Quyết định số 88/2024/DS-GĐT ngày 23/12/2024 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng về tranh chấp đất đai về đòi đất cho mượn, cho sử dụng nhờ, lấn chiếm

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Quyết định 88/2024/DS-GĐT

Tên Quyết định: Quyết định số 88/2024/DS-GĐT ngày 23/12/2024 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng về tranh chấp đất đai về đòi đất cho mượn, cho sử dụng nhờ, lấn chiếm
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp đất đai về đòi đất cho mượn, cho sử dụng nhờ, lấn chiếm...
Cấp xét xử: Giám đốc thẩm
Tòa án xét xử: TAND cấp cao tại Đà Nẵng
Số hiệu: 88/2024/DS-GĐT
Loại văn bản: Quyết định
Ngày ban hành: 23/12/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Đòi bàn giao nhà đất đã nhận chuyển nhượng
Tóm tắt Quyết định

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI ĐÀ NẴNG
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Quyết đnh giám đc thm
Số: 88/2024/DS-GĐT
Ngày 23/12/2024
Về Tranh chấp đòi lại tài sn
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
ỦY BAN THẨM PHÁN
A ÁN NN N CẤP CAO TẠI ĐÀ NNG
- Thành phần tham gia xét xử giám đốc thẩm:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: ông Đặng Kim Nhân.
Các Thẩm phán: ông Nguyễn Văn Tào và ông Văn Thường.
- Thư ký phiên tòa: ông Phan Nguyễn Thanh Toàn - Thẩm tra viên Tòa án
nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng tham gia phiên
tòa:Nguyễn Thị Hà - Kiểm sát viên cao cấp.
Ngày 23/12/2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng mở
phiên tòa giám đốc thẩm xét xử vụ án dân sựTranh chấp đòi lại tài sn” giữa:
Nguyên đơn: Nguyn Th Thanh T, sinh năm 1970 ông Phạm Văn A,
sinh năm 1969; cùng địa ch: khu vực C, phường N, th xã A, tnh B.
B đơn: ông Văn P, sinh năm 1955 Phm Th Minh C, sinh năm
1960; cùng địa ch: thôn P1, xã P, huyn T, tnh B.
Người có quyn lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Bà Đ Th Mai H, sinh năm 1960; đa ch: s 420/24 đường Q, phường B,
th xã A, tnh B.
2. Ông Man Như T, sinh năm 1951; địa ch: thôn L, xã P, huyn T, tnh B.
3. Phòng Công chng s 3 tỉnh B; địa ch: t 3, khu vực 1, phường T, thành
ph Q, tnh B.
4. Ông Đặng Đình T - Công chứng viên Văn phòng Công chứng B; địa ch:
21 đường L, phường B, th xã A, tnh B.
5. Ngân hàng Sài Gòn (SCB) - Chi nhánh Q; đa chỉ: 252 đường T, thành
ph Q, tnh B.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
* Tại Đơn khởi kiện đề ngày 28/02/2019 quá trình giải quyết vụ án,
nguyên đơn vợ chồng bà Nguyễn Thị Thanh T, ông Phạm Văn A trình bày:
Ngày 13/8/2018, Phạm Thị Minh C hỏi vay vợ chồng bà T, ông A số
tiền 1.100.000.000 đồng để bà C trả nợ xấu, bà T đồng ý, nhưng yêu cầu bà C đưa
giấy tờ nhà thì C nói “Giấy tờ nhà C đã đưa cho H vay rồi nên không
còn” nên T yêu cầu gặp vợ chồng bà Đỗ Thị Mai H, ông Man Như T để kiểm
tra. Khi gặp H, T mới biết thửa đất số 28, t bản đồ số 17, diện tích
2
235,6m
2
thôn P1, xã P, huyện T có nguồn gốc tài sản của ông Nguyễn Công T,
ông T chuyển nhượng thửa đất cho vợ chồng C, ông P ngày 07/11/2014 đã
chỉnh lý sang tên bà C, ông P
Ngày 13/10/2017, C, ông P chuyển nhượng thửa đất số 28 cho bà Đỗ
Thị Mai H; do đó, bà H yêu cầu T phải giao 900.000.000 đồng thì bà H mới
chuyển nhượng thửa đất cho vợ chồng T, ông A nên vợ chồng bà T không
đồng ý. Sau đó, vợ chồng bà T, bà C bà H bàn bạc, thống nhất và đã thực hiện,
theo đó vợ chồng bà T giao cho bà C 700.000.000 đồng (không viết giấy) để bà C
trả nợ H 700.000.000 đồng. Ngày 13/8/2018, tại Phòng Công chứng B, vợ
chồng H, và ông T Hợp đồng chuyển nhượng thửa đất số 28 cho vợ chồng
T, ông A, nhằm mục đích giảm số tiền phải nộp thuế nên giá chuyển nhượng
thửa đt ghi 50.000.000 đồng. Các bên đã làm thủ tục chỉnh lý, sang tên đứng tên
T, ông A trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng thửa đất số 28. T dùng
Giấy chứng nhận quyền sử dụng thửa đất số 28 thế chấp tại Ngân hàng SCB Q
vay 790.000.000 đồng đưa cho vợ chồng bà C ông P. Sau khi chuyển nhượng đất,
C xin vợ chồng bà T, ông A cho vợ chồng C ở nhờ trong ngôi nhà xây trên
đất một thời gian. Ngày 12/9/2018 bà C viết Giấy cam kết, theo đó, hàng tháng v
chồng C nghĩa vụ trả lãi 19.000.000 đồng cho số tiền gốc 1.100.000.000
đồng tiền C mượn riêng của vợ chồng T 910.000.000 đồng, Giấy cam
kết còn ghi “nếu 03 tháng không trả lãi thì C phải giao toàn bộ nhà cửa của
C cho vợ chồng T”. Nay, vợ chồng bà T khởi kiện yêu cầu vợ chồng bà C,
ông P bàn giao nhà đất tại thửa đất số 28, tờ bản đồ 17 tại thôn P1, xã P, huyện
T, tỉnh B cho vợ chồng bà T.
* Bị đơn bà Phạm Thị Minh C đồng thời là đại diện theo ủy quyền của ông
Lê Văn P (chồng bà C) trình bày: Thống nhất với trình bày của vợ chồng bà T về
nguồn gốc qtrình chuyển nhượng thửa đất số 28, tbản đồ 17, diện tích
235,6m
2
thôn P1, xã P, huyện T, tỉnh B; thừa nhận bà C, ông P Giấy cam
kết ngày 12/9/2018 hiện nay C, ông P đang tại ngôi nhà trên thửa đất số
28.
Ngày 13/10/2017, C thuê H vay Ngân hàng Viettinbank 600.000.000
đồng với mức phí 60.000.000 đồng, nhưng chỉ thỏa thuận miệng, không lập văn
bản. Đầu tháng 8/2018, C tiếp tục thuê H vay thêm 300.000.000 đồng với
mức p50.000.000 đồng, nhưng H không vay được. Ngày 06/8/2018, C
gặp T để thuê T vay 1.000.000.000 đồng với phí trọn gói 80.000.000 đồng,
nhưng T không vay được. Ngày 13/8/2018, T với H đến Văn phòng
Công chứng B ký Hợp đồng chuyển nhượng thửa đất số 28 từ vợ chồng bà H, ông
T sang cho vợ chồng T, ông A. C công nhn thời điểm này C cũng
mặt tại Văn phòng Công chứng B, nhưng không Hợp đồng C người
thuê bà H 50.000.000 đồng và thuê bà T 80.000.000 đồng để vay giúp tiền, nhưng
không vay được. Ngày 11/9/2018, C thuê T đứng tên vay Ngân hàng SCB,
địa chỉ 252 đường T, thành phố Q, tỉnh B số tiền 790.000.000 đồng, bà T ký nhận
vay tiền tại Ngân hàng.
Nay C, ông P không đồng ý bàn giao nhà đất tại thửa đất số 28, tbản
đồ 17, diện tích 128 m
2
(Nhà nước đã thu hồi 107,6 m
2
để thực hiện dự án đầu
3
xây dựng mở rộng Quốc lộ 1A) tại thôn P1, P, huyện T, tỉnh B với do thực
tế không có việc chuyển nhượng thửa đất chỉ có việc C nhờ vợ chồng bà T
vay tiền tại Ngân hàng n vợ chồng C đồng ý trả vợ chồng T
1.100.000.000 đồng và đồng ý trả lãi theo quy định của pháp luật.
* Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Đỗ Thị Mai H trình bày:
Trước tháng 10/2017, C nhờ bà H vay giúp 600.000.000 đồng để trả nợ, bà
H đồng ý nhưng không tài sản thế chấp nên bà C nói sẽ làm thủ tục chuyển
nhượng thửa đất số 28 cho H để H thế chấp vay tiền giúp C. Ngày
13/10/2017, vợ chồng bà C, ông P đến Văn phòng Công chứng số 3 tỉnh B
Hợp đồng chuyển nhượng nhà đất tại thửa đt số 28 cho bà H; sau đó bà H
C đến Ngân hàng Công thương B thế chấp nhà đất vay Ngân hàng 600.000.000
đồng, hạn vay 12 tháng, nhận tiền xong bà H giao đủ ngay 600.000.000 đồng cho
bà C. Sau đó, bà C còn nhờ bà H tiếp tục vay giúp 400.000.000 đồng, nhưng bà H
không vay được. Khoản vay 600.000.000 đồng C đã trả lãi cho Ngân hàng
được 08 tháng, sau không trả nữa nên bà H phải vay tiền bên ngoài trả Ngân hàng
đúng hn đã giải chấp ly lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Ngày
29/10/2017, C trả đủ tiền cho H nên ngày 13/8/2018 H trả lại Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất cho C, viết Giấy giao trả sổ QSD nhà
đất , đồng thời cùng ngày 13/8/2018 vợ chồng C, ông P đồng ý chuyển
nhượng thửa đt cho vợ chồng T, ông A, nhưng giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất đứng tên H nên C nhờ vợ chồng H Hợp đồng chuyển
nhượng thửa đất cho vợ chồng T, ông A, còn thực tế vợ chồng H không
chuyển nhượng nhà đất cho vợ chồng T, ông A. Nay T, ông A khởi kiện
yêu cầu vợ chồng C, ông P trả lại ngôi nhà trên thửa đất thì H không ý
kiến.
Ngày 08/8/2019, H yêu cầu độc lập yêu cầu Tòa án hủy Hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đt ngày 13/10/2017 và Hp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất ngày 13/8/2018, nhưng tại phiên hòa giải ngày 04/10/2019
H rút yêu cầu vì thừa nhận bà H có ký các Hợp đồng chuyển nhượng; ngoài ra, bà
H còn trình bày thừa nhận C thuê H với mức phí 60.000.000 đồng để H
vay tiền Ngân hàng giúp C, còn việc C thuê T với mức phí 80.000.000
đồng để bà T vay tiền Ngân hàng giúp bà C thì bà H không biết.
* Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Man Như T (chồng Đỗ
Thị Mai H) thống nhất với trình bày của bà H.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Đoàn Tiến D - ng
chứng viên Văn phòng Công chứng s 3 tnh B trình bày: Thời điểm công chứng
Hợp đồng chuyển nhượng thửa đất số 28 giữa vợ chồng ông Văn P, Phạm
Thị Minh C với Đỗ Thị Mai H các bên tham gia đầy đủ năng lực hành vi
dân sự, tự nguyện, không bị lừa đối, ép buộc. Trước khi kết hợp đồng các bên
đã đọc, hiểu rõ, đồng ý tự nguyện ký, điểm chỉ vào hợp đồng và cam đoan
chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi của mình. Tại thời điểm ng chứng,
Phòng Công chứng số 3 tỉnh B không nhận được bất kỳ đơn thư, văn bản của
quan thẩm quyền phong tỏa tài sản của ông P, C để thực hiện nghĩa vụ về
tài sản. Việc kiểm tra tài sản, Công chứng viên không có thẩm quyền kiểm tra tài
4
sản trước khi chứng nhận và pháp luật không quy định phải kiểm tra tài sản trước
khi chứng nhận hợp đồng chuyển nhượng chỉ chứng nhận hợp đồng theo giấy
chứng nhận quyền s dụng đất đã được quan thẩm quyền cấp. các do
trên, đề nghị Tòa án không chấp nhận yêu cầu hủy Hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất ngày 13/10/2017.
* Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Đặng Đình T - Công chứng
viên Văn phòng Công chứng B và Ngân hàng Sài Gòn (SCB)-Q không có văn bản
trình bày và không có yêu cầu.
Tại Bản án dân sự thẩm số 35/2020/DS-ST ngày 12/5/2020, Tòa án
nhân dân huyện T, tỉnh B quyết định:
1. Hai “Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” ngày 13/10/2017
giữa bên chuyển nhượng vợ chồng Phạm Thị Minh C, ông Văn P với bên
nhận chuyển nhượng Đỗ Thị Mai H “Hp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất” ngày 13/8/2018 giữa bên chuyển nhượng vợ chồng Đỗ Thị Mai H,
ông Man Như T với bên nhận chuyển nhượng bà Nguyễn Thị Thanh T, ông Phạm
Văn A đều có hiệu lực pháp luật.
2. Buộc vợ chồng Phạm Thị Minh C, ông Văn P giao trả ngôi nhà
thửa đất số 28, tờ bản đồ số 17, diện tích 128m
2
, tọa lạc tại thôn P1, P, huyện
T, tỉnh B cho vợ chồng bà Nguyễn Thị Thanh T, ông Phạm Văn A.
3. Bác li nại của Phạm Thị Minh C về “Hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất ngày 13/10/2017 và “Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất” ngày 13/8/2018 không thật, chỉ thuê ĐThị Mai H vay ngân hàng
số tiền 600.000.000 đồng, với mức phí là 60.000.000 đồng và chỉ thuê bà Nguyễn
Thị Thanh T vay ngân hàng 1.100.000.000 đồng với mức phí 80.000.000 đồng.
4. Đình chỉ u cầu hủy “Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
ngày 13/10/2017 hủy “Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” ngày
13/8/2018 của vợ chồng bà Đỗ Thị Mai H, ông Man Như T.
Ngoài ra, Tòa án thẩm còn quyết định v án p và tuyên bố quyền
kháng cáo.
Sau khi xét xử thẩm: bà Phạm Thị Minh C kháng cáo; Viện Trưởng
Viện kiểm sát nhân dân huyện T ban hành Quyết định số 01/QĐKNPT-VKS-DS
ngày 26/5/2020 kháng nghị bản án sơ thẩm.
Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 91/2020/DS-PT ngày 29/9/2020, Tòa
án nhân dân tỉnh B quyết định:
1. Chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà Phạm Thị Minh C.
2. Sửa Bản án dân sự thẩm số 35/2020/DS-ST ngày 12/5/2020 của Tòa
án nhân dân huyện T, tỉnh B.
3. Công nhận sự thỏa thuận của các đương sự, cụ thể như sau:
Vợ chồng Nguyễn ThThanh T ông Phạm Văn A với vợ chồng
Phạm Thị Minh C và ông Lê Văn P thống nhất hiện nay vợ chồng C, ông P
còn nợ vợ chồng bà T, ông A số tiền là 1.300.000.000 đồng (Một tỷ ba trăm triệu
đồng). Sau khi án có hiệu lực vợ chồng bà Phạm Thị Minh C, ông Văn P phải
trả 1.300.000.000 đồng (Một tỷ ba trăm triệu đồng) cho vợ chồng bà Nguyễn Thị
Thanh T, ông Phạm Văn A. Khi nhận đủ 1.300.000.000 đồng (Một tỷ ba trăm
5
triệu đồng) vợ chồng Nguyễn Thị Thanh T, ông Phạm Văn A phải nghĩa vụ
lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng thửa đất số 28, tờ bản đồ số 17, diện
tích 128 m
2
tọa lạc tại thôn P1, xã P, huyện T, tỉnh B sang cho vợ chồng bà Phạm
Thị Minh C, ông Lê Văn P.
Ngoài ra, Tòa án cấp phúc thẩm còn quyết định về án pnghĩa vụ thi
hành án.
* Tại Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 39/2024/KN-DS ngày
23/10/2024, Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng đề nghị Ủy ban
Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử theo thủ tục giám đốc
thẩm, hủy toàn bộ Bản án dân sự phúc thẩm số 91/DS-PT ngày 29/9/2020 của
Tòa án nhân dân tỉnh B và Bản án dân sự thẩm số 35/2020/DS-ST ngày
12/5/2020 của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh B; giao hvụ án cho Tòa án
nhân dân huyện T, tỉnh B giải quyết sơ thẩm lại theo đúng quy định pháp luật.
* Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại
Đà Nẵng đề nghị Hội đồng xét xử giám đốc thẩm chấp nhận Quyết định kháng
nghị của Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Thửa đất số 28, tờ bản đồ số 17 tọa lạc tại thôn P1, P, huyện T, tỉnh
B (sau đây viết tắt thửa đất số 28) được Ủy ban nhân dân huyện T cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền shữu nhà tài sản khác gắn liền với
đất ngày 21/10/2011 cho ông Nguyễn Công T, Nguyễn Thị H; ông T, bà H
Hợp đồng chuyển nhượng thửa đất cho ông Văn P, Nguyễn Thị Minh C,
chỉnh lý, sang tên ông P, C ngày 09/10/2015. Ngày 13/10/2017 tại Văn phòng
công chứng số 3 tỉnh B, ông P C Hợp đồng chuyển nhượng thửa đất số
28 cho bà Đỗ Thị Mai H (sang tên bà Hương tháng 10/2017). Ngày 13/8/2018, tại
Văn phòng công chứng B, ông Man Như T Đỗ Thị Mai H Hợp đồng
chuyển nhượng thửa đất 28 cho vợ chồng ông Phạm Văn A, Phạm Thị Thanh
T (sang tên ông An, bà T ngày 17/8/2018).
[2] Xét, vợ chồng C đã chuyển nhượng thửa đất số 28 cho H, vợ
chồng H chuyển nhượng thửa đt lại cho vợ chồng Tuyên, nhưng trên thực
tế vợ chồng bà C vẫn quản lý, sử dụng thửa đất (có nhà ở trên đất), trong khi bà C
trình bày không việc chuyển nhượng thửa đất, việc Hợp đồng chuyển
nhượng thửa đất chỉ nhằm mục đích thuê H, T vay tiền Ngân hàng giúp
C (bà C phải trả phí cho bà H, T). Bà H thừa nhận lúc đầu do nợ xu, không
vay được tiền Ngân hàng nên C Hợp đồng chuyển nhượng thửa đất cho
H, nhờ bà H vay tiền Ngân hàng giúp bà C; sau khi đứng tên thửa đất bà H đã thế
chấp vay tiền Ngân hàng đưa cho C, do bà H không tiếp tục vay được thêm
tiền cho C nên C trả đủ tiền cho H, rồi nhờ H Hợp đồng chuyển
nhượng thửa đất cho vợ chồng T. Vợ chồng T thừa nhận đã trả tiền H
thay C, đổi lại bà C, H vợ chồng bà T thống nhất H sẽ Hợp đồng
chuyển nhượng thửa đất số 28 cho vợ chồng bà T, đồng thời C viết Giấy ngày
12/9/2028 “cam kết hàng tháng vợ chồng C nghĩa vụ trả T 19.000.000
6
đồng cho số nợ gốc 1.100.000.000 đồng, nếu 3 tháng không trả lãi C phải
giao nhà đất tại thửa đất số 28 cho vợ chồng T”, nay C không trả lãi theo
cam kết nên vợ chồng bà T yêu cầu vợ chồng bà C bàn giao nhà đất.
[3] Với các tài liệu, chứng cứ nêu trên, Hội đồng xét xử giám đốc thẩm xét
đủ sở xác định 2 Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng thửa đất số 28
giả tạo, nhằm che giấu giao dịch vay tiền, điu này phù hợp với việc tại phiên tòa
phúc thẩm, các bên đương sự thống nhất thỏa thuận:“...Vợ chồng Nguyễn Thị
Thanh T và ông Phạm Văn A với vợ chồng bà Phạm Thị Minh C và ông Lê Văn P
thống nhất là hiện nay vợ chồng bà C, ông P còn nợ vợ chồng bà T, ông A số tiền
1.300.000.000 đồng. Sau khi án hiệu lực vợ chồng Phạm Thị Minh C,
ông Lê Văn P phải trả 1.300.000.000 đồng cho vợ chồng bà Nguyễn Thị Thanh T,
ông Phạm Văn A. Khi nhận đủ 1.300.000.000 đồng vợ chồng Nguyễn Thị
Thanh T, ông Phạm Văn A phải nghĩa vụ lập hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng thửa đất số 28, tờ bản đồ số 17, diện tích 128m
2
tọa lạc tại thôn P1,
P, huyện T, tỉnh B, sang cho vợ chồng Phạm Thị Minh C, ông Văn P; do
đó, Tòa án cấp thẩm công nhận 2 Hợp đồng chuyển nhượng quyền sdụng
thửa đất 28 trên hiệu lực pháp luật không đúng. Tòa án cấp phúc thẩm sửa
bản án thẩm công nhận sự thỏa thuận của các đương sự, theo đó, vợ chồng
C thừa nhận hiện nay nợ vợ chồng bà T 1.300.000.000 đồng, sau khi vợ chồng bà
C trả đủ tiền cho vợ chồng T thì vợ chồng T nghĩa vụ Hợp đồng
làm thủ tục chuyển sang tên lại thửa đất số 28 cho vợ chồng C; tuy nhiên, Chi
cục Thi hành án dân sự huyện T cho biết hiện nay vợ chồng C không khả
năng trnợ cho vợ chồng bà T nên không thể thi hành án. Bởi các lý do trên, Hội
đồng giám đốc thẩm xét thấy cần chấp nhận Quyết định kháng nghị giám đốc
thẩm số 39/2024/KN-DS ngày 23/10/2024 của Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao
tại Đà Nẵng để hủy toàn bộ bản án phúc thẩm hủy toàn bộ bản án thẩm;
giao hồ cho Tòa án cấp thẩm giải quyết lại vụ án theo đúng quy định của
pháp luậtbản án tuyên phải rõ ràng, đầy đủ, không vướng mắc khi thi hành án.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 337, khoản 3 Điều 343, Điều 345 và Điều 349
của Bộ luật Ttụng dân sự năm 2015, chấp nhận Quyết định kháng nghị giám
đốc thẩm s39/2024/KN-DS ngày 23/10/2024 của Chánh án Tòa án nhân dân
cấp cao tại Đà Nẵng:
Hủy toàn bộ Bản án dân sphúc thẩm số 91/DS-PT ngày 29/9/2020 của
Tòa án nhân dân tỉnh B và Bản án dân sự thẩm số 35/2020/DS-ST ngày
12/5/2020 của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh B; giao hồ ván cho Tòa án
nhân dân huyện T, tỉnh Bình Định giải quyết sơ thẩm lại theo đúng quy định pháp
luật.
Quyết định giám đốc thẩm hiệu lực pháp luật kể từ ngày Hội đồng xét
xử giám đốc thẩm ra quyết định.
7
Nơi nhận:
- V Giám đốc kim tra II - TANDTC;
- Vin kim sát nhân dân cp cao tại Đà Nng;
- Tòa án nhânn tỉnh B;
- TAND huyện T, tỉnh B (kèm hồ sơ vụ án để giải
quyết sơ thẩm lại);
- Chi cc THADS huyện T, tỉnh B;
- Các đương sự (theo địa ch);
- Lưu: Phòng GĐKT II; Phòng Lưu trữ và h sơ vụ án.
TM. Y BAN THM PHÁN
CH TA PHIÊN TÒA
Đặng Kim Nhân
8
Tải về
Quyết định số 88/2024/DS-GĐT Quyết định số 88/2024/DS-GĐT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Quyết định số 88/2024/DS-GĐT Quyết định số 88/2024/DS-GĐT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Quyết định cùng lĩnh vực

Quyết định mới nhất