Quyết định số 32/2019/DS-GĐT ngày 04/07/2019 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng về tranh chấp đất đai về đòi đất cho mượn, cho sử dụng nhờ, lấn chiếm
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Quyết định số 32/2019/DS-GĐT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Quyết định 32/2019/DS-GĐT
Tên Quyết định: | Quyết định số 32/2019/DS-GĐT ngày 04/07/2019 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng về tranh chấp đất đai về đòi đất cho mượn, cho sử dụng nhờ, lấn chiếm |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp đất đai về đòi đất cho mượn, cho sử dụng nhờ, lấn chiếm... |
Cấp xét xử: | Giám đốc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND cấp cao tại Đà Nẵng |
Số hiệu: | 32/2019/DS-GĐT |
Loại văn bản: | Quyết định |
Ngày ban hành: | 04/07/2019 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | 1- Không chấp nhận Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 19/QĐKNGĐT-VKS-DS ngày 19/02/2019 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng; giữ nguyên Bản án dân sự phúc thẩm số 67/2018/DS-PT ngày 20/8/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi về “Tranh chấp đòi lại quyền sử dụng đất, tài sản trên đất và yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”, giữa nguyên đơn là bà Đỗ Thị S vi bị đơn là ông Phạm Tr , bà Trương Thị G . |
Tóm tắt Quyết định
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
1
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
ỦY BAN THẨM PHÁN
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG
Thành phần Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Ông Trần Minh Tuấn;
Các thẩm phán: Ông Đặng Kim Nhân và ông Nguyễn Thanh Long
Thư ký phiên tòa: Bà Bùi Thị Hồng Phượng - Thư ký Tòa án.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng tham gia phiên
tòa: Ông Trần Thanh Tuấn - Kiểm sát viên.
Ngày 04-7-2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng, mở phiên
tòa giám đốc thẩm xét xử vụ án dân sự “Tranh chấp đòi lại quyền sử dụng đất,
tài sản trên đất và yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”, giữa các
đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Đỗ Thị S , sinh năm 1922; địa chỉ: Thôn VT , xã V ,
huyện T , tỉnh Bình Thuận.
Người đại diện theo ủy quyền của bà S : Ông Vũ Hồng A , sinh năm 1963;
địa chỉ: Số X, ngõ X phố Đ, quận B , Thành phố Hà Nội (Theo văn bản ủy quyền
ngày 9/4/2018).
- Bị đơn: Ông Phạm Tr , sinh năm 1930 và bà Trương Thị G , sinh năm
1935;
Người đại diện theo ủy quyền của ông Tr , bà G : Ông Phạm C , sinh năm
1967; cùng địa chỉ: Xóm K, thôn C, xã T , thành phố Q , tỉnh Quảng Ngãi.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ông Huỳnh Văn X và bà Phạm Thị T ;
Người đại diện theo ủy quyền của ông X , bà T là ông Phạm C .
2. Ông Phạm C và bà Dương Thị V ;
Người đại điện theo ủy quyền của bà Vân là ông Phạm C ,
3. Chị Phạm Thị T1 ;
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI ĐÀ NẴNG
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Quyết định giám đốc thẩm
Số: 32/2019/DS-GĐT
Ngày 04-7-2019
V/v “Tranh chấp đòi lại quyền sử dụng
đất, tài sản trên đất và yêu cầu hủy Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất”
2
4. Chị Phạm Thị G1 ;
5. Anh Phạm Minh A ;
6. Chị Phạm Thị V ;
7. Chị Phạm Thị H ;
8. Anh Lý Hữu X1 ;
9. Cháu Huỳnh Nhật V1 , sinh ngày 04/7/2000;
10. Cháu Huỳnh Nhật Phú Q , sinh ngày 20/3/2008;
Người đại diện theo pháp luật của cháu Huỳnh Nhật V1 và cháu Huỳnh
Nhật Phú Q : Ông Huỳnh Văn X và bà Phạm Thị T .
11. Cháu Lý Hữu Q1 , sinh ngày 04/6/2015;
Người đại diện theo pháp luật của cháu Lý Hữu Q1 : Anh Lý Hữu X1 và
chị Phạm Thị H .
Cùng trú tại: Xóm K, thôn C, xã T , thành phố Q , tỉnh Quảng Ngãi.
12. Ủy ban nhân dân thành phố Q , tỉnh Quảng Ngãi;
Người đại diện theo pháp luật: Ông Phạm Tấn H - Chức vụ: Chủ tịch;
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Trần Thanh H , chức vụ: Trưởng
phòng Tài nguyên và Môi trường thành phố Q .
Địa chỉ: Số S, đường T, thành phố Q , tỉnh Quảng Ngãi.
13. Ông Võ Văn T2;
14. Ông Võ Kh ;
15. Bà Võ Thị Th ;
16. Ông Võ Đ ;
17. Bà Võ Thị L ;
18. Ông Võ S ;
Cùng trú tại: Thôn VT , xã V , huyện T , tỉnh Bình Thuận.
19. Bà Võ Thị Ch ;
20. Ông Võ L ;
21. Bà Võ Thị G2 ;
Cùng trú tại: Thôn M, xã V , huyện T , tỉnh Bình Thuận.
Người đại diện theo ủy quyền của các ông, bà Võ Thị Ch , Võ Kh , Võ L ,
Võ Thị Th , Võ Đ , Võ Thị L , Võ Thị G2 và Võ Văn T2 là: Ông Vũ Hồng A
(Theo văn bản ủy quyền ngày 9/4/2018).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện, các bản trình bày, tại giai đoạn sơ thẩm, người đại
diện theo ủy quyền của nguyên đơn là ông Võ Văn T2 và tại giai đoạn phúc thẩm
là ông Vũ Hồng A trình bày:
Nguyên thửa đất thuộc thửa số 8, tờ bản đồ số 9, có diện tích hơn 3.000m
2
3
tại thôn C , xã T , thành phố Q đang tranh chấp có nguồn gốc là do ông Võ K và
bà Đỗ Thị S , mua của vợ chồng ông Trần Ch , bà Phạm Thị Nh vào năm 1979.
Khi mua, giấy tờ có chữ ký của người bán đất và xác nhận của Ủy ban nhân dân
xã T . Cùng năm 1979 vợ chồng ông K làm nhà ở, đào giếng, trồng dừa và một
số cây dương liễu.
Năm 1981, gia đình ông K đi kinh tế mới ở tỉnh Bình Thuận. Trước khi đi,
vợ chồng ông K gửi thửa đất này cho vợ chồng ông Phạm Tr (là sui gia) nhờ vợ
chồng ông Tr trông coi giúp thửa vườn. Vợ chồng ông K đồng ý cho vợ chồng
ông Tr được quyền làm nhà ở, trồng hoa màu, chăn nuôi và hưởng lợi từ mảnh
đất này. Tất cả những việc này đều thỏa thuận bằng miệng, không lập thành văn
bản. Tuy ở Bình Thuận, hằng năm vợ chồng ông K vẫn thường xuyên về thăm
quê, đến thăm vợ chồng ông Tr , tình cảm sui gia không có gì mâu thuẫn.
Năm 2000, vợ chồng ông K yêu cầu lấy lại thửa đất nhưng vợ chồng ông
Tr không có ý kiến gì. Năm 2006, vợ chồng ông K về quê và yêu cầu vợ chồng
ông Tr trả lại thửa đất, vợ chồng ông K sẽ cho vợ chồng ông Tr 300 m
2
nhưng
vợ chồng ông Tr không đồng ý.
Năm 2007, vợ chồng ông K khởi kiện ông Tr , bà G tại Tòa án nhân dân
huyện S , đã được giải quyết tại Bản án dân sự sơ thẩm số 41/2008/DSST ngày
25/9/2008 của Tòa án nhân dân huyện S và Bản án dân sự phúc thẩm số
27/2009/DSPT ngày 27/4/2009 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi. Ngày
18/5/2011, Tòa án nhân dân tối cao có Quyết định Giám đốc thẩm số
326/2011/GĐT-DS tuyên hủy 02 bản án sơ thẩm, phúc thẩm nêu trên, giao hồ sơ
cho Tòa án nhân dân huyện S xét xử lại. Ngày 12/7/2012, Tòa án nhân dân
huyện S đã đình chỉ giải quyết vụ án vì ông K đã qua đời, chưa có người kế thừa
quyền và nghĩa vụ để tham gia tố tụng được.
Ngày 08/10/2012, bà Đỗ Thị S được sự ủy quyền của các con khởi kiện lại
vụ án tại Tòa án nhân dân huyện S . Do mở rộng địa giới hành chính, nên vụ án
được chuyển cho Tòa án nhân dân thành phố Q giải quyết theo thẩm quyền.
Nay, bà S yêu cầu Tòa án xét xử buộc vợ chồng ông Phạm Tr , bà Trương
Thị G phải trả lại cho bà Đỗ Thị S diện tích đất 3.000m
2
thuộc thửa đất số 8, tờ
bản đồ số 9, toạ lạc tại thôn C , xã T , thành phố Q , tỉnh Quảng Ngãi; yêu cầu
hủy 02 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho ông Phạm Tr và ông
Phạm C .
Trong quá trình giải quyết vụ án, cũng như tại phiên tòa, bên nguyên đơn
rút một phần yêu cầu, không yêu cầu ông Phạm Tr , bà Trương Thị G trả lại tài
sản gồm 01 giếng nước, 10 cây dừa, 200 cây dương liễu.
Tại các bản tự khai các phiên hòa giải và tại phiên tòa, ông Phạm C là
người đại diện theo ủy quyền của bị đơn trình bày:
4
Năm 1981, vì điều kiện kinh tế khó khăn nên vợ chồng ông Võ K , bà Đỗ
Thị S đi kinh tế mới đã bán lại cho cha mẹ ông là ông Phạm Tr , bà Trương Thị
G một mảnh vườn và một số cây dừa, dương liễu với số tiền là 2.000 đồng. Ông
K nhờ con trai là Võ Văn T2 viết “Giấy trao vường” cho cha ông là ông Phạm
Tr . Ông Tr cùng với ông K đến nhà ông Phạm Văn S xóm trưởng xóm Kh , thôn
C , xã T ký xác nhận vào “Giấy trao vường” ngày 10/4/1981. Căn cứ chứng
minh ông K , bà S chuyển nhượng đất là “Giấy trao vường” do con trai ông Võ
K là ông Võ Văn T2 viết và ông K ký tên.
Trong quá trình sử dụng đất, cha mẹ Ông đã khai hoang mở rộng thêm
diện tích về phía biển (phía Đông) nên mảnh vườn rộng hơn so với lúc mua gần
một nửa diện tích. Phần diện tích khai hoang hiện nay cao hơn phần diện tích đất
mua của vợ chồng ông Võ K , bà Đỗ Thị S khoảng 2m.
Năm 1999, ông Tr , bà G cho vợ chồng chị Phạm Thị T làm nhà ở. Năm
2003, cho vợ chồng ông Phạm C , bà Dương Thị V làm nhà ở và làm quán buôn
bán.
Ông Phạm Tr , bà Trương Thị G ở ổn định gần 30 năm. Trong suốt quá
trình sử dụng đất, ông Phạm Tr , bà Trương Thị G đã đăng ký kê khai theo Chỉ
thị 299/TTg, kê khai theo Nghị định 64/CP của Chính phủ và được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất. Hiện nay, toàn bộ diện tích đất trên ông Phạm Tr
, bà Trương Thị G đã cho vợ chồng ông Phạm C , bà Dương Thị V .Vợ chồng
ông Phạm C , bà Dương Thị V đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Trên diện tích đất đang tranh chấp hiện nay có 3 phần, đất mua của vợ
chồng ông Võ K , bà Đỗ Thị S có diện tích 1.462m
2
, đất do ông Phạm Tr , bà
Trương Thị G khai hoang có diện tích 1.325,4m
2
. Hai phần đất này đã được cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thuộc thửa đất số 8, tờ bản đồ số 9, diện tích
2.834m
2
và phần đất thuê của Nhà nước (vợ chồng ông Phạm C , bà Dương Thị
V thuê để mở quán ăn) có diện tích 312,1m
2
tọa lạc tại thôn C , xã T , thành phố
Q , tỉnh Quảng Ngãi.
Việc bà Đỗ Thị S yêu cầu đòi lại đất, tài sản trên đất thì ông Phạm Tr , bà
Trương Thị G không đồng ý vì diện tích 1.462 m
2
đã mua của vợ chồng ông Võ
K , bà Đỗ Thị S , đã sử dụng ổn định, lâu dài và đã được cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất đúng theo quy định pháp luật. Phần đất còn lại do ông Phạm
Tr , bà Trương Thị G tự tạo lập, khai hoang và đất thuê của Nhà nước để kinh
doanh quán ăn là phần đất quản lý hợp pháp của gia đình ông Phạm Tr , bà
Trương Thị G .
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Dương Thị V , ông Huỳnh Văn
X, bà Phạm Thị T , anh Lý Hữu X1 , chị Phạm Thị H trình bày:
Thống nhất với nội dung trình bày của ông Phạm C và yêu cầu Tòa án
5
không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Đỗ Thị S .
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Phạm Thị T1 , chị Phạm Thị
G1 , anh Phạm Minh A , chị Phạm Thị V trình bày:
Đất do ông bà nội là ông Phạm Tr và bà Trương Thị G đã cho cha mẹ của
các anh chị là ông Phạm C và bà Dương Thị V , cha mẹ các anh chị có quyền
quyết định mọi vấn đề, các anh chị không có đóng góp gì nên không có ý kiến,
không có yêu cầu gì.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan các ông, bà Võ Thị Ch , Võ Kh , Võ
L , Võ Thị Th , Võ Đ , Võ Thị L , Võ Thị G2 và Võ Văn T2 trình bày:
Nguồn gốc thửa đất đang tranh chấp là do ông Võ K , bà Đỗ Thị S (là cha
mẹ của các ông, bà) mua của ông Trần Ch , bà Nguyễn Thị Nh vào năm 1979.
Năm 1981 gia đình đi kinh tế mới ở tỉnh Bình Thuận, cha mẹ các ông, bà gửi
thửa đất này cho vợ chồng ông Phạm Tr (là sui gia) nhờ vợ chồng ông Tr trông
coi giúp thửa vườn.
Nay ông Võ K đã chết, bà Đỗ Thị S khởi kiện tại Tòa án, các ông, bà Võ
Thị Ch , Võ Kh , Võ L , Võ Thị Th , Võ Đ , Võ Thị L , Võ Thị G2 và Võ Văn
T2 không có yêu cầu gì từ khối tài sản này và đồng ý giao toàn bộ tài sản trên
cho bà Đỗ Thị S quản lý.
Ông Võ Văn T2 khai Ông không viết giúp “Giấy trao vường” cho cha mẹ
Ông để bán đất cho ông Phạm Tr , “Giấy trao vường” đề ngày 10/4/1981 không
phải chữ ký của Ông. Ông yêu cầu Tòa buộc ông Phạm Tr , bà Trương Thị G trả
lại đất cho cha mẹ ông.
Người có quyền, lợi, nghĩa vụ liên quan ông Võ S trình bày: Nguồn gốc
đất đang tranh chấp là do cha mẹ của Ông là ông Võ K , bà Đỗ Thị S mua của
ông Ký, họ tên đầy đủ của ông Ký thì Ông không nhớ, mua vào năm nào Ông
cũng không nhớ, diện tích khoảng 3 sào (khoảng 1.500m
2
). Sau khi mua, cha mẹ
ông làm nhà tranh, đào giếng nước, trồng cây. Đến năm 1981, Ông đi nghĩa vụ
quân sự, cha mẹ ông có viết giấy chuyển nhượng đất cho cha mẹ vợ ông là ông
Phạm Tr , bà Trương Thị G hay không thì Ông không biết, nhưng khi Ông đi
nghĩa vụ về thì ông nghe cha ông là ông Võ K nói nhà và đất (đất đang tranh
chấp) đã bán cho cha mẹ vợ ông là ông Phạm Tr , bà Trương Thị G . Bán với giá
tiền bao nhiêu thì Ông không biết, nhưng nghe cha ông nói là bán với giá rất thấp
(khoảng 1/2 giá trị thực tế). Theo Ông thì chữ viết trong “Giấy trao vường” ngày
10/4/1981 là chữ của ông Võ K , nét chữ trong giấy trao vường không giống chữ
viết của ông Võ Văn T2. Yêu cầu Tòa án xét xử vắng mặt Ông, Ông không yêu
cầu hay tranh chấp gì đối với tài sản đang tranh chấp,
Tại bản tự khai ngày 12/8/2014, người đại diện theo ủy quyền của Uỷ ban
nhân dân thành phố Q , ông Trần Thanh H trình bày:
6
Hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ ông Phạm Tr , xã T ,
thành phố Q như sau:
Theo hồ sơ bàn giao của Uỷ ban nhân dân huyện S : Trình tự, thủ tục hồ sơ
lập theo đúng quy định tại Thông tư số 346/1998/TT-TCĐC ngày 16/3/1998 của
Tổng cục Địa chính hướng dẫn đăng ký đất đai, lập hồ sơ địa chính và cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất. Tuy nhiên, trong hồ sơ không có các loại giấy tờ
sau: Danh sách được đề nghị cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Biên bản
xét duyệt của phòng địa chính (nay là Phòng Tài nguyên và Môi trường), không
có tờ trình đề nghị của Ủy ban nhân dân cấp huyện. Như vậy, hồ sơ cung cấp
không đầy đủ, do đó không xác định được nguồn gốc sử dụng đất, tính pháp lý
của hồ sơ nên không thể khẳng định việc xét cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất cho ông Phạm Tr vào năm 1998 của Uỷ ban nhân dân huyện S có đảm bảo
đúng trình tự thủ tục không.
+ Về đất: Theo sổ 5B, trang số 183, số thứ tự 372, thuộc thửa đất số 224,
tờ bản đồ số 6, diện tích 2020m
2
, loại đất T do ông Phạm Tr kê khai, đăng ký
năm 1983 theo Chỉ thị 299/TTg của Thủ tương Chính phủ (hồ sơ kê khai Chỉ thị
299/TTg không có nên không xác định được nguồn gốc đất kê khai), đối chiếu
bản đồ đo vẽ năm 1996 thì thuộc thửa đất số 8, tờ bản đồ số 9, diện tích 2834m
2
.
Đối với diện tích đất tăng 814m
2
so với diện tích đăng ký theo Chỉ thị 299/TTg là
do biến động trong quá trình sử dụng đất tự khai hoang, bao chiếm sử dụng ổn
định, không tranh chấp, đến năm 1996 đã đo vẽ bản đồ hiện trạng, xác lập thửa
đất số 8, tờ bản đồ số 9, diện tích 2834m
2
và được Ủy ban nhân dân huyện S cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ ông Phạm Tr vào năm 1998. Theo
quy định tại điểm d khoản 2 Điều 106 Luật Đất đai năm 2013 và khoản 5 Điều 87
Nghị định 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 thì Nhà nước không thu hồi lại giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất đã thực hiện thủ tục chuyển đổi, chuyển nhượng
quyền sử dụng đất.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 40/2017/DS-ST ngày 22/9/2017 của Tòa án
nhân dân thành phố Q , tỉnh Quảng Ngãi, đã quyết định:
Áp dụng các Điều 26, 34, 35, 92, 143, 147, 157, 158, 228, 235, 244, 266,
271 và 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; các Điều 255, 256 của Bộ luật dân
sự năm 2005; Điều 357 của Bộ luật dân sự năm 2015; các Điều 105, 136 và Điều
166 của Luật đất đai năm 2003; Thông tư số 346/1998/TT-TCĐC ngày
16/3/1998; Điều 27 Pháp lệnh về án phí, lệ phí Tòa án năm 2009; Điều 12 Nghị
quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, tuyên xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Đỗ Thị S buộc ông Phạm
Tr , bà Trương Thị G phải trả lại cho bà Đỗ Thị S 731m
2
đất, thuộc một phần
thửa số 8, tờ bản đồ số 9 tại thôn C , xã T , thành phố Q , có giới cận: Đông giáp
7
thửa đất giao cho ông Phạm Tr , bà Trương Thị G có chiều dài 41,20m; Bắc giáp
thửa đất số 173, tờ bản đồ số 10 có chiều dài các đoạn 3,25m; 3,98m và 12,05m;
Tây giáp thửa 174, 175, 177 tờ bản đồ số 10 có chiều dài các đoạn 10,86m;
9,72m; 8,36m; 10,77m và 1,34m; Nam giáp đường đi có chiều dài các đoạn
1,81m; 14,56m (diện tích, giới cận và kích thước các cạnh có sơ đồ bản vẽ kèm
theo, ký hiệu Al).
2. Bà Đỗ Thị S được quyền sở hữu toàn bộ tài sản là cây trên đất được
giao cho bà S , bà S có nghĩa vụ thanh toán lại cho ông Phạm Tr , bà Trương Thị
G 2.630.000đ (hai triệu, sáu trăm ba mươi nghìn đồng).
3. Đình chỉ xét xử yêu cầu của bà Đỗ Thị S đối với yêu cầu ông Phạm Tr ,
bà Trương Thị G phải trả lại 01 giếng nước, 10 cây dừa, 200 cây dương liễu.
4. Ông Phạm Tr , bà Trương Thị G được quyền sử dụng 731m
2
đất, thuộc
một phần thửa số 8, tờ bản đồ số 9, tại thôn C , xã T , thành phố Q có giới cận:
Tây giáp thửa đất giao cho bà Đỗ Thị S có chiều dài 41,20m; Bắc giáp thửa đất
số 173, tờ bản đồ số 10 có chiều dài các đoạn 17,58m và 0,73m; Đông giáp thửa
đất còn lại của thửa đất số 8, tờ bản đồ số 9 có chiều dài 40,90m; Nam giáp
đường đi có chiều dài 17,30m (diện tích, giới cận và kích thước các cạnh có sơ
đồ bản vẽ kèm theo, ký hiệu A2).
5. Hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho hộ ông Phạm Tr đối
với thửa đất số 08, tờ bản đồ sổ 09, xã T , diện tích 2.834m
2
, số vào sổ
02955/QSDĐ/1084/QĐ-UB; giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số phát hành
BA 797334, số vào sổ CH00030 tại thửa đất số 08, tờ bản đồ số 09, xã T , diện
tích 2.834m
2
.
6. Hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho ông Phạm C đối với
thửa đất số 08, tờ bản đồ số 09, xã T , diện tích 2834m
2
, số phát hành BB
401698, số vào sổ H00085.
7. Buộc ông Phạm C , bà Dương Thị V phải tháo gỡ tường rào, móng và
trụ bê tông xây dựng trên phần đất giao cho bà Đỗ Thị S có tổng chiều dài xây
dựng là 76,7 m, chiều cao trung bình 2,3m.
Ngoài ra bản án còn tuyên nghĩa vụ chịu chi phí đo đạc, xem xét thẩm định
tại chỗ, nghĩa vụ chịu án phí và quyền kháng cáo của các đương sự theo qui định
pháp luật.
Ngày 05/10/2017, nguyên đơn bà Đỗ Thị S và người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan ông Võ Văn T2 kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm sửa Bản
án dân sự sơ thẩm.
Ngày 27, 28/9/2017, ngày 04/10/2017 và ngày 08/11/2017 ông Phạm Tr ,
bà Trương Thị G , ông Phạm C và bà Dương Thị V có đơn kháng cáo và đơn
8
kháng cáo bổ sung, kháng cáo toàn bộ nội dung bản án sơ thẩm, đề nghị Tòa án
cấp phúc thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
* Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 67/2018/DS-PT ngày 20/8/2018 của
Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi quyết định:
Căn cứ khoản 2 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự, các Điều 255,256 Bộ
luật dân sự 2005, Điều 357 Bộ luật dân sự năm 2015, Điều 73, 79 Luật Đất đai
năm 1993, Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án năm 2009, Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngay 30/12/2016
Tuyên xử:
1. Chấp nhận một phần nội dung đơn khởi kiện của nguyên đơn, buộc vợ
chồng ông Phạm Tr , vợ chồng ông Phạm C , vợ chồng bà Phạm Thị T trả lại
một phần đất thuộc thửa đất số 08, tờ bản đồ số 09, xã T , thành phố Q cho bà
Đỗ Thị S có các điểm ABCDEF có diện tích 1.077,2m
2
, trừ diện tích của 03 ngôi
mộ 09m
2
, nên diện tích thực nhận là 1.068,2m
2
, trong đó có 760,5m
2
đất ở và
307,7m
2
đất trồng cây hàng năm khác, gồm các cạnh như sau: Cạnh A-B có độ
dài 07m; Cạnh B-C có độ dài các đoạn 31,55m, 17,37m, 14,66m, 1,81m; Cạnh C-
D có độ dài các đoạn l,34m, 10,77m, 8,36m, 9,72m, 10,86m; Cạnh D-E có độ dài
các đoạn 12,05m, 3,98m, 3,24m; Cạnh E-F có độ dài 33,89m; Cạnh F-A có độ
dài 49,3m. Có sơ đồ giao trả đất kèm theo bản án.
Buộc vợ chồng ông Phạm Tr , vợ chồng ông Phạm C , vợ chồng bà Phạm
Thị T phải đốn chặt cây cối và tháo dỡ vật kiến trúc, phần xây dựng có trên diện
tích đất 1.068,2m
2
trả cho bà Đỗ Thị S . Vợ chồng bà Phạm Thị T phải tháo dỡ
quán tạp hóa trước phần đất (phía Đông) giao cho bà Đỗ Thị S . UBND xã T tạo
điều kiện để phía Đông phần đất giao cho bà Đỗ Thị S được sử dụng thuận tiện
và đúng pháp luật.
2. Vợ chồng ông Phạm Tr , vợ chồng ông Phạm C , vợ chồng bà Phạm Thị
T được quyền sử dụng toàn bộ phần diện tích đất còn lại của thửa đất số 08.
Phần diện tích còn lại sau khi giao trả cho bà Đỗ Thị S là 2.786,5m
2
- 1.068,2m
2
- 09m
2
=1.709,3m
2
.
3. Không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn đòi 316,05m
2
đất và yêu cầu
hủy 02 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ): GCNQSDĐ số vào sổ
CH00030 đối với thửa đất số 08, tờ bản đồ số 09, xã T , diện tích 2.834m
2
do
UBND huyện S cấp cho ông Phạm Tr ngày 04/3/2010 và GCNQSDĐ số vào sổ
H00085 đối với thửa đất số 08, tờ bản đồ số 09, xã T , diện tích 2.834m
2
do
UBND huyện S cấp cho ông Phạm C ngày 18/5/2010.
4. Đình chỉ xét xử yêu cầu của bà Đỗ Thị S đối với yêu cầu vợ chồng ông
Phạm Tr trả lại 01 giếng nước, 10 cây dừa, 200 cây dương liễu.
9
Ngoài ra, Tòa án cấp phúc thẩm còn quyết định về chi phí xem xét thẩm
định tại chỗ, án phí và nghĩa vụ thi hành án.
Tại Quyết định kháng nghị số 19/QĐKNGĐT-VKS-DS ngày 19/02/2019
của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng đề nghị Ủy ban
Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử giám đốc thẩm, hủy toàn
bộ Bản án dân sự phúc thẩm số 67/2018/DS-PT ngày 20/8/2018 của Tòa án nhân
dân tỉnh Quảng Ngãi; giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 40/2017/DS-ST ngày
22/9/2017 của Tòa án nhân dân thành phố Q , tỉnh Quảng Ngãi.
Tại phiên tòa giám đốc thẩm, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại
Đà Nẵng đề nghị Ủy ban thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng chấp
nhận toàn bộ kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà
Nẵng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về nguồn gốc thửa đất tranh chấp số 08, tờ bản đồ số 9 tại thôn C xã T
, huyện S (nay là thành phố Q ), tỉnh Quảng Ngãi: Nguyên đơn vợ chồng ông Võ
K , bà Đỗ Thị S khai mua thửa đất này của vợ chồng ông Trần Ch , bà Phạm Thị
Nh vào năm 1979 và xuất trình chứng cứ là Giấy mua bán đất có chữ ký của
người bán là vợ chồng ông Trần Ch , bà Phạm Thị Nh , người làm chứng ông
Nguyễn Th , được Ủy ban nhân dân xã T xác nhận vào ngày 20/7/1979. Bị đơn
ông Phạm C , bà Trương Thị G khai mua thửa đất này của ông K , bà S năm
1981 với giá 2.000 đồng và xuất trình chứng cứ là “Giấy trao vường” đề ngày
10/4/1981 do ông Võ K nhờ con trai là Võ Văn T2 viết giúp; Tại Kết luận giám
định số 57/C21 (P6) ngày 22/02/2008 của Viện KHKTHS - Tổng cục cảnh sát -
Bộ Công an kết luận chữ ký trong “Giấy trao vường” không phải chữ ký của ông
Võ K ; Ông Võ K không thừa nhận ủy quyền cho con là Võ Văn T2 viết giúp
“Giấy trao vường”, ông Phạm C cũng không có chứng cứ chứng minh ông Võ K
ủy quyền cho con là Võ Văn T2 viết giúp “Giấy trao vường”, vì vậy chứng cứ
này không phải là chứng cứ hợp pháp.
Xét, Giấy mua bán đất ông K , bà S cung cấp có nội dung và hình thức phù
hợp với quy định của pháp luật nên có căn cứ chấp nhận lời khai của ông Võ K ,
bà Đỗ Thị S là thửa đất trên có nguồn gốc do vợ chồng Ông, Bà nhận chuyển
nhượng của ông Trần Ch bà Nguyễn Thị N vào năm 1979, đến năm 1981 vợ
chồng ông Võ K và gia đình đi kinh tế mới tại tỉnh Thuận Hải đã gửi lại cho vợ
chồng ông Phạm Tr , bà Trương Thị G trông coi giùm, việc gửi giữ chỉ nói
miệng không lập giấy tờ vì hai bên là sui gia.
[2] Khi ông K , bà S mua thửa đất của ông Ch , bà Nh , trong giấy mua chỉ
ghi tứ cận của thửa đất, không ghi độ dài các cạnh và không xác định diện tích
10
bao nhiêu. Theo lời khai của ông Võ S (là con của ông K , bà S ) thì vào năm
1979 cha mẹ ông mua diện tích đất khoảng 3 sào (khoảng 1.500m
2
); ông Tr khai
tại thời điểm năm 1981 diện tích đất của ông Võ K chỉ có 1.462 m
2
. Bà Đỗ Thị S
cho rằng năm 1981 gửi vườn cho ông Tr nhưng không chứng minh được diện
tích gửi là bao nhiêu, từ năm 1981 đến thời điểm ông Tr đăng ký kê khai theo
Chỉ thị 299/TTg, bà S cũng không chứng minh được phần đất phía đông của thửa
đất bà gửi cho ông Tr có biến động tăng bao nhiêu. Do đó, căn cứ khoản 2 Điều
92 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 Tòa án hai cấp sơ, phúc thẩm xác định diện
tích đất ông Võ K , bà Đỗ Thị S gửi cho ông Phạm Tr trông coi là 1.462 m
2
là có
cơ sở, nguyên đơn khởi kiện đòi bị đơn phải trả toàn bộ thửa đất số 08 theo đo
đạc thực tế là 2.786,5m
2
là không có căn cứ để chấp nhận.
Theo bản đồ 299/TTg thì thửa đất tranh chấp là thửa 224, tờ bản đồ số 06,
do ông Phạm Tr kê khai, đăng ký diện tích 2.020m
2
; theo bản đồ đo vẽ năm
1996 thửa đất 224 chuyển đổi thành thửa đất số 08, tờ bản đồ số 9, diện tích
2.834m
2
cũng do ông Phạm Tr đăng ký kê khai; theo lời trình bày ngày
10/7/2014 của UBND xã T thì trong quá trình sử dụng đất, gia đình ông Phạm
Tr đã khai hoang, mở rộng về phía Đông nên diện tích của thửa đất đã tăng
thêm. Như vậy, có cơ sở xác định diện tích đất tranh chấp gồm hai phần: Phần
đất vợ chồng ông Võ K , bà Đỗ Thị S gửi cho vợ chồng ông Phạm Tr , bà
Trương Thị G trông coi có diện tích là 1.462m
2
là phần đất phía Tây của thửa đất
số 08, phần diện tích còn lại 1.324,5m
2
phía Đông là phần đất vợ chồng ông
Phạm Tr sử dụng lấn ra biển. Do đó cần buộc vợ chồng ông Phạm Tr và các con
của ông Phạm Tr phải trả lại đất cho bà S như bản án sơ thẩm, phúc thẩm đã
tuyên là đúng pháp luật.
Tuy nhiên Tòa án sơ thẩm chỉ giao ½ thửa vườn (731 m
2
) cho nguyên đơn
và giao ½ thửa vườn còn lại (731 m
2
) cho bị đơn mà không phân định rõ trong
diện tích đất được giao có bao nhiêu diện tích đất ở, bao nhiêu diện tích đất trồng
cây hằng năm và chưa khấu trừ diện tích của 03 (Ba) ngôi mộ nằm trên phần đất
giao cho nguyên đơn là chưa phù hợp. Tòa án phúc thẩm nhận định mặc dù bị
đơn có công trông coi, giữ gìn, cải tạo diện tích đất tranh chấp nhưng đã được
hưởng lợi từ việc khai thác lợi ích của diện tích đất này; hơn nữa theo giấy mua
bán đất thì thửa đất vợ chồng ông Võ K mua của vợ chồng ông Trần Ch , có phía
Đông giáp biển, từ việc được sử dụng phần đất có phía đông giáp biển thì gia
đình ông Tr mới có điều kiện mở rộng đất về phía biển và khai thác kinh doanh
diện tích đất giáp biển từ năm 1981 cho đến nay; đồng thời vì trên phần đất của
ông Võ K , ông Tr , bà G đã xây một ngôi nhà năm 1982, để tránh việc phá bỏ
ngôi nhà này nên Tòa án cấp phúc thẩm đã lấy một phần đất ông Tr khai hoang
để hoán đổi cho bà S , tổng diện tích đất của bà S nhận được sau khi trừ diện tích
11
của ba ngôi mộ là 1.068,2m
2
, trong đó phần đất phía đông giáp biển chỉ có 7m
chiều ngang, trong khi gia đình ông Tr được hưởng phần đất còn lại giáp biển là
34,51m chiều ngang. Việc giao đất như Tòa án phúc thẩm đã là có lợi cho bị đơn.
Do đó, Tòa án cấp phúc thẩm không buộc bà S thanh toán tiền công sức cho vợ
chồng ông Tr là phù hợp.
Đối với phần đất phía đông mà UBND xã T cho thuê theo chủ trương của
Sở Văn hóa thể thao và Du lịch tỉnh Quảng Ngãi và UBND huyện S (nay là
UBND thành phố Q ), xét thấy phần đất này là hành lang thuộc con đường bê
tông chạy dọc biển, Ủy ban nhân dân xã T cho thuê với mục đích để các hộ dân
kinh doanh dịch vụ du lịch không lấn chiếm đất công và có ý thức tự quản, trong
đó có gia đình ông Tr . Các hộ dân và gia đình ông Tr vẫn sử dụng diện tích đất
này làm đường đi ra biển và không bị cản trở gì. Do đó quan điểm của Viện kiểm
sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng cho rằng việc chia đất như Tòa án cấp phúc
thẩm làm phần đất giao cho ông Tr , bà G bị bao bọc không có lối đi là không
chính xác; Đồng thời vì bà S được giao 07m đất chiều ngang giáp biển nên để tạo
điều kiện đi lại và sử dụng thuận tiện cho bà S , Tòa án cấp phúc thẩm buộc vợ
chồng bà Phạm Thị T phải tháo dỡ quán tạp hóa trước phần đất giao cho bà S ,
đề nghị UBND xã T hỗ trợ tháo dỡ là phù hợp.
[3] Xét quyết định hủy hai Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của Tòa
án sơ thẩm thấy rằng: Sau khi ông Phạm Tr làm đơn đăng ký chuyển mục đích
sử dụng đất, ngày 04/3/2010 Ủy ban nhân dân huyện S cấp lại Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số BA 797334 cho hộ ông Phạm Tr diện tích đất được cấp là
2.834m
2
thuộc thửa đất số 08, tờ bản đồ số 09. Ngày 30/3/2010, ông Phạm Tr lập
Hợp đồng tặng cho toàn bộ diện tích đất nói trên cho con trai là ông Phạm C .
Ngày 18/5/2010, ông Phạm C được UBND huyện S cấp Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất số BB 401698 thay thế cho Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp
cho hộ ông Phạm Tr trước đó. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà UBND
huyện S cấp cho ông Phạm C có một phần đất thuộc quyền sử dụng của bà Đỗ
Thị S , nhưng xét thấy việc hủy hai giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là không
cần thiết, các bên đương sự chỉ cần đến cơ quan chức năng để điều chỉnh lại Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất như nhận định của Tòa án cấp phúc thẩm là phù
hợp.
Từ các nhận định trên, xét thấy đơn đề nghị giám đốc thẩm của ông Phạm
Tr , bà Trương Thị G , ông Phạm C , bà Dương Thị V và kháng nghị giám đốc
thẩm của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng là không có
cơ sở để chấp nhận.
Vì các lẽ trên;
12
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 337; khoản 1 Điều 343; Điều 349 của Bộ
luật tố tụng dân sự năm 2015;
1- Không chấp nhận Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số
19/QĐKNGĐT-VKS-DS ngày 19/02/2019 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân
dân cấp cao tại Đà Nẵng; giữ nguyên Bản án dân sự phúc thẩm số 67/2018/DS-PT
ngày 20/8/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi về “Tranh chấp đòi lại
quyền sử dụng đất, tài sản trên đất và yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất”, giữa nguyên đơn là bà Đỗ Thị S vi bị đơn là ông Phạm Tr , bà Trương
Thị G .
Nơi nhận:
- Vụ GĐKT II-Tòa án nhân dân tối cao;
- VKSND cấp cao tại Đà Nẵng;
- Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi;
- Tòa án nhân dân thành phố Q (để biết);
- Chi cục Thi hành án dân sự TP Q, tỉnh Quảng
Ngãi (để thi hành):
- Các đương sự (theo địa chỉ);
- Lưu: Phòng Lưu trữ; Phòng GĐKT về DS-LĐ-
KDTM và hồ sơ vụ án.
TM. ỦY BAN THẨM PHÁN
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa
(Đã ký)
Trần Minh Tuấn
Tải về
Quyết định số 32/2019/DS-GĐT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 27/12/2024
Cấp xét xử: Giám đốc thẩm
2
Ban hành: 16/12/2024
Cấp xét xử: Giám đốc thẩm
3
Ban hành: 11/12/2024
Cấp xét xử: Giám đốc thẩm
4
Ban hành: 10/12/2024
Cấp xét xử: Giám đốc thẩm
5
Ban hành: 02/12/2024
Cấp xét xử: Giám đốc thẩm
6
Ban hành: 19/11/2024
Cấp xét xử: Giám đốc thẩm
7
Ban hành: 14/11/2024
Cấp xét xử: Giám đốc thẩm
8
Ban hành: 06/11/2024
Cấp xét xử: Giám đốc thẩm
9
Ban hành: 31/10/2024
Cấp xét xử: Giám đốc thẩm
10
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Giám đốc thẩm
11
Ban hành: 27/09/2024
Cấp xét xử: Giám đốc thẩm
12
Ban hành: 27/09/2024
Cấp xét xử: Giám đốc thẩm
13
Ban hành: 24/09/2024
Cấp xét xử: Giám đốc thẩm
14
Ban hành: 24/09/2024
Cấp xét xử: Giám đốc thẩm
15
Ban hành: 23/09/2024
Cấp xét xử: Giám đốc thẩm
16
Ban hành: 20/09/2024
Cấp xét xử: Giám đốc thẩm
17
Ban hành: 20/09/2024
Cấp xét xử: Giám đốc thẩm
18
Ban hành: 20/09/2024
Cấp xét xử: Giám đốc thẩm
19
Ban hành: 18/09/2024
Cấp xét xử: Giám đốc thẩm
20
Ban hành: 17/09/2024
Cấp xét xử: Giám đốc thẩm