Bản án số 02/2022/HSST ngày 21/01/2022 của TAND huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng tội danh
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 02/2022/HSST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 02/2022/HSST
| Tên Bản án: | Bản án số 02/2022/HSST ngày 21/01/2022 của TAND huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam về tội tàng trữ trái phép chất ma túy |
|---|---|
| Tội danh: | 249.Tội tàng trữ trái phép chất ma túy (Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015) |
| Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
| Tòa án xét xử: | TAND huyện Đông Giang (TAND tỉnh Quảng Nam) |
| Số hiệu: | 02/2022/HSST |
| Loại văn bản: | Bản án |
| Ngày ban hành: | 21/01/2022 |
| Lĩnh vực: | Hình sự |
| Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Thông tin về vụ án: |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
HUYỆN D Độc lập- Tự do- Hạnh phúc
TỈNH QUẢNG NAM
Bản án số: 02/2022/HSST
Ngày 21/01/2022
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN D
Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán- Chủ toạ phiên toà: Ông Nguyễn Minh Quốc.
Các hội thẩm nhân dân:
+ Ông Nguyễn Hữu Hưng.
+ Bà Nguyễn Thị Xuân Hương.
Thư ký ghi biên bản phiên toà: Bà Nguyễn Thị Hồng Vân- Thư ký Toà án
nhân dân huyện D.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện D tham gia phiên toà: bà Đỗ Thị Thu
Hà- Kiểm sát viên.
Ngày 21 tháng 01 năm 2022 tại Hội trường Tòa án nhân dân huyện D, tỉnh
Quảng Nam xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 66/2021/TLST-HS
ngày 06 tháng 12 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số
02/2022/QĐXXST-HS ngày 07/01/2022 đối với các bị cáo:
- Bị cáo: Nguyễn Văn D, sinh năm 1992.
Nơi sinh và cư trú: Thôn B, xã BG, huyện TB, tỉnh Quảng Nam.
Nghề nghiệp: công nhân. Trình độ học vấn: 12/12; quốc tịch: Việt Nam, tôn
giáo: không, dân tộc: Kinh, con ông Nguyễn Văn Hùng, sinh năm 1971 và bà Hồ
Thị Năm, sinh năm 1969; vợ: Võ Thị Diệu L, sinh năm 1995; có 01 con sinh năm
2018. Tiền án, tiền sự: không. Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 13/9/2021 đến nay, có
mặt tại phiên tòa.
- Bị cáo: Hồ Sĩ K, sinh năm 1990.
Nơi sinh và cư trú: Thôn B, xã BG, huyện TB, tỉnh Quảng Nam.
Nghề nghiệp: Công nhân. Trình độ học vấn: 09/12; quốc tịch: Việt Nam, tôn
giáo: không, dân tộc: Kinh, con ông Hồ Văn Kỳ, sinh năm 1967 và bà Trương Thị
Sáu, sinh năm 1967; bị cáo chưa có vợ con. Tiền án, tiền sự: không. Bị cáo bị bắt
tạm giữ từ ngày 13/9/2021 đến nay, có mặt tại phiên tòa.
- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Bà Võ Thị Diệu L, sinh năm
1995. Có mặt.
Trú tại: Thôn B, xã BG, huyện TB, tỉnh Quảng Nam.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ
án được tóm tắt như sau:
Vào lúc 20 giờ 00 phút ngày 13/9/2021, tại chốt kiểm dịch số 3, đường
Nguyễn Hoàng thuộc khối phố Bình An, thị trấn Nam Phước, D, tỉnh Quảng Nam;
tổ công tác Công an huyện D phát hiện bị cáo Nguyễn Văn D điều khiển xe môtô
43C1-255.96 chở bị cáo Hồ Sĩ K đang lưu thông hướng thị xã Điện Bàn - huyện D
có biểu hiện nghi vấn nên yêu cầu dừng xe kiểm tra. Qua kiểm tra, tổ công tác phát
hiện thu giữ trên tay phải của Nguyễn Văn D đang cầm 01 gói nilong màu trắng,
bên ngoài được quấn băng keo màu đen bên trong chứa chất tinh thể màu trắng
(nghi là ma túy tổng hợp); 01 xe môtô BKS 43C1-255.96 cùng Giấy đăng ký xe;
01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen gắn sim thuê bao 0905.880.590, 01 điện
thoại di động hiệu Vivo màu xanh gắn sim thuê bao 0886.400.062.
Quá trình điều tra, các bị cáo Nguyễn Văn D và Hồ Sĩ K khai nhận vào
khoảng 19 giờ 00 phút ngày 13/9/2021, bị cáo Hồ Sĩ K dùng số thuê bao
0886.400.062 điện thoại đến số thuê bao 0905.880.590 của Nguyễn Văn D rủ góp
tiền mua ma túy về sử dụng, D đồng ý nên điều khiển xe môtô BKS 43C1-255.96
(của Võ Thị Diệu L - vợ D) đến trước cổng chùa Hiền Lương ở thôn B chở K đi
đến khu vực khu công nghiệp Điện Nam Điện Ngọc ở thị xã Điện Bàn để mua ma
túy. Khi đến cổng khu công nghiệp, bị cáo K đưa cho bị cáo D số tiền 130.000
đồng (lúc đó D không kiểm đếm tiền nên không biết K đưa bao nhiêu tiền) rồi bị
cáo D lấy thêm 150.000 đồng của mình cất vào túi quần; sau đó D dùng số thuê
bao 0905.880.590 của bị cáo D gọi đến số thuê bao 0787.956.731 của một người
đàn ông tên Bi (không rõ lai lịch) và hỏi mua 01 gói ma túy 300.000 đồng, người
này đồng ý. Khoảng 10 phút sau, có một người đàn ông điều khiển xe môtô (không
rõ biển số) đến đưa cho D 01 gói ma túy, bị cáo D liền cất gói ma túy vào túi quần
phía trước bên phải rồi D lấy tiền đã góp chung với K đưa lại cho người này. Sau
đó, D điều khiển xe chở K đi về lại TB. Khi cả hai bị cáo đi đến chốt kiểm dịch số
3, đường Nguyễn Hoàng thuộc khối phố Bình An, thị trấn Nam Phước, D, tỉnh
Quảng Nam thì bị lực lượng Công an yêu cầu dừng xe kiểm tra. Do lo sợ bị phát
hiện ma túy cất trong túi quần nên bị cáo D đã lấy gói ma túy ra cầm trên tay phải
thì bị lực lượng Công an phát hiện, thu giữ.
Tại Kết luận giám định số 143/PC09 ngày 17/9/2021 của Phòng kỹ thuật hình
sự Công an tỉnh Quảng Nam kết luận: Chất rắn dạng tinh thể màu trắng gửi giám
định là ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng là 0,303gam.
Tại bản cáo trạng số 64/CT-VKSDX-HS ngày 30/11/2021 của Viện kiểm sát
nhân dân huyện D đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn D, Hồ Sĩ K về tội: “Tàng trữ trái
phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự 2015. Tại phiên
tòa đại diện viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét
xử áp dụng điểm điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình
sự năm 2015, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn D từ 12 đến 15 tháng tù, bị cáo Hồ Sĩ K
từ 12 đến 15 tháng tù, thời gian thụ hình cho cả hai bị cáo tính từ ngày bắt tạm giữ
(13/9/2021).

* Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 106 Bộ luật tố
tụng hình sự tuyên: Tịch thu tiêu hủy: 0,148gam chất rắn màu trắng dạng tinh thể
và toàn bộ vỏ bao gói; sim thuê bao 0905.880.590; 0886.400.062.Tịch thu sung
công quỹ: 01 điện thoại di động hiệu Nokia; 01 điện thoại di động hiệu Vivo màu
xanh. Tuyên trả cho chị Võ Thị Diệu L: 01 xe môtô BKS 43C1-255.96 và Giấy
đăng ký xe;
Bị cáo Nguyễn Văn D, Hồ Sĩ K thừa nhận cáo trạng truy tố hành vi của các bị
cáo là đúng. Các bị cáo nói lời sau cùng thể hiện sự ăn năn, hối cải và xin giảm nhẹ
hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã
được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Xét lời khai nhận của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ
quan điều tra, biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản tạm giữ đồ vật-tài
liệu, bản kết luận giám định, lời khai người làm chứng cùng các tài liệu chứng cứ
khác có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra và công bố công khai tại phiên tòa, đủ cơ
sở xác định:
Vào khoảng 19 giờ 00 phút ngày 13/9/2021, bị cáo Hồ Sĩ K sử dụng điện
thoại có số thuê bao 0886.400.062 gọi điện cho bị cáo Nguyễn Văn D theo số thuê
bao 0905.880.590 rủ bị cáo D góp tiền mua ma túy về sử dụng. Bị cáo D đồng ý và
điều khiển xe môtô BKS 43C1-255.96 đến chở bị cáo K đi mua ma túy. Bị cáo K
góp số tiền 130.000 đồng đưa D, bị cáo D góp thêm 150.000 đồng và gọi đến số
thuê bao 0787.956.731 của một người đàn ông tên Bi (không rõ lai lịch) hỏi và
mua được 01 gói ma túy 300.000 đồng. Trên đường về khi đến chốt kiểm dịch số
3, đường Nguyễn Hoàng thuộc khối phố Bình An, thị trấn Nam Phước, D, tỉnh
Quảng Nam vào lúc 20 giờ 00 phút ngày 13/9/2021 thì cả hai bị lực lượng Công an
bắt quả tang về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, loại Methamphetamine có
khối lượng 0,303gam.
Vì vậy, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận hành vi của bị cáo Nguyễn Văn
D, Hồ Sĩ K phải chịu trách nhiệm hình sự về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”
theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 và Cáo trạng truy tố của
Viện kiểm sát nhân dân huyện D là có căn cứ.
[2] Các bị cáo nhận thức được việc sử dụng trái phép chất ma túy không chỉ
hủy hoại sức khỏe của bản thân mình mà còn ảnh hưởng tới gia đình và cộng đồng
xã hội, là nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm khác, làm mất an ninh trật tự xã
hội. Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội,
xâm phạm đến sự độc quyền quản lý của nhà nước về chất ma túy được pháp luật
quy định. Vì vậy, cần phải xử lý nghiêm minh và cách ly các bị cáo ra khỏi đời
sống xã hội một thời gian nhằm cải tạo, giáo dục các bị cáo đồng thời góp phần
đấu tranh phòng chống tội phạm trước tình hình tệ nạn ma túy trên địa bàn ngày
càng gia tăng và diễn biến phức tạp.

[3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, vai trò của các bị
cáo: Đây là vụ án đồng phạm giản đơn, trong đó: bị cáo Hồ Sĩ K có vai trò rủ rê,
gốp tiền, bị cáo Nguyễn Văn D là người thực hành tích cực cùng gốp tiền, liên hệ
mua ma túy và dùng xe chở bị cáo K đi mua ma túy về để sử dụng nên hai bị cáo
có vai trò ngang nhau. Do đó, mức hình phạt áp dụng đối với 02 bị cáo là tương
đương nhau.
[4] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của
từng bị cáo thì thấy:
Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Về tình tiết giảm
nhẹ trách nhiệm hình sự: Sau khi phạm tội, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa
các bị cáo đều thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của
mình. Các bị cáo phạm tội lần đầu, có nhân thân tốt. Bị cáo D có ông ngoại là liệt
sỹ, ông ngoại và bà ngoại được tặng thưởng huân chương kháng chiến hạng Nhì, bị
cáo Hồ Sĩ K có bà cố là mẹ Việt Nam anh hùng. Nên cả 02 bị cáo được hưởng
những tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Xét thấy các bị cáo tuy có nghề nghiệp công nhân nhưng từ khi bị tạm giam
đến nay thì không có thu nhập, không có khả năng thi hành phạt bổ sung bằng tiền
nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.
[5] Về xử lý vật chứng:
* Các vật chứng là công cụ, dụng cụ dùng vào việc phạm tội và những vật
chứng không còn giá trị sử dụng như: 0,148gam chất rắn màu trắng dạng tinh thể
và toàn bộ vỏ bao gói được niêm phong trong 01 phong bì số 143/PC09 của Phòng
kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Nam; sim thuê bao 0905.880.590 của Nguyễn
Văn D; sim thuê bao 0886.400.062 của Hồ Sĩ K tuyên tịch thu tiêu hủy.
* Những tài sản, phương tiện sử dụng vào việc phạm tội như:
- 01 điện thoại di động hiệu Nokia của Nguyễn Văn D; 01 điện thoại di động
hiệu Vivo màu xanh của Hồ Sĩ K cần tuyên tịch thu sung vào Ngân sách nhà nước.
- 01 xe môtô BKS 43C1-255.96 loại xe Liberty có số khung 118458, số
máy: 4053237 và Giấy đăng ký chủ xe Lê Xuân Thành được xác định chủ sở hữu
hiện nay là của bà Võ Thị Diệu L. Bà L khai hoàn toàn không biết bị cáo D sử
dụng xe của bà để tàng trữ trái phép chất ma túy nên cần tuyên trả lại cho bà L.
[6] Những vấn đề có liên quan khác trong vụ án:
- Đối với đối tượng tên Bi là người đã bán ma túy cho Nguyễn Văn D. Cơ
quan Cảnh sát điều tra Công an huyện D đã tiến hành xác minh nhưng chưa rõ lai
lịch của người này nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện D xác minh xử lý
sau là đúng pháp luật.
[8] Về hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an
huyện D, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện D, Kiểm sát viên trong quá
trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy
định tại Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người có
quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có người nào có ý kiến hoặc khiếu
nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.
Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến
hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[9] Về án phí: Căn cứ Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội buộc bị cáo Nguyễn Văn D, Hồ Sĩ K
mỗi bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH:
1. Tuyên bố: Bị cáo Hồ Sĩ K, Nguyễn Văn D phạm tội: “Tàng trữ trái phép
chất ma túy”.
2. Hình phạt:
- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình
sự năm 2015;
- Xử phạt: bị cáo Hồ Sĩ K 01 (một) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù
tính từ ngày bắt tạm giữ (13/9/2021).
- Xử phạt: bị cáo Nguyễn Văn D 01 (một) năm tù, thời hạn chấp hành hình
phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ (13/9/2021).
3. Về vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng
hình sự;
* Tuyên tịch thu tiêu hủy: 0,148gam chất rắn màu trắng dạng tinh thể và toàn
bộ vỏ bao gói được niêm phong trong 01 phong bì số 143/PC09 của Phòng kỹ
thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Nam; sim thuê bao 0905.880.590 của bị cáo
Nguyễn Văn D; sim thuê bao 0886.400.062 của bị cáo Hồ Sĩ K.
* Tuyên tịch thu sung công quỹ các tài sản liên quan đến hành vi phạm tội
của các bị cáo: 01 điện thoại di động hiệu Nokia của Nguyễn Văn D; 01 điện thoại
di động hiệu Vivo màu xanh của Hồ Sĩ K.
* Tuyên trả lại cho bà Võ Thị Diệu L: 01 xe môtô BKS 43C1-255.96 loại xe
Liberty có số khung 118458, số máy: 4053237 và Giấy đăng ký chủ xe Lê Xuân
Thành.
Tất cả những vật chứng trên đã nhập kho vật chứng tại Chi cục thi hành án
dân sự huyện D theo biên bản giao nhận vật chứng lập ngày 05/01/2022.
4. Về án phí: Áp dụng Điều 135 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc
hội quy định về án phí, lệ phí tòa án xử buộc: Bị cáo Hồ Sĩ K, Nguyễn Văn D mỗi
bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án
dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền
thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị
cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, Điều 7 và Điều 9 luật thi hành án
dân sự. Thời hiệu thi hành án dân sự thực hiện theo Điều 30 Luật thi hành án dân
sự.
Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm các bị cáo, người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo bản án để đề nghị Tòa án
nhân dân tỉnh Quảng Nam xét xử phúc thẩm.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
Nơi nhận: Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa
- VKSND huyện D;
- Chi cục THADS huyện D;
- Bị cáo, những người TGTT khác;
- TAND tỉnh Quảng Nam;
- VP công an huyện D;
- Lưu HS-AV. Nguyễn Minh Quốc
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 03/04/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 29/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 29/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 22/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 15/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 14/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 08/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 07/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 07/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 05/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 04/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 01/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 23/02/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 06/02/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 06/02/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 06/02/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 06/02/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 05/02/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 05/02/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 05/02/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm