Quyết định số 40/2024/QĐ-PT ngày 15/07/2024 của TAND cấp cao tại TP.HCM về yêu cầu công nhận và cho thi hành tại việt nam phán quyết kinh doanh, thương mại của trọng tài nước ngoài
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Quyết định số 40/2024/QĐ-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Quyết định số 40/2024/QĐ-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Quyết định 40/2024/QĐ-PT
Tên Quyết định: | Quyết định số 40/2024/QĐ-PT ngày 15/07/2024 của TAND cấp cao tại TP.HCM về yêu cầu công nhận và cho thi hành tại việt nam phán quyết kinh doanh, thương mại của trọng tài nước ngoài |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam phán quyết kinh doanh, thương mại của Trọng tài nước ngoài |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND cấp cao tại TP.HCM |
Số hiệu: | 40/2024/QĐ-PT |
Loại văn bản: | Quyết định |
Ngày ban hành: | 15/07/2024 |
Lĩnh vực: | Kinh doanh thương mại |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | * Giữ nguyên quyết định sơ thẩm |
Tóm tắt Quyết định
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Số: 40/2024/QĐ-PT
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 15 tháng 7 năm 2024
QUYẾT ĐỊNH
GIẢI QUYẾT VIỆC KHÁNG CÁO
ĐỐI VỚI QUYẾT ĐỊNH CÔNG NHẬN VÀ CHO THI HÀNH TẠI VIỆT NAM
PHÁN QUYẾT CỦA TRỌNG TÀI NƯỚC NGOÀI
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Với Hội đồng phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên họp: Ông Vũ Ngọc Huynh
Các Thẩm phán: Ông Hoàng Thanh Dũng
Ông Phan Nhựt Bình
Thư ký phiên họp: Bà Đinh Hồng Vân – Thư ký Tòa án nhân dân cấp cao
tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
tham gia phiên họp: Ông Hà Văn Hừng - Kiểm sát viên.
Ngày 15 tháng 7 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành
phố Hồ Chí Minh mở phiên họp phúc thẩm công khai giải quyết việc kinh doanh
thương mại thụ lý số 04/2024/TLPT–KDTM ngày 12/01/2024 về việc “Yêu cầu
công nhận và cho thi hành tại Việt Nam phán quyết kinh doanh thương mại của
trọng tài nước ngoài”.
Do Quyết định giải quyết yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam
phán quyết của Trọng tài nước ngoài số 2126/2023/KDTM-ST ngày 29 tháng 9
năm 2023 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh bị kháng cáo.
Theo Quyết định mở phiên họp phúc thẩm số 944/2024/QĐ-PT ngày 30
tháng 6 năm 2024, giữa các đương sự:
1. Người được thi hành án: Ủy ban nhân dân TP HCM (đại diện Nước
Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam theo Văn bản số 124/TB-VPCP ngày
14/8/2018 của Văn phòng Chính phủ và Quyết định số 04/2014/QĐ-TTg ngày
14/01/2014 của Thủ tướng Chính phủ được thay thế bởi Quyết định số
14/2020/QĐ-TTg ngày 08/4/2020 của Thủ tướng Chính phủ)
Địa chỉ: phường BN, Quận X, TP HCM.
Người đại diện theo ủy quyền: Bà Nguyễn Thị Hồng H, sinh năm 1974 –
Phó Giám đốc Sở Tư pháp TP HCM; địa chỉ liên hệ: Phường VTS, Quận Y, TP
HCM (theo Giấy ủy quyền ngày 02/4/2021 của Ủy ban nhân dân TP HCM) (có
mặt).
2. Người phải thi hành án:
2.1. Ông Shin Dong B, sinh năm 1957 (có mặt);
Quốc tịch: HQ;
Địa chỉ: 139 Gol, Ir CA 92614, HK;
Địa chỉ liên hệ: khu phố Z, phường AP, TP TĐ, TP HCM.
Người phiên dịch: Bà Trần Thị Mai H1 (Phiên dịch viên do ông Shin
Dong B yêu cầu)
2.2. Công ty TNHH TA. Địa chỉ: khu phố Z, phường AP, Quận G (nay là
TP TĐ), TP HCM.
Người đại diện theo pháp luật: Bà Nguyễn Thanh Ngọc H2, sinh năm
1962 – Chức danh: Giám đốc; địa chỉ liên hệ: khu phố Z, phường AP, TP TĐ,
TP HCM (có mặt).
- Người kháng cáo: Người phải thi hành án là ông Shin Dong B, sinh năm
1957 và Công ty TNHH TA.
NỘI DUNG SỰ VIỆC:
Ủy ban nhân dân TP HCM (đại diện Nước Cộng hòa Xã hội Chủ
nghĩa Việt Nam) trình bày:
Ngày 29/10/2020 Hội đồng trọng tài thuộc Trung tâm Quốc tế về Giải
quyết tranh chấp đầu tư thuộc Ngân hàng Thế giới (sau đây gọi tắt là ICSID) đã
ban hành phán quyết vụ kiện giữa ông Shin Dong B (nguyên đơn) và Nước
Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (bị đơn). Theo đó, đã tuyên Chính phủ
Việt Nam là “Bên thắng kiện”, bác bỏ toàn bộ các khiếu kiện về nội dung của
nguyên đơn, buộc nguyên đơn phải trả 75% chi phí trọng tài (110.308,5USD) và
75% phí luật sư và các chi phí khác của bị đơn (1.795.230,63USD), tổng chi phí
là 1.905.538,68USD.
Căn cứ Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và Điều 16 Hiệp định số
82/2004/LPQT giữa Chính phủ Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và
Chính phủ Đại Hàn Dân Quốc về khuyến khích và bảo hộ đầu tư có hiệu lực từ
ngày 05/6/2004 (sau đây gọi tắt là Hiệp định Khuyến khích và Bảo hộ đầu tư
Việt Nam-Hàn Quốc) (theo đó, sau 3 tháng kể từ ngày phán quyết được ban
hành và không một bên nào tiến hành các thủ tục để xét lại, loại trừ hoặc hủy bỏ
phán quyết thì phán quyết được thi hành), Ủy ban nhân dân TP HCM (đại diện
Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam) (sau đây gọi tắt là Người được thi
hành án) đề nghị Tòa án xem xét công nhận và cho thi hành phán quyết nêu
trên.
Công ty TNHH TA trình bày:
Vụ tranh chấp về đầu tư do cá nhân ông Shin Dong B, nhà đầu tư nước
ngoài, thành viên góp vốn và nắm giữ 49% vốn điều lệ của Công ty TNHH TA
(sau đây gọi tắt là Công ty TA), là công dân Hàn Quốc, dựa trên các quy định
của Hiệp định Khuyến khích và Bảo hộ đầu tư Việt Nam-Hàn Quốc, nộp đơn
yêu cầu giải quyết tranh chấp về đầu tư đến ICSID theo Quy tắc Bổ sung tố tụng
trọng tài ICSID có hiệu lực từ ngày 10/4/2006.
Một Hội đồng trọng tài ICSID được thành lập theo Quy tắc Bổ sung tố
tụng trọng tài ICSID đã ban hành phán quyết trọng tài ngày 29/10/2020 để giải
quyết Vụ tranh chấp số ARB(AF)/18/2 (sau đây gọi tắt là Phán quyết trọng tài
ICSID). Thông tin của vụ tranh chấp đầu tư này cũng được đăng tải chính thức
trên trang tin điện tử của ICSID.
Tại Đoạn 2 của Phán quyết trọng tài ICSID xác định cá nhân ông Shin
Dong B là nguyên đơn trong vụ tranh chấp này.
Tại phần đầu của Đoạn 183 Phán quyết trọng tài ICSID đã xác định Công
ty TA đại diện bởi bà Nguyễn Thanh Ngọc H2 tham gia tiến trình trọng tài
ICSID là người làm chứng do nguyên đơn chọn.
Tại Đoạn 625 của Phán quyết trọng tài ICSID cũng đã trích dẫn quy định
tại Điều 58(1) Quy tắc Bổ sung tố tụng trọng tài ICSID rằng: “Trừ khi các bên
có thỏa thuận khác, Hội đồng trọng tài quyết định ai sẽ phải trả bao nhiêu phí và
chi phí cho thành viên Hội đồng trọng tài, phí và chi phí cho Ban thư ký và chi
phí các bên phải chịu liên quan đến thủ tục trọng tài. Cuối cùng Hội đồng trọng
tài sẽ thu thập thông tin cần thiết để phân bổ phí tố tụng cho các bên”.
Tại Đoạn 631 (3) của Phán quyết trọng tài ICSID cũng quyết định nguyên
đơn phải trả cho bị đơn phần tạm ứng phí trọng tài ICSID mà bị đơn đã nộp là
110.308,05USD và 75% phí luật sư và chi phí khác của bị đơn là
1.795.230,63USD.
Tại Điều 16 (2) của Hiệp định Khuyến khích và Bảo hộ đầu tư Việt Nam-
Hàn Quốc cũng nêu rõ: “Phán quyết trọng tài là chung thẩm, chỉ ràng buộc các
bên tranh chấp và chỉ áp dụng đối với các tranh chấp cụ thể”.
Do đó, với sự thận trọng cần thiết và theo hiểu biết về thủ tục trọng tài
ICSID cũng như nội dung Phán quyết trọng tài ICSID, Công ty TA có ý kiến
như sau:
- Công ty TA tôn trọng Phán quyết trọng tài ICSID.
- Trong toàn bộ nội dung Phán quyết trọng tài ICSID không có nội dung
nào xác định và cũng không có nội dung nào có thể giải thích hay diễn giải rằng
Công ty TA là người có nghĩa vụ thanh toán cho Chính phủ Việt Nam trong vụ
tranh chấp này.
- Đến thời điểm phát hành văn bản này, Công ty TA không có bất kỳ cam
kết hoặc thỏa thuận với Chính phủ Việt Nam liên quan đến việc thi hành Phán
quyết trọng tài ICSID.
- Công ty TA tôn trọng các cam kết hoặc thỏa thuận đạt được giữa ông
Shin Dong B với Chính phủ Việt Nam để thi hành Phán quyết trọng tài ICSID
liên quan đến phần vốn góp của ông Shin Dong B tại Công ty TA theo Điều lệ
của Công ty TA và phù hợp với quy định của pháp luật Việt Nam.
- Công ty TA mong muốn giữa ông Shin Dong B và Chính phủ Việt Nam
sớm đạt được thỏa thuận về thi hành Phán quyết trọng tài ICSID để công tác xây
dựng của dự án đầu tư Kho TA không bị ảnh hưởng, giảm thiểu thiệt hại có thể
tránh được.
Ông Shin Dong B trình bày:
Ông Shin Dong B căn cứ điểm đ khoản 1 và điểm b khoản 2 Điều 459 Bộ
luật Tố tụng dân sự năm 2015, đề nghị Tòa án không công nhận Phán quyết
trọng tài ICSID vì các lý do sau đây:
1) Về thành phần Hội đồng trọng tài:
Thứ nhất, thành phần của Hội đồng trọng tài không phù hợp với thỏa
thuận trọng tài, như sau:
- Bà J Gill và ông A Jan van den B1 đã vi phạm nghĩa vụ công khai thông
tin theo quy định tại Điều 13.2 Cơ chế phụ trợ của ICSID, cụ thể:
+ Tại Bản cam kết ngày 04/7/2018, bà J chỉ tuyên bố rằng, đã từng làm
việc tại Công ty Luật A&O cho đến ngày 30/4/2018 và tiếp tục nhận thu nhập từ
công ty cho đến năm 2020; mà không công khai việc đã làm việc tại Công ty
Luật A&O gần 25 năm, trong đó có 11 năm là lãnh đạo của công ty; và trong
thời gian bà J làm lãnh đạo thì Công ty Luật A&O đã thực hiện nhiều vụ việc hỗ
trợ cho Chính phủ Việt Nam như: Tư vấn cho các bên cho vay và các tổ chức tín
dụng xuất khẩu từ Nhật Bản, Hàn Quốc và các nước khác về nhiều khoản tài trợ
cho các công ty Việt Nam được Bộ Tài chính bảo lãnh; Năm 2015 tư vấn cho
Chính Phủ Việt Nam về đợt phát hành trái phiếu chính phủ trị giá 1 tỷ đô la Mỹ
theo Quy tắc 144A/Reg S.
+ Tại Bản cam kết ngày 11/6/2018, ông A đã không tuyên bố các quan hệ
nghề nghiệp với Việt Nam trong thời kỳ là luật sư thành viên của Công ty Luật
FBD – một trong những công ty luật nước ngoài đầu tiên thành lập chi nhánh tại
Việt Nam. Ngoài ra, ông A cũng không tuyên bố về việc từng công tác nhiều lần
với bà C1 Frutos-Peterson – Luật sư của Chính phủ Việt Nam trong vụ việc
trọng tài.
- Những mối quan hệ của bà J và ông A với Chính phủ Việt Nam và
doanh nghiệp Việt Nam nêu trên chính là yếu tố gây nghi ngờ về tính độc lập
của các trọng tài viên khi ban hành phán quyết.
- Hành vi không công khai thông tin của bà J và ông A không chỉ vi phạm
Điều 13.2 Cơ chế phụ trợ của ICSID, mà còn làm mất đi quyền và cơ hội để ông
B phản đối việc thành lập Hội đồng trọng tài, làm mất đi quyền tố tụng của ông
B đối với thủ tục thành lập Hội đồng trọng tài quy định tại Điều 15.1 Cơ chế phụ
trợ của ICSID, xâm phạm nghiêm trọng quyền và lợi ích hợp pháp của ông B
trong quá trình giải quyết vụ việc trọng tài.
Thứ hai, việc Chính phủ Việt Nam chỉ định ông A làm trọng tài viên là
không hợp lệ:
- Theo quy định tại Điều 11.3 Hiệp định Khuyến khích và Bảo hộ đầu tư
Việt Nam-Hàn Quốc thì thẩm quyền chỉ định Trọng tài viên trong trường hợp các
Bên tranh chấp không chỉ định được bất kỳ thành viên nào của hội đồng trọng tài
trong vòng 90 ngày kể từ ngày khiếu nại được đưa ra ICSID thuộc về Tổng Thư
ký ICSID chứ không phải bất kỳ bên nào trong tranh chấp.
- Tại Phán quyết trọng tài ICSID thể hiện: ICSID nhận được yêu cầu
trọng tài của nguyên đơn vào ngày 08/3/2018 (Đoạn 8). Như vậy, thời hạn thành
lập hội đồng trọng tài theo quy định là từ ngày 08/3/2018 đến ngày 06/6/2018.
ICSID xác nhận thời hạn chỉ định Trọng tài viên sẽ tuân theo Điều 11.3 Hiệp
định Khuyến khích và Bảo hộ đầu tư Việt Nam-Hàn Quốc (Đoạn 17). Nhưng
đến ngày 08/6/2018 Bị đơn – Chính phủ Việt Nam vẫn gửi thư chỉ định Trọng
tài viên là ông A cho ICSID (Đoạn 21). Ngày 08/6/2018 nguyên đơn đã có thư
khẳng định thời hạn 90 ngày chỉ định trọng tài viên của các bên đã kết thúc và
yêu cầu Tổng Thư ký ICSID chỉ định các trọng tài viên còn lại theo quy định
(Đoạn 22). Mặc dù ICSID công nhận các quy định của Hiệp định Khuyến khích
và Bảo hộ đầu tư Việt Nam-Hàn Quốc sẽ có hiệu lực cao hơn Cơ chế phụ trợ của
ICSID, ICSID vẫn cho phép Bị đơn chỉ định ông A làm Trọng tài viên “cho đến
khi quá trình bổ nhiệm Văn phòng Thư ký hoàn tất” (Đoạn 24).
- Tuy nhiên, Điều 11.3 Hiệp định Khuyến khích và Bảo hộ đầu tư Việt
Nam-Hàn Quốc không hề quy định bất kỳ trường hợp ngoại lệ nào cho phép các
bên vẫn được chỉ định trọng tài viên khi thời hạn 90 ngày đã kết thúc, kể cả
trường hợp Văn phòng Thư ký của ICSID chưa thực hiện xong bất kỳ việc bổ
nhiệm nội bộ nào. Bất kể sự phản đối của Nguyên đơn và quy định tại Điều 11.3
Hiệp định Khuyến khích và Bảo hộ đầu tư Việt Nam-Hàn Quốc, ICSID vẫn cho
phép Bị đơn lựa chọn trọng tài viên và công nhận sự lựa chọn đó với lý do
không được ghi nhận trong cả Hiệp định Khuyến khích và Bảo hộ đầu tư Việt
Nam-Hàn Quốc lẫn Cơ chế phụ trợ của ICSID. Điều này đã vi phạm nghiêm
trọng thủ tục thành lập Hội đồng trọng tài được quy định tại thỏa thuận trọng tài
là Hiệp định Khuyến khích và Bảo hộ đầu tư Việt Nam-Hàn Quốc.
Thứ ba, việc chỉ định bà J là Chủ tịch Hội đồng trọng tài không đảm bảo
tính minh bạch:
- Tại Phán quyết trọng tài ICSID thể hiện: Sau khi ICSID cho phép Bị đơn
chỉ định ông A là Trọng tài viên bất kể sự phản đối của nguyên đơn cũng như quy
định của Hiệp định Khuyến khích và Bảo hộ đầu tư Việt Nam-Hàn Quốc, các bên
đã đồng ý áp dụng “phương pháp loại bỏ – và – xếp loại” để chỉ định Chủ tịch
Hội đồng trọng tài trên cơ sở đề xuất của ICSID (các Đoạn 27, 28 và 29). Sau khi
nhận được danh sách 05 ứng cử viên do ICSID cung cấp vào ngày 22/6/2018, ông
B và Chính phủ Việt Nam đã nộp danh sách xếp hạng các ứng viên cho ICSID
vào ngày 03/7/2018 (các Đoạn 33 và 34). Trong 05 ứng cử viên, ông B chỉ xếp
hạng bà J thứ 3 từ trên xuống. Tuy nhiên, vào ngày 04/7/2018, ICSID lại công bố
bà J được chỉ định là Chủ tịch Hội đồng trọng tài (Đoạn 35). Sự chênh lệch này
ông B nghi ngờ về tính công bằng của ICSID trong việc chỉ định Chủ tịch Hội
đồng trọng tài. Do đó, vào các ngày 6 và 10/7/2018, ông B đã liên tục gửi yêu cầu
công khai bảng xếp hạng ứng viên của các bên đến ICSID nhưng đều bị từ chối
một cách vô cớ (các Đoạn 38 và 42).
- Nếu kết quả xếp hạng của các bên không được công khai, sẽ không có
cơ sở để khẳng định việc chỉ định Chủ tịch Hội đồng trọng tài là tuân theo thỏa
thuận của các bên. Trong khi đó, theo quy định tại Điều 11.1 Hiệp định Khuyến
khích và Bảo hộ đầu tư Việt Nam-Hàn Quốc, Chủ tịch Hội đồng trọng tài phải
được thành lập dựa trên thỏa thuận của các bên. Nói cách khác, việc không công
khai kết quả xếp hạng ứng viên chính là vi phạm thỏa thuận của các bên trong
việc thành lập Hội đồng trọng tài.
2) Về thủ tục giải quyết tranh chấp của Hội đồng trọng tài:
Thứ nhất, Hội đồng trọng tài đã nhiều lần vi phạm nghiêm trọng quy tắc
thẩm định chứng cứ được quy định tại Cơ chế phụ trợ của ICSID khi không xem
xét hoặc xem xét một cách không cẩn trọng một số chứng cứ do các bên cung
cấp, cụ thể:
- Hội đồng trọng tài đã cố tình phớt lờ các chứng cứ liên quan đến tình tiết
Ban Quản lý các khu chế xuất và công nghiệp TP HCM đã cấp nhiều giấy phép
xây dựng cho các nhà đầu tư khác trong giai đoạn 2010-2014 nhưng lại từ chối hồ
sơ yêu cầu của Công ty TA. Trong khi đó, đây là căn cứ cơ bản để chứng minh
hành vi vi phạm Nguyên tắc đối xử Tối huệ quốc và các tiêu chuẩn Đối xử Quốc
gia của Chính phủ Việt Nam được quy định tại các Điều 2.2, 3 và 5 Hiệp định
Khuyến khích và Bảo hộ đầu tư Việt Nam-Hàn Quốc.
- Hội đồng trọng tài cũng đã không xem xét nhiều chứng cứ quan trọng mà
các bên trong tranh chấp đã đệ trình, bao gồm: Các tài liệu trao đổi liên quan đến
việc Công ty TNHH MTV Dịch vụ Công ích Quận G thỏa thuận giao lô đất của
Công ty TA cho Công ty Cổ phần Thiết bị và Dụng cụ Cơ khí T5 trong khi Hợp
đồng Nguyên tắc số 30/HDNT-PTN-KCN ký ngày 21/5/2009 giữa Công ty Dịch
vụ Công ích Quận G và Công ty TNHH Dịch vụ - Thương mại B6 và CS, tiền
thân của Công ty TA (Hợp đồng Nguyên tắc Thứ ba) vẫn còn hiệu lực, các công
văn chỉ đạo của Ủy ban nhân dân TP HCM về việc tăng giá Hợp đồng Cho thuê
lại Chính thức số 06/HDTD-CL2 ký ngày 19/7/2017 giữa Công ty TA và Công ty
Dịch vụ Công ích Quận G v.v...
- Hội đồng trọng tài đã tự ý diễn giải sai nội dung của Hợp đồng Nguyên
tắc Thứ ba và Hợp đồng Thuê kho ký ngày 26/5/2014 giữa Công ty TNHH
Thương mại NP và Công ty TA (Hợp đồng Thuê kho) theo hướng sai lệch, cụ thể:
(i) Công ty Dịch vụ Công ích Quận G có quyền chấm dứt Hợp đồng Nguyên tắc
Thứ ba (các Đoạn 534, 535 và 539), trong khi đó theo Hợp đồng Nguyên tắc Thứ
ba thì hợp đồng chỉ chấm dứt khi Công ty TA không được cấp giấy phép đầu tư;
(ii) Công ty Dịch vụ Công ích Quận G có quyền thu hồi và giao lại quyền sử dụng
khu đất có liên quan cho Công ty T5 (Đoạn 535); (iii) Công ty NP có quyền hoạt
động trên khu đất có liên quan đáng lẽ ra thuộc quyền sử dụng của Công ty TA
trong 6 năm (Đoạn 583), trong khi Hợp đồng Thuê kho đã chấm dứt vì Công ty
NP vi phạm nghĩa vụ của hợp đồng) v.v…
Thứ hai, Ủy ban nhân dân TP HCM với tư cách là một bên tranh chấp đã
vi phạm nghiêm trọng quy định về thời hiệu thi hành phán quyết quy định tại
Điều 16.7 Hiệp định Khuyến khích và Bảo hộ đầu tư Việt Nam-Hàn Quốc có
động thái chỉ đạo các cơ quan trực thuộc và tiến hành thi hành phán quyết kể cả
khi thời hạn yêu cầu hủy phán quyết theo Điều 16.7 Hiệp định Khuyến khích và
Bảo hộ đầu tư Việt Nam-Hàn Quốc vẫn còn và phán quyết chưa được công nhận
bởi Tòa án có thẩm quyền của Việt Nam, là vi phạm nghiêm trọng thủ tục giải
quyết tranh chấp theo thỏa thuận trọng tài giữa các bên, là quy định về thi hành
phán quyết tại Điều 16.7 Hiệp định Khuyến khích và Bảo hộ đầu tư Việt Nam-
Hàn Quốc.
3) Việc công nhận và cho thi hành tại Việt Nam đối với Phán quyết trọng
tài ICSID là trái với nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam được quy định
tại khoản 2 Điều 4 Luật Trọng tài thương mại năm 2010 là “Trọng tài viên phải
độc lập, khách quan, vô tư và tuân theo quy định của pháp luật”:
Thứ nhất, các Trọng tài viên của Hội đồng trọng tài vi phạm nghĩa vụ
công khai thông tin về mối quan hệ với Chính phủ Việt Nam và các doanh
nghiệp lớn của Việt Nam làm ông B nghi ngờ tính độc lập xét xử của Hội đồng
trọng tài.
Thứ hai, Hội đồng trọng tài phân bổ khoản phí trọng tài 02 lần để buộc
ông B thanh toán cho Chính phủ Việt Nam thể hiện sự thiên vị, không công
bằng của Hội đồng trọng tài trong việc xem xét yêu cầu của các bên khi đưa ra
Phán quyết.
Tại Quyết định giải quyết yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt
Nam phán quyết của Trọng tài nước ngoài số 2126/2023/KDTM-ST ngày 29
tháng 9 năm 2023, Tòa án nhân dân TP HCM đã quyết định:
1. Công nhận và cho thi hành tại Việt Nam Phán quyết trọng tài ban hành
ngày 29/10/2020 của Hội đồng trọng tài thuộc Trung tâm Quốc tế về Giải quyết
tranh chấp đầu tư (ICSID) giải quyết Vụ tranh chấp số ARB(AF)/18/2 giữa ông
Shin Dong B (nguyên đơn) và Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (bị
đơn).
2. Tiế p tụ c duy t r biện phán khẩn cấp tạm thời theo hai Quyết định áp
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 105/2021/QĐ-BPKCTT ngày 07/5/2021 và
số 167/2021/QĐ-BPKCTT ngày 26/11/2021 của Tòa án nhân dân TP HCM.
Ngoài ra, quyết định sơ thẩm còn quyết định về lệ phí yêu cầu và quyền
kháng cáo theo quy định pháp luật.
Ngày 11/10/2023, người phải thi hành là ông Shin Dong B và Công ty
TNHH TA kháng cáo toàn bộ quyết định sơ thẩm.
Tại phiên họp phúc thẩm:
Người phải thi hành là ông Shin Dong B và Công ty TNHH TA (do bà
Nguyễn Thanh Ngọc H2 đại diện) thống nhất trình bày: Vẫn giữ kháng cáo
yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm sửa quyết định sơ thẩm, không chấp nhận toàn bộ
yêu cầu của người được thi hành án, vì Phán quyết trọng tài đối với vụ việc
ICSID số ARB(AF)/18/2 do Hội đồng trọng tài thuộc Trung tâm Quốc tế về
Giải quyết Tranh chấp đầu tư ban hành ngày 29/10/2020 thuộc trường hợp
không được công nhận và cho thi hành tại Việt Nam do Thành phần của Hội
đồng trọng tài ban hành phán quyết và thủ tục giải quyết tranh chấp không phù
hợp với thỏa thuận trọng tài; trọng tài viên không độc lập, khách quan, vô tư và
tuân theo quy định của pháp luật; bản dịch sang tiếng Việt của Phán quyết trọng
tài ICSID không đúng, làm thay đổi nội dung của phán quyết. Ngoài ra, việc
Tòa án cấp sơ thẩm xác định Công ty TA tham gia tố tụng với tư cách là người
phải thi hành án là không đúng quy định pháp luật, đồng thời xem xét hủy Quyết
định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 105/2021/QĐ-BPKCTT ngày
07/5/2021 và số 167/2021/QĐ-BPKCTT ngày 26/11/2021 của Tòa án nhân dân
TP HCM.
Bà Nguyễn Thị Hồng H đại diện cho người được thi hành án trình
bày: Không đồng ý kháng cáo của ông Shin Dong B và Công ty TNHH TA, đề
nghị Tòa án cấp phúc thẩm bác kháng cáo và giữ nguyên quyết định sơ thẩm.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
phát biểu quan điểm:
Về tố tụng: Hội đồng xét xử và các đương sự đều chấp hành đúng quy
định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Về nội dung: Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết vụ việc có căn cứ và đúng
quy định pháp luật. Tại phiên họp phúc thẩm, ông Shin Dong B và Công ty
TNHH TA kháng cáo nhưng không cung cấp được chứng cứ nào mới chứng
minh cho yêu cầu kháng cáo nên đề nghị Hội đồng xét xử bác kháng cáo và giữ
nguyên quyết định giải quyết yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam
phán quyết của Trọng tài nước ngoài của Tòa án cấp sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ việc kinh doanh
thương mại được thẩm tra tại phiên họp và căn cứ vào kết quả tranh luận tại
phiên họp, Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm nhận định:
[1] Về hình thức: Đơn kháng cáo của ông Shin Dong B và Công ty TNHH
TA là trong thời hạn luật định, thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân
dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.
[2] Về nội dung:
[2.1] Ngày 29/10/2020, Hội đồng trọng tài thuộc ICSID đã ban hành phán
quyết để giải quyết Vụ tranh chấp số ARB(AF)/18/2 giữa ông Shin Dong B
(nguyên đơn) và Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (bị đơn) theo
hướng Chính phủ Việt Nam là “Bên thắng kiện”, bác bỏ toàn bộ các khiếu kiện
về nội dung của nguyên đơn, buộc nguyên đơn phải trả cho bị đơn 75% chi phí
trọng tài (110.308,5USD) và 75% phí luật sư và các chi phí khác của bị đơn
(1.795.230,63USD), tổng chi phí là 1.905.538,68USD; còn trong thời hạn 03
năm, kể từ ngày Phán quyết trọng tài ICSID có hiệu lực pháp luật, Ủy ban nhân
dân TP HCM (đại diện Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam) là người
được thi hành có quyền yêu cầu Tòa án Việt Nam công nhận và cho thi hành tại
Việt Nam phán quyết trọng tài này, là phù hợp với quy định tại Điều 16.5 Hiệp
định Khuyến khích và Bảo hộ đầu tư Việt Nam-Hàn Quốc, khoản 1 Điều 425 và
khoản 1 Điều 451 Bộ luật Tố tụng dân sự về quyền yêu cầu và thời hạn gửi đơn
yêu cầu.
Theo Đơn yêu cầu đề ngày 02/02/2021, Người được thi hành án yêu cầu
Tòa án giải quyết: Công nhận và cho thi hành tại Việt Nam Phán quyết trọng tài
ICSID, nên đây là việc dân sự về yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt
Nam phán quyết kinh doanh, thương mại của trọng tài nước ngoài. Tòa án cấp
sơ thẩm thụ lý giải quyết vụ việc là đúng thẩm quyền.
[2.2] Phán quyết trọng tài ICSID là phán quyết do Hội đồng trọng tài
thuộc ICSID tuyên ở ngoài lãnh thổ Việt Nam là Singapore để giải quyết tranh
chấp giữa nguyên đơn là ông Shin Dong B (một nhà đầu tư cá nhân của Hàn
Quốc có đầu tư trên lãnh thổ Việt Nam thông qua việc nắm giữ phần vốn góp
trong doanh nghiệp của Việt Nam là Công ty TA) và bị đơn là Nước Cộng hòa
Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam theo Cơ chế phụ trợ của ICSID quy định tại Điều
9.4.b Hiệp định Khuyến khích và Bảo hộ đầu tư Việt Nam-Hàn Quốc, là phán
quyết cuối cùng của Hội đồng trọng tài giải quyết toàn bộ nội dung vụ tranh
chấp, chấm dứt tố tụng trọng tài và quá 3 tháng kể từ ngày phán quyết được đưa
ra và các bên không tiến hành các thủ tục để xem xét lại, loại trừ hoặc hủy bỏ
phán quyết nên có hiệu lực thi hành; Singapore và Việt Nam đều là thành viên
của Công ước New York 1958. Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm xác định Phán quyết
trọng tài ICSID được xem xét công nhận và cho thi hành tại Việt Nam theo quy
định tại Điều 16.6 và Điều 16.7.b.i Hiệp định Khuyến khích và Bảo hộ đầu tư
Việt Nam-Hàn Quốc và Điều 424 Bộ luật Tố tụng dân sự là có căn cứ.
[2.3] Ông Shin Dong B và Công ty TA kháng cáo cho rằng việc Tòa án
cấp sơ thẩm xác định Công ty TA tham gia tố tụng với tư cách là người phải thi
hành án là không đúng quy định của pháp luật. Hội đồng xét xử xét thấy, tại
khoản 1 Điều 452 Bộ luật Tố tụng dân sự quy định như sau: “Đơn yêu cầu công
nhận và cho thi hành tại Việt Nam phán quyết của Trọng tài nước ngoài phải có
các nội dung chính sau đây:
a) Họ, tên, địa chỉ nơi cư trú hoặc nơi làm việc của người được thi hành,
người đại diện hợp pháp tại Việt Nam của người đó; nếu người được thi hành
án là cơ quan, tổ chức th phải ghi đầy đủ tên và địa chỉ trụ sở chính của cơ
quan, tổ chức đó;
b) Họ, tên, địa chỉ nơi cư trú hoặc nơi làm việc của người phải thi hành;
nếu người phải thi hành là cơ quan, tổ chức th ghi đầy đủ tên và địa chỉ trụ sở
chính của cơ quan, tổ chức đó; trường hợp người phải thi hành là cá nhân
không có nơi cư trú hoặc nơi làm việc tại Việt Nam, người phải thi hành là cơ
quan, tổ chức không có trụ sở chính tại Việt Nam th trong đơn yêu cầu phải ghi
rõ địa chỉ nơi có tài sản và các loại tài sản liên quan đến việc thi hành phán
quyết của Trọng tài nước ngoài tại Việt Nam;
c) Yêu cầu của người được thi hành”.
Ngoài ra, khoản 3 Điều 68 Bộ luật Tố tụng dân sự như sau: “Bị đơn trong
vụ án dân sự là người bị nguyên đơn khởi kiện hoặc bị cơ quan, tổ chức, cá
nhân khác do Bộ luật này quy định khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án
dân sự khi cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn bị người đó xâm
phạm”.
Theo đó, việc Tòa án xác định tư cách tham gia tố tụng của đương sự mà
cụ thể là người phải thi hành án hay bị đơn là trên cơ sở đơn yêu cầu công nhận
và cho thi hành tại Việt Nam phán quyết của Trọng tài nước ngoài hay đơn khởi
kiện. Ông Shin Dong B là nhà đầu tư nước ngoài, thành viên góp vốn và nắm
giữ 49% vốn điều lệ của Công ty TNHH TA. Công ty TA cũng là chủ thể trực
tiếp ký kết hợp đồng Hợp đồng Nguyên tắc Thứ ba, Hợp đồng Thuê kho và làm
việc với Công ty Dịch vụ Công ích Quận G. Do đó, việc Tòa án cấp sơ thẩm xác
định Công ty TA tham gia tố tụng với tư cách là người phải thi hành án trên cơ
sở Đơn yêu cầu đề ngày 02/02/2021 của Người được thi hành án là phù hợp với
quy định tại khoản 1 Điều 452 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2.4] Xét kháng cáo của ông Shin Dong B và Công ty TA cho rằng bản
dịch sang tiếng Việt của Phán quyết trọng tài ICSID không đúng.
Ông Shin Dong B và Công ty TA cho rằng bản dịch sang tiếng Việt của
Phán quyết trọng tài ICSID mà Người được thi hành án nộp cho Tòa án có lỗi
sai như sau: Từ "Respondent" nghĩa tiếng Việt là "Bị đơn" bị dịch sai thành
"Nguyên đơn" lần lượt tại Đoạn 367 và Đoạn 621 Bản dịch; Từ "term" mang ý
nghĩa quy định của hợp đồng bị dịch sai thành "điều khoản" tại câu cuối cùng
Đoạn 604 Bản dịch; Cụm từ "jurisdictional objections" trong bối cảnh các bên
có tranh cãi về thẩm quyền của hội đồng trọng tài phải được dịch sang tiếng Việt
là "phản đối về thẩm quyền" bị dịch sai thành "phản đối về mặt pháp lý", là
những lỗi sai cơ bản, làm thay đổi nội dung của phán quyết, có khả năng làm
cho Tòa án hiếu sai về nội dung của phán quyết, từ đó đưa ra những quyết định
không chính xác trong quá trình xét đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành phán
quyết tại Việt Nam. Xét, ông Shin Dong B và Công ty TA đã được tiếp cận, sao
chụp tài liệu là Phán quyết trọng tài ICSID mà Người được thi hành án nộp cho
Tòa án vào ngày 15/9/2023 và tại phiên họp sơ thẩm, thống nhất xác định nội
dung tiếng nước ngoài của tài liệu này là đúng với bản phán quyết trọng tài mà
họ đã nhận. Vì vậy, Phán quyết trọng tài ICSID mà Người được thi hành án nộp
cho Tòa án là tài liệu bằng tiếng nước ngoài có kèm theo bản dịch sang tiếng
Việt được công chứng, chứng thực hợp pháp, thỏa mãn các điều kiện là chứng
cứ theo quy định tại khoản 2 Điều 92, Điều 95 và khoản 3 Điều 96 Bộ luật Tố
tụng dân sự, cũng là tài liệu hợp lệ theo Điều 4 Công ước Niu-oóc 1958. Hơn
nữa, mặc dù đã được Tòa án cấp sơ thẩm giải thích nhưng ông Shin Dong B và
Công ty TA cũng không cung cấp bản dịch khác hay có yêu cầu dịch thuật lại tài
liệu nêu trên. Ngoài ra, các sai sót của bản dịch mà ông Shin Dong B và Công ty
TA nêu trên cũng không làm cho Tòa án hiểu sai về nội dung của phán quyết. Vì
vậy, Hội đồng xét đơn yêu cầu không chấp nhận ý kiến phản đối nêu trên của
ông Shin Dong B và Công ty TA, và sử dụng tài liệu là Phán quyết trọng tài
ICSID mà Người được thi hành án nộp cho Tòa án vào ngày 15/9/2023 để làm
cơ sở xem xét giải quyết yêu cầu là đúng quy định của pháp luật.
[2.5] Đối với kháng cáo cho rằng cho rằng Phán quyết trọng tài đối với vụ
việc ICSID số ARB(AF)/18/2 do Hội đồng trọng tài thuộc Trung tâm Quốc tế về
Giải quyết Tranh chấp đầu tư ban hành ngày 29/10/2020 thuộc trường hợp
không được công nhận và cho thi hành tại Việt Nam do Thành phần của Hội
đồng trọng tài ban hành phán quyết và thủ tục giải quyết tranh chấp không phù
hợp với thỏa thuận trọng tài; trọng tài viên không độc lập, khách quan, vô tư và
tuân theo quy định của pháp luật.
Xét thấy, tại cấp sơ thẩm, ông Shin Dong B đã cung cấp cho Tòa án bản
photo/bản chụp tiếng nước ngoài có dịch sang tiếng Việt, không có công chứng,
chứng thực các tài liệu sau đây: Quy tắc tố tụng trọng tài Cơ chế phụ trợ của
ICSID, Bản tuyên bố ngày 04/7/2018 của bà J, hình chụp Cổng thông tin của
ICSID về lý lịch của bà J, Bản lý lịch của bà J, hình chụp Cổng thông tin của
Công ty Luật A&O tại Việt Nam, hồ sơ công ty của Công ty Luật Al&O tại Việt
Nam, Bản tuyên bố ngày 11/6/2018 của ông A, hình chụp Cổng thông tin của
ICSID về lý lịch ông A, Bản lý lịch của ông A, hình chụp Cổng thông tin của
ICSID về Vụ việc ICSID số ARB(AF)/02/1, trang bìa Phán quyết Vụ việc
ICSID số ARB(AF)/02/1 ngày 17/7/2006, hình chụp Cổng thông tin của ICSID
về Vụ việc ICSID số ARB/02/1, trang bìa Phán quyết Vụ việc ICSID số
ARB/02/1 ngày 25/7/2007, trang bìa Phán quyết Vụ việc ICSID số ARB/01/3
ngày 25/10/2007 và danh sách xếp hạng ứng viên ngày 03/7/2018 của ông Shin
Dong B. các tài liệu ông Shin Dong B đã cung cấp cho Tòa án chỉ là bản
photo/bản chụp tiếng nước ngoài có dịch sang tiếng Việt, không có công chứng,
chứng thực hợp lệ và Người được thi hành án cũng không thừa nhận các tài liệu
này.
Ngoài ra, tại Đoạn 11 Phán quyết trọng tài ICSID thể hiện: Ngày
19/3/2018 Quyền Tổng Thư ký của ICSID đã đăng ký Yêu cầu theo Điều 4 Quy
định về Cơ chế phụ trợ và thông báo đến các Bên về việc đăng ký. Trong thông
báo đăng ký, Quyền Tổng Thư ký đề nghị các Bên tiến hành lập hội đồng trọng
tài trong thời gian sớm nhất theo Điều 5.e của Quy định về Cơ chế phụ trợ và
Điều 11.1 Hiệp định Khuyến khích và Bảo hộ đầu tư Việt Nam-Hàn Quốc. Theo
đó, ngày 08/6/2018 Bị đơn chỉ định ông A làm trọng tài viên, là còn trong thời
hạn 90 ngày, phù hợp với quy định tại Điều 11.1 Hiệp định Khuyến khích và
Bảo hộ đầu tư Việt Nam-Hàn Quốc.
Do đó, không có cơ sở để chứng minh bà J Gill, ông A đã vi phạm nghĩa
vụ công khai thông tin theo quy định tại Điều 13.2 Cơ chế phụ trợ của ICSID,
hay việc chỉ định bà J là Chủ tịch Hội đồng trọng tài không đảm bảo tính minh
bạch. Xét thành phần của Hội đồng trọng tài là phù hợp với thỏa thuận trọng tài,
phù hợp với quy định của pháp luật nên Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận ý
kiến này của người phải thi hành án là có cơ sở. Ngoài ra, ông Shin Dong B và
Công ty TA cũng không cung cấp được chứng cứ có giá trị pháp lý nào chứng
minh việc trọng tài viên không độc lập, khách quan, vô tư và tuân theo quy định
của pháp luật.
[2.6] Đối với các Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số
105/2021/QĐ-BPKCTT ngày 07/5/2021 và số 167/2021/QĐ-BPKCTT ngày
26/11/2021 của Tòa án nhân dân TP HCM: Như phân tích trên, yêu cầu của
người được thi hành án về việc công nhận và cho thi hành tại Việt Nam Phán
quyết trọng tài ban hành ngày 29/10/2020 của Hội đồng trọng tài thuộc Trung
tâm Quốc tế về Giải quyết tranh chấp đầu tư giải quyết Vụ tranh chấp số
ARB(AF)/18/2 giữa ông Shin Dong B (nguyên đơn) và Nước Cộng hòa Xã hội
Chủ nghĩa Việt Nam (bị đơn) là có căn cứ chấp nhận nên Tòa án cấp sơ thẩm
tiếp tục duy trì Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số
105/2021/QĐ-BPKCTT ngày 07/5/2021 và số 167/2021/QĐ-BPKCTT ngày
26/11/2021 của Tòa án nhân dân TP HCM để đảm bảo thi hành án là có căn cứ.
Ông Shin Dong B yêu cầu hủy các quyết định này là không có cơ sở chấp nhận.
[2.7] Từ những phân tích trên, Hội đồng phúc thẩm xét thấy, Tòa án cấp
sơ thẩm đã giải quyết có căn cứ và đúng quy định của pháp luật. Tại phiên họp
phúc thẩm, ông Shin Dong B và Công ty TNHH TA có kháng cáo nhưng không
cung cấp được chứng cứ nào mới chứng minh cho yêu cầu kháng cáo của mình
nên Hội đồng phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo và giữ nguyên Quyết định
của Tòa án cấp sơ thẩm. Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp
cao tại Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên họp phù hợp với nhận định của
Hội đồng phúc thẩm nên được chấp nhận.
[3] Về lệ phí phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên người
kháng cáo phải chịu.
V các lẽ trên;
Căn cứ Điều 462 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015,
Căn cứ Điều 4 Công ước về công nhận và thi hành quyết định của trọng
tài nước ngoài của Liên hợp quốc đã được thông qua tại Niu-oóc ngày
10/6/1958;
Căn cứ Điều 16 Hiệp định số 82/2004/LPQT giữa Chính phủ Việt Nam
và Chính phủ Hàn Quốc về khuyến khích và bảo hộ đầu tư;
Căn cứ khoản 5 Điều 31, điểm c khoản 2 Điều 35, điểm b khoản 1 Điều
37, điểm e khoản 2 Điều 39, các Điều 92, 95, 96, 424, 425, 451, 452, 453,
458, 459 và 461 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
QUYẾT ĐỊNH:
1. Không chấp nhận kháng cáo của người phải thi hành án ông Shin Dong
B và Công ty TNHH TA. Giữ nguyên Quyết định giải quyết yêu cầu công nhận
và cho thi hành tại Việt Nam phán quyết của Trọng tài nước ngoài số
2126/2023/KDTM-ST ngày 29 tháng 9 năm 2023 của Tòa án nhân dân TP
HCM.
2. Công nhận và cho thi hành tại Việt Nam Phán quyết trọng tài ban hành
ngày 29/10/2020 của Hội đồng trọng tài thuộc Trung tâm Quốc tế về Giải quyết
tranh chấp đầu tư (ICSID) giải quyết Vụ tranh chấp số ARB(AF)/18/2 giữa ông
Shin Dong B (nguyên đơn) và Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (bị
đơn).
3. Tiế p tụ c duy trì biện phán khẩn cấp tạm thời theo hai Quyết định áp
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 105/2021/QĐ-BPKCTT ngày 07/5/2021 và
số 167/2021/QĐ-BPKCTT ngày 26/11/2021 của Tòa án nhân dân TP HCM.
4. Sung vào công quỹ Nhà nước số tiền lệ phí công nhận và cho thi hành
tại Việt Nam phán quyết của Trọng tài nước ngoài do Ủy ban nhân dân TP
HCM (đại diện Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam) đã nộp là
3.000.000 đồng theo Biên lai thu tiền phí, lệ phí số 0034676 ngày 03/02/2021
của Tòa án nhân dân TP HCM.
5. Lệ phí phúc thẩm: Ông Shin Dong B và Công ty TNHH TA mỗi đương
sự phải chịu 300.000 đồng, được khấu trừ số tiền 300.000 đồng tạm ứng lệ phí
mỗi đương sự đã nộp theo các biên lai thu số 0004192 và 0004194 cùng ngày
07/11/2023 của Cục Thi hành án dân sự TP HCM.
6. Quyết định này có hiệu lực pháp luật ngay.
Nơi nhận:
- Tòa án nhân dân tối cao;
- VKSND cấp cao tại Tp. Hồ Chí Minh;
- Bộ tư pháp;
- TAND Tp. Hồ Chí Minh;
- VKSND Tp. Hồ Chí Minh;
- Cục THADS Tp. Hồ Chí Minh;
- Đương sự (3);
- Lưu VP (3), HS (3).15b. (ĐHV)
TM. HỘI ĐỒNG PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN HỌP
Vũ Ngọc Huynh
Tải về
Quyết định số 40/2024/QĐ-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quyết định số 40/2024/QĐ-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 28/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 12/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 27/06/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 31/05/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 30/05/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 20/05/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 29/12/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 19/12/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 30/08/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 22/05/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 19/04/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 13/01/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 22/09/2022
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 18/02/2022
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 29/11/2021
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 02/11/2021
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 27/05/2021
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 28/09/2020
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 29/06/2020
Cấp xét xử: Phúc thẩm