Quyết định số 06/2025/QĐGĐT-KDTM ngày 14/05/2025 của TAND cấp cao tại Hà Nội về tranh chấp về xây dựng
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Quyết định số 06/2025/QĐGĐT-KDTM
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Quyết định số 06/2025/QĐGĐT-KDTM
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Quyết định 06/2025/QĐGĐT-KDTM
Tên Quyết định: | Quyết định số 06/2025/QĐGĐT-KDTM ngày 14/05/2025 của TAND cấp cao tại Hà Nội về tranh chấp về xây dựng |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp về xây dựng |
Cấp xét xử: | Giám đốc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND cấp cao tại Hà Nội |
Số hiệu: | 06/2025/QĐGĐT-KDTM |
Loại văn bản: | Quyết định |
Ngày ban hành: | 14/05/2025 |
Lĩnh vực: | Kinh doanh thương mại |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Tranh chấp hợp đồng xây dựng |
Tóm tắt Quyết định
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI HÀ NỘI
Quyết định giám đốc thẩm
Số: 06/2025/KDTM-GĐT
Ngày 14/5/2025
V/v “Tranh chấp hợp đồng xây dựng”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
ỦY BAN THẨM PHÁN
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI
Thành phần Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao gồm có:
Chủ tọa phiên tòa: Ông Chu Thành Quang - Thẩm phán cao cấp;
Các thành viên: Ông Phạm Văn Tuyển - Thẩm phán cao cấp;
Ông Vũ Minh Tuấn - Thẩm phán cao cấp.
Thư ký phiên tòa: Bà Hồ Thị Tuyết – Thẩm tra viên chính.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội tham gia phiên tòa:
Bà Vũ Thị Thúy - Kiểm sát viên cao cấp.
Ngày 14/5/2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội mở phiên tòa
giám đốc thẩm xét xử vụ án kinh doanh thương mại “Tranh chấp hợp đồng xây dựng”
giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Công ty cổ phần BOT Đ; địa chỉ: Phòng 15.03 tòa nhà P số
562 đường N, phường G, quận L, Thành phố Hà Nội.
Người đại diện hợp pháp: ông Đoàn Trọng B (Văn bản ủy quyền số
10.5.2021/UQ-BOT.ĐD ngày 10/5/2021).
2. Bị đơn: Công ty cổ phần L; địa chỉ: Tòa nhà L đường K, phường N, quận
T, Thành phố Hà Nội.
Người đại diện hợp pháp: Ông Cao Xuân Th (Văn bản ủy quyền số
458/2021/L-TGĐ-GUQ ngày 20/10/2021).
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Công ty TNHH Xây dựng và Vận
tải H; địa chỉ: Lô X, phường A, quận D, thành phố Hải Phòng;
Người đại diện theo pháp luật: ông Phạm Văn H - Tổng giám đốc.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Ngày 05/02/2013, Công ty cổ phần BOT Đ (viết tắt là BOT Đ) và Liên danh
Công ty CP L (viết tắt là L) - Công ty TNHH Xây dựng và Vận tải H ký Hợp đồng
thi công xây lắp số 0201/2013/HĐXL (viết tắt là Hợp đồng số 0201) và các Phụ
2
lục hợp đồng kèm theo về việc thi công gói thầu số 2: Dự án cải tạo, nâng cấp
Quốc lộ 18 đoạn thành phố Uông Bí- thành phố Hạ Long theo hình thức BOT, nội
dung thể hiện: giá trị hợp đồng là 79.036.072.000đ, sau đó điều chỉnh theo các
phụ lục hợp đồng là 64.784.655.439đ. Ngày 12/12/2016, Bộ Giao thông vận tải
phê duyệt quyết toán gói thầu với tổng trị giá 64.590.360.691đ.
Tính đến ngày 24/3/2015, BOT Đ đã thanh toán trực tiếp cho L tổng số tiền
58.669.662.017đ (thanh toán 16 lần), còn nợ L số tiền 5.920.698.674đ.
Nguyên đơn là BOT Đ do người đại diện hợp pháp trình bày:
Trong thời hạn 2 năm bảo hành công trình, đoạn Quốc lộ 18 qua thành phố
Uông Bí – thành phố Hạ Long do L thi công xuất hiện các hư hỏng, lún, nứt, hằn
lún vệt bánh xe (có các Biên bản hiện trường ngày 19/5/2016, ngày 26/10/2016,
ngày 15/12/2016).
BOT Đ đã có thông báo đến L về những hư hỏng này nhưng L đưa lý do
không huy động được máy móc thiết bị nhân công để sửa chữa và đồng ý để BOT
Đ tiếp tục thuê nhà thầu khác (đơn vị thứ 3) vào thực hiện công tác sửa chữa toàn
bộ khối lượng kết cấu công trình bị hư hỏng về kết cấu bền, móng, mặt đường nêu
trên (theo Biên bản làm việc ngày 09/5/2016, Công văn số 471/CV-L ngày
22/9/2016).
Để đảm bảo việc vận hành công trình được diễn ra thuận lợi, an toàn cho
người sử dụng, BOT Đ đã ký Hợp đồng thi công sửa chữa một phần khối lượng
bảo hành với bên thứ 3 là Xí nghiệp tư doanh vận tải H1 và Công ty TNHH Xây
dựng và vận tải H, Công ty CP xây dựng vận tải biển G, Công ty CP Dịch vụ
thương mại và xây dựng L1, Công ty CP Đầu tư và xây dựng X để thực hiện nghĩa
vụ bảo hành của L mà đến nay L không thực hiện được. Tổng giá trị phải trả cho
bên thứ 3 là 10.749.123.368đ, trong đó:
(1) Giá trị đã thuê đơn bên thứ ba thực hiện là: 9.522.969.373đ (Xí nghiệp
tư doanh vận tải H1 thực hiện là: 8.520.788.822đ; Công tyTNHH Xây dựng và
Vận tải H thực hiện là 425.009.614đ; Công ty cổ phần Xây dựng Vận tải biển G
thực hiện 327.156.387đ ; Công ty cổ phần DVTM sản xuất và xây dựng L1 thực
hiện là 181.563.944đ; Công ty cổ phần đầu tư và xây dựng X thực hiện là
68.450.606đ).
(2) Giá trị chưa thuê bên thứ ba khắc phục sửa chữa là 1.226.153.995đ
(Khối lượng chưa sửa chữa này nằm trong Biên bản hiện trường ngày 15/12/2016
được L xác nhận và vẫn có trách nhiệm bảo hành theo nội dung Biên bản làm việc
ngày 09/5/2016).
Mặc dù BOT Đ đã nhiều lần làm việc với L để kết thúc bảo hành hợp đồng
và xác nhận các chi phí sửa chữa vượt mức mà BOT Đ phải chi trả cho bên thứ 3
trước đó nhưng L vẫn chưa hoàn trả số tiền còn thiếu là (10.749.123.368đ -
5.920.698.674đ) = 4.828.424.694đ, làm ảnh hưởng đến việc thanh lý và thanh
toán các hợp đồng đã ký khác. Công ty BOT Đ khởi kiện đề nghị Tòa án buộc
Công ty L phải: Thanh lý hợp đồng thi công xây lắp số 0201/2013/HĐXL; hoàn
tất biên bản xác nhận kết thúc bảo hành; Xuất các hóa đơn giá trị gia tăng còn
3
thiếu cho BOT Đ; Hoàn trả cho BOT Đ số tiền 4.828.514.694đ mà BOT Đ đã
thanh toán cho bên thứ 3 để thực hiện nghĩa vụ bảo hành; Bồi thường thiệt hại
theo quy định của pháp luật.
Bị đơn là L do người đại diện hợp pháp trình bày:
Thực hiện hợp đồng, với tư cách là thành viên liên danh nhà thầu, L đã hoàn
thành khối lượng với giá trị quyết toán (được Bộ GTVT phê duyệt) là
64.590.360.691đ, BOT Đ đã tạm ứng và thanh toán được 58.669.662.017đ, số tiền
BOT Đ còn phải thanh toán cho L là 5.920.698.674đ.
Ngày 01/2/2016, L đã xuất hóa đơn cho BOT Đ đối với giá trị quyết toán gói
thầu và đã có nhiều văn bản yêu cầu thanh toán nhưng BOT Đ vẫn chưa thanh
toán số tiền nêu trên.
Ngày 12/4/2013, L và BOT Đ ký Hợp đồng thi công xây dựng số
0104A/2013/HĐXL (viết tắt là Hợp đồng 0104A) về việc thi công gói thầu số
01A: nút giao Uông Bí – Km77+262.60 Dự án cải tạo, nâng cấp Quốc lộ 18 đoạn
TP Uông Bí - TP Hạ Long theo hình thức BOT. L đã hoàn thành khối lượng với
giá trị quyết toán (được Bộ GTVT phê duyệt) là 18.695.466.286đ, BOT Đ đã tạm
ứng và thanh toán được tổng số tiền 9.554.271.400đ, BOT Đ còn phải thanh toán
cho L số tiền 9.141.194.886đ. Ngày 31/12/2015, L đã xuất đủ hóa đơn cho BOT
Đ đối với giá trị quyết toán gói thầu.Công trình hoàn thành và được bàn giao cho
BOT Đ đưa vào sử dụng từ ngày 31/5/2014, sau đó có tình trạng hằn vệt bánh xe
xuất hiện tại một số nơi của công trình.
Tại Biên bản làm việc ngày 31/7/2014 giữa BOT Đ (ông Nguyễn Hữu Th -
Phó giám đốc đại diện) và các nhà thầu trong đó có L, BOT Đ tuyên bố nhà thầu
sẽ không phải sẽ không phải chịu trách nhiệm nếu “trong quá trình thi công nhà
thầu H1, nhà thầu H thực hiện theo đúng thiết kế thành phần cấp phối bê tông
nhựa nóng do phòng thí nghiệm trọng điểm - Trường ĐH G lập và được tư vấn
giám sát C kiểm tra”.
Gần thời điểm kết thúc bảo hành (hết thời hạn bảo hành vào ngày 31/5/2016),
theo yêu cầu của BOT Đ, ngày 19/5/2016 L đã cử cán bộ tham gia kiểm tra hiện
trường đã xác nhận các khối lượng hư hỏng mặt đường.
Ngày 22/9/2016, L đã gửi văn bản cho BOT Đ đồng ý chịu chi phí sửa chữa
cho các Hạng mục hư hỏng chưa sửa chữa theo Biên bản kiểm tra hiện trường
ngày 19/5/2016. Cần lưu ý là trước ngày 19/5/2016, BOT Đ cũng đã thuê bên thứ
3 thực hiện một số khối lượng sửa chữa nhưng L không đồng ý chịu chi phí với
lý do theo tinh thần thỏa thuận ngày 31/7/2014 thì L không phải chịu các chi phí
này.
Ngày 25/9/2017, BOT Đ ký Thỏa thuận với các nhà thầu về việc Chủ đầu tư
hỗ trợ Nhà thầu giải quyết khắc phục phần hư hỏng bê tông nhựa hạt mịn do vệt
hằn bánh xe xảy ra trước thời điểm 31/12/2014 tại Dự án Cải tạo, Nâng cấp Quốc
lộ 18 đoạn T.p Uông Bí - T.p Hạ Long theo hình thức BOT.
L không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và có đơn phản tố đề
nghị Tòa án buộc BOT Đ phải trả cho L các khoản tiền sau:
4
(1) Số tiền còn nợ theo Hợp đồng thi công xây dựng số 0104A/2013/HĐXL
ngày 12/4/2013 là 8.993.868.936đ, gồm: Nợ gốc 9.141.194.886đ (=
18.695.466.286đ - 9.554.271.400đ); Lãi chậm trả tạm tính từ ngày 02/2/2016 đến
02/6/2018: 1.854.573.366đ; trừ giá trị thanh toán ngày 22/7/2017 là
700.000.000đ; trừ giá trị bảo hành tạm tính 1.301.899.317đ.
(2) Số tiền còn nợ theo Hợp đồng thi công xây dựng số 0201/2013/HĐXL
ngày 05/2/2013 là 4.384.295.798đ, gồm: Nợ gốc 5.920.698.674đ (=
64.590.360.691đ - 58.669.662.017đ); Lãi chậm trả tạm tính từ ngày 02/2/2016
đến ngày 01/6/2018: 627.942.149đ; trừ giá trị bảo hành tạm tính 2.164.345.029đ.
Tổng số tiền yêu cầu BOT Đ phải trả L tạm tính đến 02/6/2018 là
13.378.164.730đ.
Tại Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 22/2021/KDTM-ST ngày 25 +
26/11/2019, Tòa án nhân dân quận Thanh Xuân, Thành phố Hà Nội quyết định:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của BOT Đ đối với L.
1.1. Buộc L phải thanh toán cho BOT Đ số tiền đã thanh toán cho bên thứ 3
để thực hiện nghĩa vụ bảo hành là 10.749.123.368đ theo Hợp đồng thi công xây
dựng số 0201/2013/HĐXL ngày 05/2/2013 ký giữa BOT Đ và L.
1.2. Thanh lý Hợp đồng thi công xây dựng số 0201/2013/HĐXL ngày
05/2/2013.
1.3. Hoàn tất biên bản xác nhận kết thúc bảo hành.
1.4. Xuất các hóa đơn giá trị gia tăng còn thiếu cho BOT Đ.
2. Không chấp nhận yêu cầu tính lãi tiền lãi 3.999.957.233đ của số tiền BOT
Đ đã trả cho nhà thầu thứ 3.
3. Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của L, cụ thể:
- Buộc BOT Đ phải thanh toán số tiền theo Hợp đồng số 0201/2013/HĐXL
ngày 05/2/2013 cho L là 5.920.698.674đ.
- Buộc BOT Đ phải thanh toán số tiền theo Hợp đồng số
0104A/2013/HĐXL ngày 12/4/2013 cho L là 7.121.436.876đ.
Tổng số tiền BOT Đ phải thanh toán cho L là 13.042.135.550đ.
4. Không chấp nhận tiền lãi chậm trả của số tiền chưa thanh toán theo 02 hợp
đồng từ ngày 02/2/2016 đến ngày 25/11/2019 là 2.475.079.342đ.
Đối trừ nghĩa vụ thanh toán 13.042.135.550đ - 10.749.123.368đ =
2.293.012.182đ. Như vậy, BOT Đ phải có nghĩa vụ thanh toán cho L số tiền
2.293.012.182đ.
Các bên phải có nghĩa vụ hoàn tất các thủ tục liên quan để thanh quyết toán
hợp đồng số 0104A/2013/HĐXL ngày 12/4/2013, Hợp đồng số 0201/2013/HĐXL
ngày 05/2/2013.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định án phí, nghĩa vụ thi hành án,
quyền kháng cáo của các đương sự.
5
Sau khi xét xử sơ thẩm, BOT Đ và L có đơn kháng cáo bản án sơ thẩm.
Tại Bản án Kinh doanh thương mại phúc thẩm số 171/2021/KDTM-PT ngày
27/10/2021, Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội quyết định:
Không chấp nhận kháng cáo của BOT Đ, chấp nhận một phần kháng cáo của
L; sửa Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 22/2019/KDTM-ST ngày 25 +
26/11/2019 của Tòa án nhân dân quận Thanh Xuân, Thành phố Hà Nội:
1. Buộc L phải thanh toán cho BOT Đ số tiền đã thanh toán cho bên thứ 3 để
thực hiện nghĩa vụ bảo hành là 10.749.123.368đ theo Hợp đồng thi công xây dựng
số 0201/2013/HĐXL ngày 05/2/2013 ký giữa BOT Đ và L.
2. Thanh lý Hợp đồng thi công xây lắp số 0201/2013/HĐXL ngày 05/2/2013.
3. Hoàn tất biên bản xác nhận kết thúc bảo hành.
4. Xuất các hóa đơn giá trị gia tăng còn thiếu cho BOT Đ.
5. Buộc BOT Đ phải thanh toán số tiền theo Hợp đồng số 0201/2013/HĐXL
ngày 05/2/2013 cho L là 5.920.698.674đ ; Buộc BOT Đ phải thanh toán số tiền
theo hợp đồng số 0104A/2013/HĐXL ngày 12/4/2013 cho L là 7.121.436.876đ;
Buộc BOT Đ phải thanh toán số tiền lãi chậm thanh toán của gói thầu số 1A theo
Hợp đồng số 0104A/2013/HĐXL ngày 12/4/2013 tính đến ngày xét xử sơ thẩm
(26/11/2019) là 2.143.395.209đ.
6. Đối trừ nghĩa vụ thanh toán: BOT Đ phải có nghĩa vụ thanh toán cho L số
tiền 4.436.707.391đ.
Các bên phải có nghĩa vụ hoàn tất các thủ tục liên quan để thanh quyết toán
hợp đồng số 0104A/2013/HĐXL ngày 12/4/2013, Hợp đồng số 0201/2013/HĐXL
ngày 05/2/2013.
Tòa án cấp phúc thẩm còn quyết định án phí, nghĩa vụ thi hành án.
Ngày 21/3/2022, Công ty cổ phần L có đơn khiếu nại theo thủ tục giám đốc
thẩm đối với bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm nêu trên, lý do: Tòa án
cấp phúc thẩm cho rằng bị đơn đã xác nhận hư hỏng thể hiện tại các biên bản hiện
trường ngày 19/5/2016, 26/10/2016, 15/12/2016 của gói thầu số 02 và 01A để
buộc bị đơn phải trả cho BOT Đ số tiền đã thanh toán cho bên thứ 3 để thực hiện
nghĩa vụ bảo hành là 10.749.123.368đ; công trình đã được nghiệm thu và sử dụng
từ ngày 31/5/2014 nhưng Tòa án áp dụng Luật Xây dựng năm 2014 là không
đúng; Biên bản làm việc ngày 30/6/2014 và Biên bản làm việc ngày 31/7/2014 do
bị đơn xuất trình đều là bản phô tô nhưng Tòa án chỉ chấp nhận Biên bản làm việc
ngày 30/6/2014 và không chấp nhận Biên bản làm việc ngày 31/7/2014 là không
đúng.
Tại Quyết định kháng nghị số 05/2024/KN-KDTM ngày 24/10/2024, Chánh
án Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội kháng nghị đối với Bản án kinh doanh,
thương mại phúc thẩm số 171/2021/KDTM-PT ngày 27/10/2021 của Tòa án
nhân dân thành phố Hà Nội; đề nghị Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao
tại Hà Nội xét xử giám đốc thẩm hủy Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm
số 171/2021/KDTM-PT ngày 27/10/2021 của Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội
6
và Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 22/2019/KDTM-ST ngày
25+26/11/2019 của Tòa án nhân dân quận Thanh Xuân, Thành phố Hà Nội; giao
hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân quận Thanh Xuân, Thành phố Hà Nội giải quyết
sơ thẩm lại theo quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà
Nội đề nghị Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội chấp nhận
kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Ngày 05/02/2013, Công ty cổ phần BOT Đ (viết tắt là BOT Đ) và Liên
danh Công ty cổ phần L (viết tắt là L) – Công ty TNHH Xây dựng và Vận tải H
(viết tắt là Công ty H) ký Hợp đồng thi công xây lắp số 0201/2013/HĐXL (viết
tắt là Hợp đồng số 0201) và các Phụ lục hợp đồng kèm theo về việc thi công gói
thầu số 2: Dự án cải tạo, nâng cấp Quốc lộ 18 đoạn thành phố Uông Bí - thành
phố Hạ Long theo hình thức BOT. Ngày 31/5/2014 công trình được nghiệm thu
và đưa vào sử dụng.
[2] BOT Đ cho rằng, trong thời hạn 02 năm bảo hành công trình, đoạn Quốc
lộ 18 qua thành phố Uông Bí - thành phố Hạ Long do L thi công xuất hiện các hư
hỏng, lún, nứt, hằn lún vệt bánh xe, BOT Đ đã thông báo cho L về những hư hỏng
này và yêu cầu sửa chữa nhưng L đưa lý do không huy động được máy móc, thiết
bị nhân công để sửa chữa và đồng ý để BOT Đ thuê nhà thầu thứ 3 vào thực hiện
công việc sửa chữa. Căn cứ Công văn số 471/CV-L ngày 22/9/2016, BOT Đ đã
thuê bên thứ 3 khắc phục sửa chữa bảo hành của Gói thầu xây lắp số 02 (đoạn
tuyến từ Km82+00-Km85+00), tổng giá trị sửa chữa bảo hành là 10.749.123.368đ
nên BOT Đ khởi kiện đề nghị Tòa án buộc L phải trả BOT Đ chi phí thực hiện
nghĩa vụ bảo hành đã chi trả cho bên thứ 3 là 10.749.123.368đ, đối trừ số tiền
BOT Đ chưa thanh toán cho L là 5.920.698.674đ, L còn phải thanh toán cho BOT
Đ số tiền 4.828.424.694đ.
[3] L cho rằng trước ngày 19/5/2016, BOT Đ đã thuê bên thứ 3 thực hiện
một số khối lượng sửa chữa nên L không phải chịu các chi phí sửa chữa theo Biên
bản thỏa thuận ngày 31/7/2014 giữa BOT Đ và các nhà thầu thi công (trong đó
có L). Vì vậy, L không đồng ý yêu cầu khởi kiện của BOT Đ và có đơn phản tố
đề nghị Tòa án buộc BOT Đ phải trả tổng số tiền còn nợ tạm tính đến ngày
02/6/2018 là 13.378.164.730đ theo các Hợp đồng thi công xây dựng số
0104A/2013/HĐXL ngày 12/4/2013 và Hợp đồng thi công xây dựng số
0201/2013/HĐXL ngày 05/2/2013.
[4] Xét thấy, tại khoản 18.2 Hợp đồng số 0201 quy định về Bảo hành: “Trong
thời hạn bảo hành công trình Nhà thầu phải sửa chữa mọi sai sót, khiếm khuyết
do lỗi của Nhà thầu gây ra trong quá trình thi công công trình bằng chi phí của
Nhà thầu. Việc sửa chữa các lỗi này phải được bắt đầu trong vòng không quá 5
ngày sau khi nhận được thông báo của Chủ đầu tư về các lỗi này. Nếu quá thời
hạn này mà Nhà thầu không bắt đầu thực hiện công việc sửa chữa thì Chủ đầu tư
có quyền thuê một Nhà thầu khác (bên thứ 3) thực hiện các công việc này và toàn
bộ chi phí cho việc sửa chữa để chi trả cho bên thứ 3 sẽ do nhà thầu chịu và được
7
khấu trừ vào tiền bảo hành của Nhà thầu và thông báo cho Nhà thầu giá trị trên,
Nhà thầu buộc phải chấp thuận giá trị trên.”
[5] Theo lời trình bày của các đương sự, gói thầu số 02 do L thi công có 02
giai đoạn sửa chữa hư hỏng trong thời gian bảo hành gồm giai đoạn sửa chữa thực
hiện trước ngày 31/12/2014 (đã được L thuê Công ty H thực hiện việc sửa chữa)
và giai đoạn sửa chữa sau ngày 31/12/2014. BOT Đ cho rằng trước khi thuê bên
thứ 3 vào thực hiện sửa chữa hư hỏng công trình trong thời gian từ ngày
31/12/2014 đến 19/5/2016, BOT Đ đã nhiều lần có các văn bản thông báo số
174/BOT.ĐD ngày 25/8/2015; số 226/BOT.ĐD ngày 25/12/2015; số
04E/BOT.ĐD ngày 15/01/2016; số 72/BOT.ĐD ngày 02/04/2016 đề nghị L khắc
phục, sửa chữa các hư hỏng công trình theo đúng điều khoản bảo hành đã ký trong
hợp đồng nhưng L đưa lý do không huy động được máy móc, thiết bị nhân công
để sửa chữa và đồng ý để BOT Đ tiếp tục thuê nhà thầu thứ 3 vào thực hiện công
việc sửa chữa theo Biên bản làm việc ngày 09/5/2016, Công văn số 471/CV-L
ngày 22/9/2016. Tuy nhiên, người đại diện hợp pháp của L trình bày không nhận
được các thông báo của BOT Đ. Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm
chưa thu thập tài liệu chứng cứ là các văn bản nêu trên cũng như các tài liệu chứng
cứ chứng minh L đã nhận được các văn bản này để xác định trách nhiệm của L
trong việc thực hiện bảo hành công trình theo đúng điều khoản về bảo hành đã ký
giữa các bên là thiếu sót trong việc thu thập tài liệu chứng cứ.
[6] Tại Công văn số 471/CV-L ngày 22/9/2016 của L gửi BOT Đ thể hiện
nội dung: L xác nhận các hạng mục công trình trên tuyến bị hư hỏng của gói thầu
số 1A và gói thầu số 02 cần sửa chữa trước khi nghiệm thu hết bảo hành (kèm
theo Biên bản hiện trường ngày 19/5/2016). Do L đã giải thể toàn bộ nhân lực,
máy móc, thiết bị phục vụ thi công sau khi thi công xong gói thầu số 1A và gói
thầu số 2, kết hợp với tình hình tài chính đang rất khó khăn (BOT Đ chưa chuyển
trả hết số tiền đã quyết toán với nhà thầu); đề nghị Chủ đầu tư trực tiếp liên hệ
với đơn vị thứ 3 để sửa chữa các hư hỏng của gói thầu số 1A và gói thầu số 2,
mọi chi phí được tính vào tiền bảo hành công trình của nhà thầu. Nội dung công
văn nêu trên thể hiện L chấp nhận thanh toán sửa chữa cho bên thứ 3 từ sau ngày
xác định hư hỏng (ngày 19/5/2016); không thể hiện L đồng ý thanh toán cho bên
thứ 3 các chi phí sửa chữa hư hỏng trước ngày ký biên bản hiện trường 19/5/2016.
Tuy nhiên, trước khi BOT Đ và L lập Biên bản hiện trường ngày 19/5/2016 để
xác nhận các hư hỏng cần sửa chữa thì BOT Đ đã ký các hợp đồng với bên thứ 3
là Xí nghiệp Tư doanh vận tải H1 (theo Hợp đồng thi công xây dựng số
0107/2015/HĐXD ngày 01/7/2015 sửa chữa mặt đường bê tông nhựa), Công ty
H (theo Hợp đồng thi công xây dựng số 1212/2015/HĐXD ngày 15/12/2015 sửa
chữa mặt đường bê tông nhựa), Công ty cổ phần xây dựng vận tải biển G (theo
Hợp đồng thi công xây dựng số 1312/2015/HĐXD ngày 25/12/2015 về vạch tín
hiệu giao thông trên mặt đường) để sửa chữa, khắc phục phần hư hỏng mà BOT
Đ cho rằng do L thực hiện. Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm căn cứ
vào các Biên bản hiện trường ngày 19/5/2016, ngày 26/10/2016, ngày
15/12/2016, Công văn số 471/CV-L ngày 22/9/2016 của L và Biên bản xác nhận
ngày 28/7/2017 giữa BOT Đ và các nhà thầu thứ 3 để buộc L phải trả số tiền sửa
8
chữa bảo hành là 10.749.123.368đ là chưa đủ cơ sở.
[7] Theo Hợp đồng thi công xây dựng số 0107/2015/HĐXD ngày 01/7/2015
giữa BOT Đ và Xí nghiệp Tư doanh vận tải H1 (viết tắt là Xí nghiệp H1) và Phụ
lục số 01 thể hiện Xí nghiệp H1 thực hiện cào bóc toàn bộ lớp bê tông 12cm. Thực
tế, theo Bảng xác định giá trị khối lượng công việc hoàn thành theo hợp đồng đề
nghị quyết toán số tiền 8.520.788.822đ thể hiện Xí nghiệp H1 thực hiện cào bóc
lớp mặt đường bê tông Asphalt dày 3-7cm (dưới 5cm là chưa bóc hết lớp bê tông
mịn) và cào bóc lớp mặt đường bê tông Asphalt dày 12cm. Như vậy có các vị trí
hỏng khác nhau (hỏng bê tông mịn 5cm và hỏng phần bê tông tầng trung 7cm).
Tuy nhiên, hồ sơ vụ án không thể hiện có biên bản hiện trường giữa Chủ đầu tư
và nhà thầu xác định hư hỏng như thế nào; Biên bản hiện trường ngày 19/5/2016
được lập sau khi đã sửa chữa năm 2015 và không thể hiện khối lượng đã sửa năm
2014 có tiếp tục bị hỏng không? hỏng bao nhiêu? sau khi sửa năm 2015 tiếp tục
hỏng bao nhiêu? hỏng như thế nào? hằn lún 5cm ở lớp bê tông mịn phía trên hay
cả lớp bê tông dưới dày 7cm? Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm chưa
làm rõ các nội dung trên nhưng đã chấp nhận yêu cầu khởi kiện của BOT Đ cũng
là chưa đủ cơ sở.
[8] Do đó, kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội là
có căn cứ; cần phải hủy Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số
171/2021/KDTM-PT ngày 27/10/2021 của Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội
và Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 22/2019/KDTM-ST ngày
25+26/11/2019 của Tòa án nhân dân quận Thanh Xuân, Thành phố Hà Nội để giải
quyết sơ thẩm lại theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 337; Điều 342; khoản 3 Điều 343, Điều 345
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
1. Chấp nhận Quyết định kháng nghị số 05/2024/KN-KDTM ngày
24/10/2024 của Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội.
2. Hủy Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số số 171/2021/KDTM-
PT ngày 27/10/2021 của Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội và Bản án kinh
doanh, thương mại sơ thẩm số 22/2019/KDTM-ST ngày 25+26/11/2019 của Tòa
án nhân dân quận Thanh Xuân, Thành phố Hà Nội trong vụ án “Tranh chấp hợp
đồng xây dựng ” giữa nguyên đơn là Công ty cổ phần BOT Đ với bị đơn là Công
ty cổ phần L.
3. Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân quận Thanh Xuân, Thành phố Hà
Nội giải quyết sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.
4. Quyết định giám đốc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày Hội đồng xét
xử giám đốc thẩm ra quyết định.
9
Nơi nhận:
- Chánh án TANDCC tại Hà Nội;
- VKSNDCC tại Hà Nội;
- TAND thành phố Hà Nội;
- TAND quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội;
- Cục THADS thành phố Hà Nội;
- Chi cục THADS quận Thanh Xuân, tp Hà Nội;
- Các đương sự (theo địa chỉ);
- Lưu P.GĐKT2, P.HCTP-VP, P.VTLT; HSGĐT.
TM. UỶ BAN THẨM PHÁN
PHÓ CHÁNH ÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TOÀ
(đã ký)
Chu Thành Quang
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 18/04/2025
Cấp xét xử: Giám đốc thẩm
2
Ban hành: 20/03/2025
Cấp xét xử: Giám đốc thẩm
3
Ban hành: 06/03/2025
Cấp xét xử: Giám đốc thẩm
4
Ban hành: 25/02/2025
Cấp xét xử: Giám đốc thẩm
5
Ban hành: 13/02/2025
Cấp xét xử: Giám đốc thẩm
6
Ban hành: 09/01/2025
Cấp xét xử: Giám đốc thẩm
7
Ban hành: 23/12/2024
Cấp xét xử: Giám đốc thẩm
8
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Giám đốc thẩm
9
Ban hành: 11/12/2024
Cấp xét xử: Giám đốc thẩm
10
Ban hành: 28/11/2024
Cấp xét xử: Giám đốc thẩm
11
Ban hành: 23/10/2024
Cấp xét xử: Giám đốc thẩm
12
Ban hành: 07/10/2024
Cấp xét xử: Giám đốc thẩm
13
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Giám đốc thẩm
14
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Giám đốc thẩm
15
Ban hành: 28/09/2024
Cấp xét xử: Giám đốc thẩm
16
Ban hành: 25/09/2024
Cấp xét xử: Giám đốc thẩm
17
Ban hành: 25/09/2024
Cấp xét xử: Giám đốc thẩm
18
Ban hành: 23/09/2024
Cấp xét xử: Giám đốc thẩm
19
Ban hành: 23/09/2024
Cấp xét xử: Giám đốc thẩm