/11/2018, bị Công an phường Xuân Hòa, thành phố Long Khánh ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số tiền 750.000 đồng, do có hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”. Nộp phạt ngày 06/12/2018.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ, tạm giam từ ngày 01/7/2022. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Phạm Thị Kim P, sinh năm 1974. Địa chỉ: Số 72/31 đường Trần Phú, khu phố 1, phường X, thành phố L, tỉnh Đồng Nai. Có mặt.

- Người làm chứng: Chị Nguyễn Thị Cẩm N, sinh năm 1991. Địa chỉ: Số 52/4 đường N, khu phố 3, phường X, thành phố L, tỉnh Đồng Nai. Vắng mặt.

- Người chứng kiến: Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1999. Địa chỉ: Số 52/2 đường Nguyễn Thị Minh K, khu phố 3, phường X, thành phố L, tỉnh Đồng Nai. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trần Văn K là đối tượng sử dụng ma túy đá từ năm 2018 cho đến nay, mới chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc về địa phương. Ngày 28/6/2022, Khánh đến khu vực chợ Xuân Thanh (Chợ Nhỏ), thuộc phường X, thành phố L gặp 01 người phụ nữ (không rõ nhân thân, lai lịch) mua 01 bịch ma túy đá với giá 300.000 đồng. Sau đó, mang về nhà lấy ra sử dụng một ít, số còn lại cất giấu vào vị trí giữa ốp lưng và điện thoại di động hiệu Vivo màu đen của Khánh.

Đến khoảng 01 giờ ngày 01/7/2022, Khánh điều khiển xe mô tô, biển kiểm soát 51F6-0597 đến nhà thuê của Nguyễn Thị Cẩm Nhung, sinh năm 1991, ở số 52/4, N, khu phố 3, phường X, thành phố L, Đồng Nai chơi. Khi mới đến cổng thì bị Công an thành phố Long Khánh kiểm tra, phát hiện ở giữa ốp lưng và điện thoại di động hiệu Vivo của Khánh có 01 bịch ma túy đá, nên đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong tang vật theo quy định của pháp luật.

Tại kết luận giám định số 1439/KL-KTHS ngày 08/7/2022, Phòng kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Đồng Nai kết luận: Mẫu tinh thể màu trắng (ký hiệu M7) được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng 0,1770 gam, loại Methamphetamie.

- Vật chứng thu giữ:

01 bịch ma túy loại Methamphetamine, sau giám định được niêm phong và hoàn lại trong 01 phong bì số 1439/KL-KTHS ngày 08/7/2022, Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai; 01 điện thoại di động hiệu Vivo, màu đen. 01 chiếc xe mô tô biển kiểm soát 51F6-0597, số khung RMMDCHCUM51000134, số máy VUMYG15FMH070134.

Tại bản cáo trạng số: 129/CT-VKS-LK ngày 12/12/2022, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Long Khánh đã truy tố bị cáo Khánh về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành Long Khánh, tỉnh Đồng Nai giữ nguyên cáo trạng truy tố bị cáo về tội danh và điều luật áp dụng như nội dung bản Cáo trạng đã nêu, và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Về hình phạt:

+ Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 và Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Khánh về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” . Đề nghị xử phạt bị cáo Khánh từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù.

- Về trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng:

Tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định; tịch thu sung công quỹ 01 điện thoại di động hiệu Vivo, màu đen. Đối với xe mô tô biển kiểm soát 51F6- 0597, số khung RMMDCHCUM51000134, số máy VUMYG15FMH070134, hiện chưa rõ nguồn gốc nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Long Khánh sẽ tiếp tục tạm giữ để xác minh, làm rõ, xử lý sau.

Tại phiên tòa cũng như tại cơ quan điều tra bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung Cáo trạng đã truy tố.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, lời khai của các bị cáo, lời khai của những người tham gia tố tụng khác có trong hồ sơ vụ án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

1 Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Long Khánh, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, những người tham gia tố tụng khác khẳng định khai báo tự nguyện, không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh và điều luật áp dụng: Tại phiên tòa bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội do mình thực hiện như nội dung bản Cáo trạng đã nêu, lời khai nhận tội này phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của những người tham gia tố tụng và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, thể hiện:

Vào khoảng 01 giờ ngày 01/7/2022, tại số nhà 52/4, N, khu phố 3, phường X, thành phố L, tỉnh Đồng Nai, Công an thành phố L bắt quả tang Nguyễn Văn Khánh đang tàng trữ 01 bịch ma túy, có khối lượng là 0,1770 gam, loại Methamphetamine, nhằm mục đích để sử dụng. Do đó, có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Trần Văn K phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 như kết luận của Kiểm sát viên là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội:

Đánh giá tính chất, mức độ của vụ án là rất nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo không những xâm phạm đến chế độ quản lý độc quyền của Nhà nước đối với các chất ma túy mà còn xâm phạm trực tiếp đến trật tự, an toàn công cộng là tác nhân gây ra sự nghiện ngập, ảnh hưởng xấu đến sức khỏe, khả năng lao động của người sử dụng; việc sử dụng ma túy còn là nguyên nhân làm phát sinh một số tội phạm khác nên cần phải xử lý nghiêm.

4 Về nhân thân; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử xem xét bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015. Nhưng bị cáo có nhân thân xấu, có 01 tiền sự, đồng thời bị cáo là người đã trưởng thành, nhận thức được việc sử dụng ma túy, tàng trữ chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vì nghiện ma túy mà đã thực hiện hành vi phạm tội. Do đó, cần có mức án nghiêm tương xứng với tính chất, mức độ hậu quả hành vi của bị cáo gây ra, nhằm giáo dục bị cáo trở thành công dân sống có ích cho gia đình và xã hội, biết tuân thủ pháp luật đồng thời có tác dụng giáo dục phòng ngừa chung trong xã hội.

Tuy nhiên, Hội đồng xét xử cũng xem xét bị cáo chưa có tiền án; quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015. Hội đồng xét xử xem xét, cân nhắc giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo khi lượng hình, thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.

Ngoài ra, tại phiên tòa bị cáo không cung cấp thêm được tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nào khác.

[5] Về tình tiết định khung hình phạt và quyết định hình phạt:

Mục đích bị cáo K cất giấu ma túy để sử dụng. Số ma túy thu giữ ngày 01/7/2022, được giám định và theo kết luận giám định có khối lượng 0,1770 gam, loại Methamphetamie. Do đó, hành vi phạm tội của bị cáo sẽ bị xét xử ở điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định:

“Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

...

c) ... Methamphetamine... có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam.” Căn cứ tính chất và mức độ của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo. Hội đồng xét xử xét thấy, cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để bị cáo suy nghĩ về hành vi phạm tội của mình, rèn luyên, cải tạo, học tập, lao động trở thành công dân sống có ích cho gia đình và xã hội, biết tuân thủ pháp luật.

Ngoài hình phạt chính, Hội đồng xét xử không áp dụng thêm hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

[6] Về trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng:

- Tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định; tịch thu sung công quỹ 01 điện thoại di động hiệu Vivo, màu đen. Riêng chiếc xe mô tô biển kiểm soát 51F6-0597, số khung RMMDCHCUM51000134, số máy VUMYG15FMH070134, bà Phạm Thị Kim P và bị cáo cho rằng bà P cho K tiền để mua chiếc xe này. Tuy nhiên, hiện chưa xác định được nguồn gốc của chiếc xe nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Long Khánh sẽ tiếp tục tạm giữ để xác minh, làm rõ và xử lý sau.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

8 Về quyền kháng cáo, kháng nghị:

Bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án theo quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp, Viện kiểm sát nhân dân cấp trên được quyền kháng nghị theo quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Long Khánh phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH:

1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s, khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tuyên bố bị cáo Trần Văn K phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: Bị cáo Trần Văn K 01 (một) năm 04 (bốn) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 01/7/2022.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.

Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Vivo, màu đen. Tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định (Vật chứng hiện Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Long Khánh đang quản lý theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 13/12/2022 và ngày 19/12/2022).

3. Về án phí: Áp dụng Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Trần Văn K phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo, kháng nghị bản án: Bị cáo và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày, tính từ ngày tuyên án. Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp, Viện kiểm sát nhân dân cấp trên được quyền kháng nghị theo quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự./.

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất