Quyết định số 86/2024/DS-TT ngày 14/11/2024 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng về tranh chấp đất đai về đòi đất cho mượn, cho sử dụng nhờ, lấn chiếm
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Quyết định số 86/2024/DS-TT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Quyết định số 86/2024/DS-TT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Quyết định 86/2024/DS-TT
Tên Quyết định: | Quyết định số 86/2024/DS-TT ngày 14/11/2024 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng về tranh chấp đất đai về đòi đất cho mượn, cho sử dụng nhờ, lấn chiếm |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp đất đai về đòi đất cho mượn, cho sử dụng nhờ, lấn chiếm... |
Cấp xét xử: | Tái thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND cấp cao tại Đà Nẵng |
Số hiệu: | 86/2024/DS-TT |
Loại văn bản: | Quyết định |
Ngày ban hành: | 14/11/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Tranh chấp đòi lại nhà cho ở nhờ |
Tóm tắt Quyết định
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
1
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TẠI ĐÀ NẴNG Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Quyết định tái thẩm
Số: 86/2024/DS-TT
Ngày 14-11-2024
V/v “Tranh chấp đòi lại nhà cho ở nhờ”
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
ỦY BAN THẨM PHÁN
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG
- Thành phần Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng
tham gia xét xử gồm:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: ông Nguyễn Tấn Long.
Các Thẩm phán: ông Đặng Kim Nhân và ông Trần Quốc Cường.
- Thư ký phiên tòa: bà Nguyễn Thị Thúy Kiều - Thẩm tra viên Toà án nhân
dân cấp cao tại Đà Nẵng.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng tham gia phiên
tòa: ông Trần Viết Tuấn - Kiểm sát viên.
Ngày 14 tháng 11 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng mở
phiên tòa tái thẩm xét xử vụ án dân sự về việc“Tranh chấp đòi lại nhà cho ở nhờ”,
giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: ông Dương Kim T; địa chỉ: B đường T, thành phố P, tỉnh
Gia Lai.
2. Bị đơn: ông Dương Kim T1 và bà Phạm Thị Ly S; địa chỉ: Số D đường H,
thành phố P, tỉnh Gia Lai.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: ông Dương Kim T2 (chết) và bà
Tôn Thị Thanh K; địa chỉ: thôn X, xã I, huyện Đ, tỉnh Gia Lai.
Những người kế thừa quyền lợi, nghĩa vụ tố tụng của ông Dương Kim T2,
gồm các ông, bà: Tôn Thị Thanh K; Dương Chí D; Dương Thị Kim C; Dương
Kim T
NỘI DUNG VỤ ÁN:
1. Nguyên đơn ông Dương Kim T trình bày:
Nhà và đất tại số D đường H, thành phố P, tỉnh Gia Lai có nguồn gốc là của
ông Dương Kim T2, bà Tôn Thị Thanh K mua của ông Bùi L (tên gọi khác là
Dương Tấn C1- Phó Ty thương nghiệp Gia Lai- Kon Tum cũ) vào năm 1979 với
giá 4.000 đồng. Ông Dương Kim T2, bà Tôn Thị Thanh K đã trả đủ tiền và nhận
nhà để ở từ năm 1979 nhưng chưa làm thủ tục sang tên tài sản trên do thất lạc giấy
2
tờ mua bán do ông Bùi Lân L1 năm 1979. Vì vậy, năm 1985, ông T2 có yêu cầu
ông L lập lại giấy tờ mua bán nhưng do ông L đang đi học tại T Đảng Nguyễn Ái
Q, nên đã yêu cầu con trai mình là ông Bùi Dương H viết lại giấy tờ mua bán nhà
cho ông T2, giấy tờ do ông H ký vẫn ghi ngày mua bán cũ là ngày 20-8-1979.
Năm 2003, ông T2, bà K lập hợp đồng bằng giấy viết tay có tiêu đề “Giấy
cho con nhà ở và đất” đề ngày 10-3-2003 để tặng cho anh T toàn bộ nhà và đất
nêu trên. Sau khi nhận tặng cho, anh T chuyển về đây sinh sống. Đến năm 2005,
em ruột ông T2 là ông Dương Kim T1 do làm ăn không thuận lợi, phải bán nhà để
trả nợ, nên ông T2 cho ông T1 mượn tạm căn nhà ở E L để ở và mở quán nhậu,
nhưng cũng không làm ăn được, nên ông T2 cho ông T1 mượn tạm căn nhà 44
Huỳnh Thúc K1 để ở, khi mượn ông T2, ông T1 có hỏi ý kiến của anh T và được
anh T đồng ý vì khi đó anh T mới cưới vợ và được cha mẹ vợ cho căn nhà tại B H
để kinh doanh, nên anh T dọn về đó, với lại thấy hoàn cảnh của chú khó khăn,
không có nhà để ở. Ông T1 đã ở căn nhà trên từ năm 2005 cho đến nay, do ông T1
là chú ruột của anh T nên việc anh T cho ông T1 mượn nhà, đất này chỉ nói miệng
với nhau, chứ không lập thành văn bản.
Năm 2019, anh T đi đăng ký quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở tại Ủy
ban nhân dân thành phố P, thì Ủy ban nhân dân thành phố P tiếp nhận hồ sơ đăng
ký của anh T nhưng cho rằng anh T không xác định được ranh giới thửa đất, nên
Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai thành phố P không có cơ sở đo đạc, xác
định vị trí thửa đất trên bản đồ, vì vậy, họ yêu cầu anh T phải thuê đơn vị đo đạc
để xác định rõ ranh giới, diện tích thửa đất làm căn cứ để cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất. Trước đó, anh T đã nhiều lần yêu cầu ông T1 phải trả lại nhà
đất cho anh T, nhưng thời gian đầu, ông T1 năn nỉ anh T cho ông mượn nhà thêm
một thời gian để ông T1 tìm nơi ở mới. Anh T tin như vậy và lại tiếp tục cho mượn
nhà, đất. Tuy nhiên, sau đó, ông T1 vẫn không tìm nơi ở khác và thực tế, đến nay
đã không trả nhà đất cho anh T. Thậm chí, khi anh T cùng cán bộ địa chính của Ủy
ban phường Y, nhân viên Văn phòng Đ đến đo đạc theo yêu cầu của Ủy ban nhân
dân thành phố P thì ông T1, bà S cho rằng đó tài sản là của họ nên cản trở, gây khó
khăn cho anh T, còn mang dao dọa chém và đuổi đánh những người đo đạc. Vì vậy
đến nay anh T vẫn chưa thực hiện xong thủ tục để được tiếp tục xem xét cấp giấy
chứng nhận theo quy định.
Anh T khẳng định nhà và đất tại 44 Huỳnh Thúc K1 là tài sản của anh T, do
anh nhận tặng cho của cha mẹ, anh T cho ông T1, bà S mượn để ở nhờ nhưng họ
cố tình không trả, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của anh T. Vì vậy, anh
T yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông Dương Kim T1, bà Phạm Thị Ly S phải trả
lại cho anh T nhà và đất tại D H, thành phố P, tỉnh Gia Lai.
2. Bị đơn ông Dương Kim T1 trình bày:
Từ năm 1979, bố mẹ ông là cụ Dương Đ và cụ Trần Thị C2 mua căn nhà số D
H, phường Y của ông Bùi L (ông C1) với giá tiền là 10.000 đồng. Sau đó, bố ông
3
cầm toàn bộ giấy tờ nhà đưa nhờ ai làm thủ tục sang tên quyền sử dụng nhà ở,
nhưng không may đến năm 1981 cụ đột ngột qua đời, nên gia đình không biết cụ
gửi hồ sơ nhà cho ai, nên đã bị mất. Đến năm 1986, cụ Trần Thị C2 bán lại căn
nhà 44 Huỳnh Thúc K1 cho ông và ông sinh sống tại nhà này từ năm 1979 cho đến
nay là đúng sự thật.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Dương Kim T2 và bà Tôn
Thị Thanh K trình bày:
Vào năm 1979, ông bà có mua nhà 44 Huỳnh Thúc K1, Pleiku của ông Bùi
L (tên thường gọi là Dương Tấn C1; hiện nay ông L đã chết) nhà có diện tích
khoảng 96m
2
(6,2m x 15,6m) và đất có diện tích khoảng 440m
2
(9,5m x 46,5) với
giá 4.000 đồng. Sau khi thỏa thuận mua bán, ông bà đã giao đủ tiền cho ông Bùi L
và anh Bùi Dương H (anh H là con trai của ông Bùi L) và ông L viết giấy bán nhà
đất cho ông bà, vì tại thời điểm này, căn nhà và thửa đất chưa có giấy tờ sở hữu, sử
dụng; đồng thời lúc giao tiền mua nhà có ông Vũ Văn T3; trú tại 1 L, phường H, P
(hiện nay ông T3 đã chết) chứng kiến và ông T3 cũng là người giới thiệu vợ chồng
tôi mua nhà. Tuy vậy, sau đó vợ chồng tôi đã làm thất lạc giấy tờ mua bán này.
Đến năm 1985 vợ chồng tôi có yêu cầu ông Bùi L xác nhận lại giấy tờ mua bán,
thế nhưng tại thời điểm đó ông Bùi L đang đi học tại Hà Nội cho nên sau khi thỏa
thuận, bàn bạc thì chúng tôi thống nhất để ông Bùi Dương H (con trai ông Bùi L;
hiện nay ông Bùi Dương H đang trú tại C đường L, P) viết giấy xác nhận về việc
mua bán căn nhà và thửa đất tại D H, P; giấy tờ do ông H ký vẫn ghi là ngày mua
bán cũ là ngày 20-8-1979.
Đến ngày 20-8-1987, ông T2 đến Ủy ban nhân dân phường Y, P kê khai nhà
và đất để làm giấy tờ sở hữu, sử dụng đối với nhà đất này, tuy vậy, tại thời điểm đó
ông đang công tác tại Công ty C3 hạ nên không có thời gian để hoàn tất thủ tục
giấy tờ.
Đến năm 2003, ông bà nhận thấy việc làm giấy tờ khó khăn cho nên vợ
chồng tôi thống nhất bàn bạc cho con trai tôi là Dương Kim T.
Đến năm 2005, con trai tôi là Dương Kim T đã đồng ý cho ông Dương Kim
T1 đến ở nhờ. Đến năm 2019, cháu Dương Kim T tiếp tục đi hoàn tất thủ tục giấy
tờ nhà đất, nhưng khi địa chính xuống đo vẽ để làm thủ tục cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất thì ông Dương Kim T1 đánh, đuổi cán bộ đo vẽ.
Hiện nay, cháu Dương Kim T khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết việc đòi
nhà cho ở nhờ thì vợ chồng tôi không có tranh chấp hoặc ý kiến yêu cầu gì trong
vụ án.
4. Những người làm chứng trình bày:
4.1. Ông Bùi Dương H trình bày: Ông và cha ông là Bùi L (tên gọi khác
Dương Tấn C1, sinh năm 1919, đã chết) có mua nhà và đất tại số D đường H, P
vào năm 1978 của ông Thái Cẩm T4 (đã chết). Đến năm 1979 cha con ông bán lại
nhà, đất đó cho ông Dương Kim T2 với giá 4.000đồng (bốn nghìn đồng) và ông
4
Dương Kim T2 đã giao đủ tiền; cha con ông đã viết giấy bán nhà cho ông Dương
Kim T2. Khi giao tiền mua nhà có ông Vũ Văn T3; trú tại 1 L, phường H, P (hiện
nay ông T3 đã chết) chứng kiên. Mặc dù vậy, nhưng ông Dương Kim T2 chưa làm
được quyền sở hữu, sử dụng đối với nhà đất này mà để làm thất lạc giấy bán nhà
do cha ông viết. Đến năm 1985, ông Dương Kim T2 đến nhờ cha ông viết lại giấy
bán nhà đất nói trên, nhưng lúc đó cha ông đang đi học trung cấp trường Nguyễn
Ái Q (S) nên ông đã viết lại giấy bán nhà cho ông Dương Kim T2 và xác nhận, lúc
đó xác nhận ông ghi là ngày mua bán cũ là ngày 20-8-1979.
Nay tôi được biết nhà, đất nói trên ông Dương Kim T2 và bà Tôn Thị Thanh
K đã cho con trai là Dương Kim T và cháu T đang khởi kiện việc đòi nhà cho ở
nhờ. Tôi từ chối tham gia tố tụng trong vụ án này vì tôi đã có tuổi, sức khỏe yếu, đi
lại khó khăn nên tôi yêu cầu Tòa án cho tôi xin vắng mặt trong những lần giải
quyết xét xử về sau.
4.2. Ông Dương Kim H1, ông Dương Kim S1: ông Dương Kim T1 là em
ruột và chị Phạm Thị Ly S là em dâu của họ. Cụ Trần Thị C2 là mẹ của họ và ông
T1, ông T2; cụ C2 bán đất cho em T1 từ năm 1986 với giá 5 cây vàng. Giấy bán
nhà do ông Dương Kim S1 viết thay cho cụ C2, vì cụ C2 không tự viết được. Lúc
viết giấy có mặt cụ C2, ông T1, ông H1, ông S1 và ông Dương Kim A.
4.3. Ông Huỳnh Văn K2: Ông chỉ là người cùng xóm chứ không có quan hệ
anh em bà con gì với ông Dương Kim T1 và bà Phạm Thị Ly S. Gia đình ông cư
trú tại số A đường C, tổ C, phường Y năm 1969, đến năm 2000 gia đình chuyển
qua ở 4 đường H cho đến nay. Ông không biết chủ nhà số D đường H chỉ biết gia
đình họ ở đây từ năm 1979. Hiện nay, vợ chồng Dương Kim T1 đang sinh sống tại
đây.
Chữ ký trong giấy xác nhận của các hộ dân mà ông Dương Kim T1 đã cung
cấp cho Tòa án là chữ ký của ông. Ông không biết nội dung gì về việc tranh chấp
giữa ông T với ông T1, bà Ly S.
4.4. Ông Trần Kim V: Ông chỉ là những người ở cùng xóm không có quan
hệ anh em bà con gì với ông Dương Kim T1 và bà Phạm Thị Ly S. Hiện ông đang
cư trú tại số nhà B đường H, tổ C, phường Y, thành phố P từ năm 1960 cho đến
bây giờ.
Ông không biết ai chủ nhà số D đường H, chỉ biết có 5 anh em sống ở đó từ
năm 1995. Hiện nay, vợ chồng Dương Kim T1 đang sinh sống tại đây. Ông chỉ
biết như nội dung ông đã trình bày như trên, ngoài ra ông không biết nội dung gì
về việc tranh chấp giữa ông T với ông T1, bà Ly S.
5. Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 81/2023/DSST ngày 16 tháng 8 năm 2023,
Tòa án nhân dân thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai đã quyết định:
Áp dụng các Điều 163, 164, 166, 167, 168, 223, 494, 496, 497, 499 của Bộ
luật dân sự; Điều 100 của Luật Đất đai;
Tuyên xử:
5
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Dương Kim T; buộc ông Dương
Kim T1 và và Phạm Thị Ly S trả cho anh Dương Kim T quyền sử dụng 504,1m
2
đất tại số D đường H, phường Y, thành phố P, tỉnh Gia Lai (chưa trừ chỉ giới
đường H, diện tích đất trên chưa cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất), thuộc
thửa đất số 79, tờ bản đồ số 17 (tứ cận phía Đông giáp đất ông Nguyễn Quang H2
và bà Phạm Thị Đ1 có kích thước
3m+17,73m+6,93m+1,55m+6,96m+0,66m+6,84m (chưa trừ chỉ giới đường H);
phía Tây giáp mương nước và đường bê tông, có kích thước:
31,26m+5,94m+1,89m+8,68m (chưa trừ chỉ giới đường H); phía Nam giáp đường
H có kích thước 9,69 m (chưa trừ chỉ giới đường H); phía Bắc giáp đất ông Lâm
Thế H3 có kích thước 9,14m), Tài sản gắn liền với đất là nhà ở riêng lẻ (nhà 1
tầng, móng xây đá, tường xây gạch, nền lát gạch ceramic 30cm x 30cm, tường trát
vữa sơn nước, có sê nô mặt trước, mái lợp tôn) và 1 cây vú sữa đang kinh doanh
trên 20 năm.
(Như đặc điểm thể hiện tại Biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ do Toà án
nhân dân thành phố Pleiku lập ngày 23-8-2021 kèm theo bản án này).
Tạm giao cho anh Dương Kim T quyền sử dụng 504,1m
2
đất tại số D đường
H, phường Y, thành phố P, tỉnh Gia Lai thuộc thửa đất số 79, tờ bản đồ số 17 và
quyền sở hữu toàn bộ tài sản gắn liền với đất như nêu trên để Ủy ban nhân dân cấp
có thẩm quyền tiến hành các thủ tục giao quyền sử dụng đất và cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất cho đương sự theo quy định của pháp luật về đất đai.
Anh Dương Kim T được quyền liên hệ với cơ quan nhà nước có thẩm
quyền để đăng ký quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất theo
quy định của pháp luật về đất đai đối với thửa đất nêu trên.
Buộc anh Dương Kim T phải thanh toán cho ông Dương Kim T1 bà Phạm
Thị Ly S 697.750.700 đồng chi phí đầu tư và công sức giữ gìn, tôn tạo làm tăng
giá trị của đất.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí dân sự sơ thẩm,
nghĩa vụ chịu lãi do chậm thực hiện nghĩa vụ thanh toán; thông báo quyền tự
nguyện, thỏa thuận hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định của Luật thi hành
án dân sự và tuyên quyền kháng cáo của các đương sự.
Trong thời hạn luật định, ông Dương Kim T1 và bà Phạm Thị Ly S kháng
cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên
đơn.
6. Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 17/2024/DS-PT ngày 17/01/2024 của
Toà án nhân dân tỉnh Gia Lai quyết định:
Không chấp nhận kháng cáo của ông Dương Kim T1 và bà Phạm Thị Ly S,
giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm.
7. Ngày 26/02/2024, Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đ nhận được đơn
của ông Dương Kim T1 đề nghị kháng nghị tái thẩm đối với Bản án dân sự phúc
6
thẩm số 17/2024/DS-PT ngày 17/01/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai, với lý
do: Bản án phúc thẩm có sai lầm trong việc đánh giá chứng cứ dẫn đến kết luận
trong bản án không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án, gây thiệt
hại nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của ông. Sau khi xét xử phúc
thẩm gia đình ông Dương Kim T1 tìm thấy giấy Giấy biên nhận của Phòng quản lý
phân phối nhà đất tỉnh Gia Lai - Kon Tum do ông Nguyễn Văn H4 ký nhận ngày
01/6/1980.
8. Tại Quyết định kháng nghị tái thẩm số 82/QĐ-VKS-DS ngày 11/10/2024,
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng kháng nghị tái thẩm đối
với Bản án dân sự phúc thẩm số 17/2024/DS-PT ngày 17/01/2024 của TAND tỉnh
Gia Lai; đề nghị: Ủy ban thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng huỷ Bản
án dân sự phúc thẩm nêu trên và Bản án dân sự sơ thẩm số 81/2023/DS-ST ngày
16/8/2023 của Toà án nhân dân thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai; giao hồ sơ vụ án
cho Toà án nhân dân thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai xét xử sơ thẩm lại.
9. Tại phiên tòa tái thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà
Nẵng đề nghị Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng chấp nhận
toàn bộ kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Các đương sự trong vụ án đều thừa nhận nguồn gốc nhà đất tại số D H,
thành phố P, tỉnh Gia Lai là của ông Lê Quang D1; ông Lê Quang D1 bán lại cho
bà Nguyễn Thị T5; bà Nguyễn Thị T5 bán lại cho ông Thái Cẩm T4; ông Thái
Cẩm T4 bán lại cho cụ Bùi Lân .
Tuy nhiên, giữa nguyên đơn và bị đơn tranh chấp nhau về việc vào năm
1979 cụ Bùi L đã bán căn nhà số D H cho cụ Dương Đ và cụ Trần Thị C2 hay bán
cho ông Dương Kim T2, bà Tôn Thị Thanh K.
[2] Theo trình bày của nguyên đơn thì nhà và đất tại số D đường H, thành
phố P, tỉnh Gia Lai của ông Bùi L bán cho ông Dương Kim T2, bà Tôn Thị Thanh
K vào năm 1979 có viết giấy mua bán nhưng bị thất lạc. Vì vậy, năm 1985, ông T2
có yêu cầu ông Bùi Dương H viết lại giấy tờ mua bán nhà cho ông T2, giấy tờ do
ông H ký vẫn ghi ngày mua bán cũ là ngày 20/8/1979. Ngày 10-03-2003 ông T2
ghi “Giấy cho con nhà ở và đất” (bl 124) có nội dung nhà và đất tại 44 Huỳnh
Thúc K1 là ông mua của ông Bùi Dương H và tặng cho anh T toàn bộ nhà đất nêu
trên.
Tại hồ sơ vụ án (BL 08) có Giấy sang nhượng nhà đất ngày 20/8/1979 của
ông Bùi Dương H, nội dung: ông H chuyển nhượng cho ông Dương Kim T2 nhà
đất tại D H, thành phố P với giá 4.000 đồng và Giấy xác nhận của ông Vũ Văn T3
ngày 08/10/2019 về việc làm chứng ông Bùi Lân B nhà cho ông Dương Kim T2
(BL 07).
7
Ngày 08/10/2024, Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng đã tiến hành
xác minh đối với ông Bùi Dương H, tại biên bản xác minh ông Bùi Dương H trình
bày: Năm 1979, cha ông là Bùi L có bán nhà 44 Huỳnh Thúc K1, lúc đó ông ở
trong nhà nhưng không chứng kiến và ông không biết bán cho ai. Khoảng năm
2019, con dâu ông Dương Kim T2 đến gặp nhiều lần nhờ ông H viết lại giấy bán
nhà cho ông Dương Kim T2 nhưng ông H không chịu viết vì nhà là của cha ông
bán, ông không biết nhưng do họ năn nỉ nhiều lần, nói giấy tờ nhà bị thất lạc cần
làm thủ tục nhà đất nên ông mới viết giúp và không biết việc họ dùng giấy này để
khởi kiện ông Dương Kim T1; ông H khẳng định ông viết giấy sau khi ông Bùi L
đã chết, viết vào khoảng năm 2019, còn ngày ghi là 20/8/1979 thì ông không biết
vì ngày là người khác tự ghi. Ông Bùi Dương H ghi giấy “GIẤY XIN RÚT LẠI”
ngày 18/01/2024 vơi lý do: “ông Dương Kim T2 đã dùng giấy xác nhận của tôi để
làm căn cứ khởi kiện tranh chấp căn nhà trên ra Tòa án các cấp. Do vậy, tôi
không đồng ý và tự nguyện làm đơn này xin rút lại hoặc hủy giấy xác nhận bán
căn nhà 44 Huỳnh Thúc K1 cho ông Dương Kim T2 vào ngày 20/01/2024 vì không
đúng thực tế”.Ngoài ra, ông Vũ Văn T3 là người viết giấy làm chứng việc ông Bùi
Lân B nhà cho ông Dương Kim T2, không phải là ông Bùi Dương H bán cho ông
Dương Kim T2. Như vậy, không có đủ cơ sở để cho rằng ông Bùi Dương H là
người bán nhà đất số D H cho ông Dương Kim T2.
[3] Theo đơn khởi kiện và trình bày của nguyên đơn cho rằng ông Dương
Kim T2 sau khi mua nhà đất số D H vào năm 1979, thì vào năm 2005 đã cho gia
đình ông Dương Kim T1 mượn tạm để ở. Tuy nhiên, theo Sổ hộ khẩu lập từ năm
1986 và được lập lại năm 1991 đã thể hiện gia đình ông Dương Kim T1 đăng ký là
chủ hộ khẩu tại số nhà D H. Ngoài ra, có nhiều người dân cư trú tại địa phương
xác nhận ông Dương Kim T1 cư trú cùng cha mẹ từ năm 1979, sau khi cha mẹ là
cụ Đ và cụ C2 mất thì gia đình ông tiếp tục cư trú tại nhà đất số 44 này đến nay.
Do đó, việc ông Dương Kim T2 và Dương Kim T cho rằng đã cho gia đình ông
Dương Kim T1 ở tạm nhà đất 44 Huỳnh Thúc K1 từ năm 2005 là không hợp lý.
[4] Sau khi xét xử phúc thẩm, ông Dương Kim T1 mới thu thập được và
cung cấp Giấy biên nhận (bản sao có công chứng) của Phòng quản lý phân phối
nhà đất tỉnh Gia Lai - Kon Tum do ông Nguyễn Vãn H5 ký nhận ngày 01/6/1980.
Nội dung Giấy biên nhận thể hiện Phòng quản lý phân phối nhà đất tỉnh Gia Lai -
Kon Tum nhận hồ sơ của ông Dương Đ gồm:
“1. 01 Bản vẽ và giấy Thổ trạch do Ty điền địa tỉnh Pleiku chế độ cũ cấp
cho ông Lê Quang D1.
2. 01 Giấy bán nhà của ông Lê Quang D1 bán cho bà Nguyễn Thị Thừa .1
3. 01 Giấy bán nhà của bà Nguyễn Thị T5 bán lại cho ông Thái Cẩm T4.
4. 01 Giấy bán nhà của ông Thái Cẩm T4 bán laị cho ông Bùi L (tức ông
C1).
8
5. 01 Giấy bán nhà của ông Bùi Lân B lại cho ông Dương Đ.”
Ngày 09/10/2024, Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng đã tiến hành
xác minh đối với ông Nguyễn Văn H4 người đã ký nhận trong Giấy xác nhận ngày
ngày 01/6/1980, ông H4 trình bày: ông H4 có biết ông Dương Đ nhà ở số D H,
năm 1980 ông Dương Đ nộp cho ông bộ hồ sơ xin cấp GCNQSD đất gồm 05 mục
các loại giấy tờ, khi nhận tôi kiểm tra, đối chiếu từng loại đúng như giấy biên nhận
tôi mới ký vào giấy biên nhận, ông H4 khẳng định ông Dương Đ là người nộp hồ
sơ cho ông.
Các nội dung này phù hợp với trình bày của bị đơn ông Dương Kim T1 và
các ông Dương Kim S1, ông Dương Kim H1 cùng là con của cụ Dương Đ và cụ
Trần Thị C2; và những người hàng xóm sống tại khu vực này từ trước năm 1979,
trình bày: năm 1979, ông Dương Đ và bà Trần Thị C2 bán 02 căn nhà ngoài quê
Hà Tĩnh, sau đó cùng gia đình vào Gia Lai, ông Dương Đ và bà Trần Thị C2 mua
căn nhà của ông Bùi Lân G 10.000 đồng, ông Dương Đ và bà Trần Thị C2 cùng 05
người con là Dương Kim T2, Dương Kim A, Dương Kim S1, Dương Kim H1,
Dương Kim T1 ở tại nhà 44 Huỳnh Thúc K1 từ năm 1979, đến năm 1981, cụ
Dương Đ chết, sau này Dương Kim T2, Dương Kim A, Dương Kim S1 ra mua nhà
ở riêng, năm 1986 bà Trần Thị C2 viết giấy bán căn nhà 44 Huỳnh Thúc K1 cho
ông Dương Kim T1 nên ông T1 là chủ hộ trong sổ hộ khẩu năm 1986. Hiện nay,
nhà 44 Huỳnh Thúc K1 gia đình ông T1 đang ở và là nơi thờ ông bà ông Dương Đ,
bà Trần Thị C2.
Như vậy, Giấy biên nhận của Phòng quản lý phân phối nhà đất tỉnh Gia Lai
- Kon Tum do ông Nguyễn Văn H4 ký nhận ngày 01/6/1980 thể hiện ông Dương
Đ đã đi nộp hồ sơ nhà đất số D H cho Phòng quản lý phân phối nhà đất tỉnh - Gia
Lai - Kon Tum có Giấy biên nhận của Phòng quản lý phân phối nhà đất tỉnh Gia
Lai - Kon Tum. Đây là tài liệu chứng cứ mới quan trọng có thể làm thay đổi cơ
bản nội dung của Bản án dân sự phúc thẩm số 17/2024/DS-PT ngày 17-01-2024
của Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai và Bản án dân sự sơ thẩm. Kháng nghị tái thẩm
của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng là có căn cứ, Hội
đồng tái thẩm chấp nhận kháng nghị, huỷ Bản án dân sự phúc thẩm số
17/2024/DS-PT ngày 17-01-2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai và Bản án dân
sự sơ thẩm số 81/2023/DS-ST ngày 16-8-2023 của Toà án nhân dân thành phố
Pleiku, tỉnh Gia Lai; giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân thành phố Pleiku, tỉnh
Gia Lai xét xử sơ thẩm lại theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
1. Căn cứ Điều 351, khoản 1 Điều 352, khoản 2 Điều 356 của Bộ luật Tố
tụng dân sự, chấp nhận kháng nghị tái thẩm số 82/QĐ-VKS-DS ngày 11-10-2024
của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng;
9
2. Huỷ Bản án dân sự phúc thẩm số 17/2024/DS-PT ngày 17-01-2024 của
Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai và Bản án dân sự sơ thẩm số 81/2023/DS-ST ngày
16-8-2023 của Toà án nhân dân thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai; giao hồ sơ vụ án
cho Toà án nhân dân thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai xét xử sơ thẩm lại theo quy
định pháp luật.
3. Quyết định tái thẩm có hiệu lực pháp luật từ ngày ban hành Quyết định.
Nơi nhận:
- Toà án nhân dân tối cao;
- Viện VKSND cấp cao tại Đà Nẵng;
- Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai;
- Tòa án nhân dân thành phố Pleiku (Kèm hồ sơ vụ án);
- Chi cục THADS thành phố Pleiku (để thi hành);
- Các đương sự (theo địa chỉ);
- Lưu: Phòng lưu trữ; Phòng GĐKT về
DS-LĐ-KDTM và hồ sơ vụ án.
TM. ỦY BAN THẨM PHÁN
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊNTÒA
(Đã ký)
Nguyễn Tấn Long
Tải về
Quyết định số 86/2024/DS-TT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quyết định số 86/2024/DS-TT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 27/12/2024
Cấp xét xử: Tái thẩm
2
Ban hành: 20/12/2024
Cấp xét xử: Tái thẩm
3
Ban hành: 16/12/2024
Cấp xét xử: Tái thẩm
4
Ban hành: 11/12/2024
Cấp xét xử: Tái thẩm
5
Ban hành: 10/12/2024
Cấp xét xử: Tái thẩm
6
Ban hành: 02/12/2024
Cấp xét xử: Tái thẩm
7
Ban hành: 19/11/2024
Cấp xét xử: Tái thẩm
8
Ban hành: 06/11/2024
Cấp xét xử: Tái thẩm
9
Ban hành: 31/10/2024
Cấp xét xử: Tái thẩm
10
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Tái thẩm
11
Ban hành: 27/09/2024
Cấp xét xử: Tái thẩm
12
Ban hành: 27/09/2024
Cấp xét xử: Tái thẩm
13
Ban hành: 24/09/2024
Cấp xét xử: Tái thẩm
14
Ban hành: 24/09/2024
Cấp xét xử: Tái thẩm
15
Ban hành: 23/09/2024
Cấp xét xử: Tái thẩm
16
Ban hành: 20/09/2024
Cấp xét xử: Tái thẩm
17
Ban hành: 20/09/2024
Cấp xét xử: Tái thẩm
18
Ban hành: 20/09/2024
Cấp xét xử: Tái thẩm
19
Ban hành: 18/09/2024
Cấp xét xử: Tái thẩm