Quyết định số 14/2025/QĐ-PT ngày 04/04/2025 của TAND tỉnh Bình Dương về tranh chấp quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Quyết định số 14/2025/QĐ-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Quyết định số 14/2025/QĐ-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Quyết định 14/2025/QĐ-PT
Tên Quyết định: | Quyết định số 14/2025/QĐ-PT ngày 04/04/2025 của TAND tỉnh Bình Dương về tranh chấp quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Bình Dương |
Số hiệu: | 14/2025/QĐ-PT |
Loại văn bản: | Quyết định |
Ngày ban hành: | 04/04/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Tranh chấp quyền sử dụng đất giữa NĐ Phạm Văn P, BĐ Châu Thị B |
Tóm tắt Quyết định
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

QUYẾT ĐỊNH
GIẢI QUYẾT VIỆC KHÁNG CÁO ĐỐI VỚI
QUYẾT ĐỊNH ĐÌNH CHỈ GIẢI QUYẾT VỤ ÁN
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH DƯƠNG
Với Hội đồng phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên họp:
Các Thẩm phán:
Ông Nguyễn Văn Thanh.
Ông Nguyễn Văn Tài.
Ông Nguyễn Thanh Tùng
Thư ký ghi biên bản phiên họp: Bà Nguyễn Thị Thùy Trang - Thư ký Tòa án
nhân dân tỉnh Bình Dương.
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương tham gia phiên họp: Ông
Trần Đức Thoại - Kiểm sát viên.
NHẬN THẤY:
Tại Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự số 364/2024/QĐST-DS
ngày 12 tháng 12 năm 2024 của Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh
Bình Dương đã căn cứ vào Điều 48, điểm c khoản 1, điểm g khoản 1 Điều 217,
khoản 3 Điều 218, khoản 1 Điều 219, khoản 2 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân
sự quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự sơ thẩm thụ lý số 498/2024/TLST-
DS ngày 18 tháng 6 năm 2024 về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất”, giữa:
- Nguyên đơn: Ông Phạm Văn P, sinh năm 1965; địa chỉ: K, tổ A, khu phố
H, phường H, thành phố T, tỉnh Bình Dương.
- Bị đơn: Bà Châu Thị B, sinh năm 1959; địa chỉ: số A, đường Đ, tổ B, khu
phố E, phường P, thành phố T, tỉnh Bình Dương.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Phạm Văn P1, sinh năm
1969; địa chỉ: số A, tổ B, khu phố E, phường P, thành phố T, tỉnh Bình Dương.
Tại Đơn kháng cáo đề ngày 30 tháng 12 năm 2024, nguyên đơn ông Phạm
Văn P kháng cáo yêu cầu hủy Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự số
364/2024/QĐST-DS ngày 12 tháng 12 năm 2024 của Tòa án nhân dân thành phố
Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương.
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương tham gia phiên họp phúc
thẩm phát biểu ý kiến:
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TÌNH BÌNH DƯƠNG
Số: 14/2025/QĐ-PT
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bình Dương, ngày 04 tháng 4 năm 2025
2
- Về tố tụng: Tòa án cấp phúc thẩm mở phiên họp trong thời hạn quy định
tại Điều 314 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
- Về nội dung: Tòa án cấp sơ thẩm đình chỉ giải quyết vụ án là không có
căn cứ. Do đó, đề nghị Hội đồng phúc thẩm chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn,
hủy quyết định đình chỉ giải quyết vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm.
XÉT THẤY:
[1] Do Bản án dân sự phúc thẩm số 28/2016/DS-PT ngày 22/01/2016 của
Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương chia di sản thừa kế nhưng chưa giải quyết về các
hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất lập ngày 18/11/2009 (6 x35m =
210m
2
), ngày 29/12/2009 (5 x 35m = 175m
2
) và ngày 22/01/2010 (1 x 35m = 35m
2
)
giữa bị đơn bà Phạm Thị P2, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là các con bà
P2 gồm ông Phạm Văn P, bà Châu Thị B và ông Phạm Văn P1 với người nhận
chuyển nhượng đất là bà Nguyễn Thị V và bà Nguyễn Thị T nên bà V, bà T khởi
kiện các bị đơn Châu Thị B, Phạm Văn P và Phạm Văn P1, yêu cầu Tòa án giải
quyết công nhận cho bà V, bà T được quyền sử dụng, sở hữu hợp pháp diện tích
đất đã đo đạc thực tế 419,2m
2
theo tờ bản đồ số 12-3 tại phường P, thành phố T, do
bà V, bà T đã thanh toán đủ 100% tiền chuyển nhượng 1.295.000.000đ cho người
nhận tiền là bà P2 và ông P1 và bà P2, bà B và ông P1 đã ký biên bản bàn giao đất
cho bà V, bà T ngày 20/3/2010. Buộc các bị đơn Phạm Văn P, Châu Thị B và Phạm
Văn P1 có nghĩa vụ giao trả phần đất 419,2m
2
nói trên cho nguyên đơn. Quá trình
tố tụng vụ án trên, các bị đơn Châu Thị B và Phạm Văn P1 đồng ý yêu cầu khởi
kiện của các nguyên đơn, đồng ý giao trả diện tích đất 420m
2
tại phường P, thành
phố T do nhận chuyển nhượng trước đây cho bà Nguyễn Thị V, Nguyễn Thị T quản
lý sử dụng, sở hữu. Riêng bị đơn ông Phạm Văn P không đồng ý yêu cầu khởi kiện
của các nguyên đơn, với lý do: tại thời điểm bà P2 chuyển nhượng đất cho bà V,
bà T (tháng 11/2009 đến tháng 01/2010) thì đất chuyển nhượng chưa thuộc quyền
sử dụng của hộ bà Phạm Thị P2 mà thuộc tài sản thừa kế chưa chia của bà Đỗ Thị
T1, hơn nữa các bên thỏa thuận chuyển nhượng đất trong thời gian phần đất trên
đang có tranh chấp thừa kế tại Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một nên hợp
đồng chuyển nhượng đất ngày 18/11; 29/12/2009 và 22/01/2010 giữa bà P2, ông
P, ông P1 và bà B với bà V và bà T bị vô hiệu toàn bộ. Hợp đồng đặt cọc để chuyển
nhượng đất được lập ngày 01/9/2016 giữa bà B, ông P1 và bà V, bà T vô hiệu do
phần đất bà B, ông P1 đặt cọc để chuyển nhượng cho bà V, bà T là tài sản chung
của ông P, bà B, ông P1 được hưởng thừa kế theo Bản án dân sự phúc thẩm số
28/2016/DS-PT của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương.
[2] Tại Bản án số 95/2020/DS-ST ngày 25/9/2020 của Tòa án nhân dân
thành phố Thủ Dầu Một đã quyết định: “Công nhận hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất ngày 18/11/2009, ngày 29/12/2009 và ngày 22/01/2010 có hiệu
lực. Các nguyên đơn bà Nguyễn Thị V và bà Nguyễn Thị T được quyền quản lý
sử dụng, đăng ký kê khai đối với diện tích đất 411,1m
2
, thuộc tờ bản đồ 12-3, đất
tọa lạc tại phường P, thành phố T, tỉnh Bình Dương. Bà Châu Thị B, ông Phạm
Văn P và ông Phạm Văn P1 được quyền quản lý, sử dụng phần diện tích đất 8,1m
2
và có trách nhiệm bồi hoàn giá trị đối với phần nhà xưởng có diện tích 8,1m
2
3
tương đương với số tiền 283.500.000 đồng cho các nguyên đơn bà Nguyễn Thị V
và bà Nguyễn Thị T. Buộc các bị đơn bà Châu Thị B, ông Phạm Văn P và ông
Phạm Văn P1 có trách nhiệm tháo dỡ phần mái hiên có diện tích là 39,4m
2
(phần
không gian) có kết cấu: xà ngang, mái Tole, trong tổng diện tích đất 411,1m
2
để
trả lại cho nguyên đơn.
Do có kháng nghị của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Thủ
Dầu Một và có kháng cáo của bị đơn ông Phạm Văn P nên Tòa án nhân dân tỉnh
Bình Dương đã xét xử phúc thẩm tại Bản án số 134/2023/DS-PT ngày 19/4/2023,
quyết định sửa Bản án số 95/2020/DS-ST ngày 25/9/2020 của Tòa án nhân dân
thành phố Thủ Dầu Một như sau:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn bà Nguyễn
Thị V và bà Nguyễn Thị T đối với các bị đơn bà Châu Thị B, ông Phạm Văn P và
ông Phạm Văn P1 về việc “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất”.
2. Công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày
18/11/2009, ngày 29/12/2009 và ngày 22/01/2010 có hiệu lực. Các nguyên đơn
bà Nguyễn Thị V và bà Nguyễn Thị T được quyền quản lý, sử dụng diện tích đất
407,5m
2
, thuộc tờ bản đồ 11-40, tờ bản đồ số 12-3, tọa lạc tại phường P, thành
phố T, tỉnh Bình Dương.
3. Bà Châu Thị B, ông Phạm Văn P và ông Phạm Văn P1 được quyền quản
lý, sử dụng phần diện tích đất 8,4m
2
và có trách nhiệm bù hoàn giá trị đối với diện
tích 8,4m
2
tương đương với số tiền 319.200.000 đồng cho các nguyên đơn bà
Nguyễn Thị V và bà Nguyễn Thị T.
4. Buộc các bị đơn bà Châu Thị B, ông Phạm Văn P và ông Phạm Văn P1
có trách nhiệm tháo dỡ, di dời một phần mái tole có diện tích là 98m
2
(phần không
gian) có kết cấu: Xà ngang, mái tole, trần tầm vông, cột sắt, không vách; phần nền
bê tông diện tích 73,1m
2
; một phần mái nhà diện tích 1,4m2 cùng với các cây
trồng trên đất gồm: 02 cây tràm. 01 cây nhãn, 01 cây mận, 01 cây si, 01 cây hoa
chuông vàng, 02 cây sung trong tổng diện tích trong tổng diện tích đất 407,5m
2
để giao trả đất cho nguyên đơn.
5. Nguyên đơn bà Nguyễn Thị V, bà Nguyễn Thị T có quyền và nghĩa vụ
liên hệ cơ quan nhà nước có thẩm quyền để thực hiện thủ tục cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai.
[3] Xét thấy phần đất diện tích 385m
2
, thuộc một phần thửa đất số 11-40,
tờ bản đồ số 12-3, tọa lạc tại phường P, thành phố T, tỉnh Bình Dương ông P khởi
kiện bà Châu Thị B và xác định người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Phạm
Văn P1 là để thực hiện thỏa thuận phân chia di sản của bà P2 sau khi đã thực hiện
nghĩa vụ của bà P2 để lại theo Vi bằng số 1106, 1107, 1108/2016/VB-TPLTDM
ngày 26/11/2016 của Văn phòng T2 là hoàn toàn độc lập với vụ án đã được Tòa
án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một giải quyết tại Bản án số 95/2020/DS-ST
ngày 25/9/2020 và Bản án dân sự phúc thẩm số 134/2023/DS-PT ngày 19/4/2023
của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương đã xét xử công nhận cho bà Nguyễn Thị V
và bà Nguyễn Thị T được quyền quản lý, sử dụng là dựa trên hợp đồng chuyển
4
nhượng quyền sử dụng đất ngày 18/11/2009, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất ngày 29/12/2009 và Giấy mua bán đất ngày 22/01/2010 bà V và bà T ký
với bà P2 cùng các con bà P2 là ông P, ông P1 và bà B đối với diện tích đất
407,5m
2
, thuộc tờ bản đồ 11-40, tờ bản đồ số 12-3, tọa lạc tại phường P, thành
phố T, tỉnh Bình Dương.
Đối tượng khởi kiện của ông Phạm Văn P đối với bà Châu Thị B là 385m
2
đất thuộc một phần thửa đất số 11-40, tờ bản đồ số 12-3, tọa lạc tại phường P,
thành phố T, tỉnh Bình Dương và tư cách đương sự trong vụ án tranh chấp quyền
sử dụng đất được Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một thụ lý số
498/2024/TLST-DS, ngày 18/6/2024 giữa nguyên đơn là ông Phạm Văn P, bị đơn
là bà Châu Thị B, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Phạm Văn P1
cũng khác hoàn toàn tư cách đương sự trong vụ án đã được giải quyết tại Bản án
số 95/2020/DS-ST ngày 25/9/2020 và Bản án số 134/2023/DS-PT ngày 19/4/2023
của Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một và Tòa án nhân dân tỉnh Bình
Dương.
Đối với phần đất 385m
2
nói trên thuộc một phần thửa 11-40, tờ bản đồ số
12-3 tại phường P, thành phố T, tỉnh Bình Dương thì ngày 20/4/2016, ông Phạm
Văn P, bà Châu Thị B, ông Phạm Văn P1 có lập một hợp đồng bán đất với ông
Lục Thanh S, nội dung: ông P, bà B, ông P1 đồng ý chuyển nhượng cho ông S
quyền sử dụng diện tích đất 11m x 35m = 385m
2
(là một phần thửa đất số 11- 40,
tờ bản đồ số 12-3 tọa lạc tại phường P, thành phố T, tỉnh Bình Dương), với giá
chuyển nhượng là 1.750.000.000đ (một tỷ bảy trăm năm mươi triệu đồng). Thời
điểm ký kết hợp đồng, ông S đã đặt cọc cho ông P, bà B, ông P1 số tiền là
1.400.000.000đ, số tiền còn lại sẽ được ông S thanh toán khi ông P, bà B, ông P1
có quyết định thắng kiện của Tòa án nhân dân tối cao. Ngày 01/9/2016, tại Văn
phòng T2 thì ông Phạm Văn P và bà Châu Thị B đã thỏa thuận ông P sẽ đứng ra
thanh lý hợp đồng bán đất với ông Lục Thanh S, ông P có nghĩa vụ trả lại tiền ông
S đã thanh toán và bồi thường thêm cho ông S một khoản tiền theo thỏa thuận
giữa ông S và ông P. Đồng thời ông P sẽ được quyền đăng ký và sử dụng đối với
diện tích đất đã chuyển nhượng cho ông S (11 m x 35m = 385m
2
) là một phần
thửa đất số 11-40, tờ bản đồ 12-3 tọa lạc tại phường P, thành phố T, tỉnh Bình
Dương. Thực hiện việc thỏa thuận ngày 01/9/2016 nói trên giữa ông P và bà Châu
Thị B thì cùng ngày ông Phạm Văn P đã thỏa thuận cùng ông Lục Thanh S, bà
Văn Thị L và được Văn phòng T2 lập Vi bằng số 750/2016/VB-TPLTPTDM, nội
dung: “Hai bên đồng ý thống nhất thanh lý hợp đồng bán đất ngày 20/4/2016
miếng đất tại đường P, khu D, phường P, thành phố T, tỉnh Bình Dương ngng
11m x 35m tổng diện tích 385m
2
bên A (ông P) đồng ý giao trả bồi thường hợp
đồng cho bên B (ông S, bà L) , số tiền bồi thường cho bên B là 1.900.000.000đ
(một tỷ chín trăm triệu đồng)’’.
Tại các Bản án: Bản án dân sự sơ thẩm 95/2020/DS-ST ngày 25/9/2020 của
Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một và Bản án dân sự phúc thẩm số
134/2023/DS-PT ngày 19/4/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương đã giải
quyết công nhận cho bà Nguyễn Thị T và bà Nguyễn Thị V được quyền quản lý
diện tích đất 407,5m
2
thuộc thửa đất số 11-40, tờ bản đồ 12-3 tọa lạc tại phường
5
P, thành phố T, tỉnh Bình Dương, trong đó có phần đất diện tích 385m
2
, thuộc một
phần thửa đất số 11-40, tờ bản đồ số 12-3, tọa lạc tại phường P, thành phố T, tỉnh
Bình Dương mà ông Phạm Văn P, bà Châu Thị B, ông Phạm Văn P1 đã lập hợp
đồng chuyển nhượng cho ông Lục Thanh S vào ngày 20/4/2016 nhưng cả hai bản
án nói trên không đưa ông Lục Thanh S, bà Văn Thị L vào tham gia tố tụng với
tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và cũng chưa xem xét, giải quyết
quyền lợi của ông P đã bỏ ra số tiền 1.900.000.000đ (Một tỷ chín trăm triệu đồng)
để thanh lý hợp đồng mua bán đất với ông S, bà L theo Vi bằng số 750/2016/VB-
TPLTPTDM do Văn phòng T2 lập ngày 01/9/2016. Vì vậy, ngày 05/6/2024, ông
Phạm Văn P khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bà Châu Thị B thực hiện
nghĩa vụ có liên quan đến một phần thửa đất số 11-40, tờ bản đồ 12-3 tọa lạc tại
phường P, thành phố T do bà B đã đồng ý để ông P thay mặt bà bà B bồi thường
hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông Lục Thanh S để được đứng
tên sử dụng diện tích đất 385m
2
thuộc thửa đất số 11-40, tờ bản đồ 12-3 tọa lạc
tại phường P, thành phố T.
Từ các phân tích nêu trên, xét thấy ngày 18/6/2024, Tòa án nhân dân thành
phố Thủ Dầu Một thụ lý vụ án tranh chấp quyền sử dụng đất giữa nguyên đơn ông
Phạm Văn P và bị đơn bà Châu Thị B để giải quyết là đúng quy định pháp luật.
Đến ngày 12/12/2024, Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một đã ban hành
quyết định số 364/2024/QĐST-DS đình chỉ giải quyết vụ án dân sự lý do sự việc
đã được giải quyết bằng bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án theo
quy định tại điểm g khoản 1 Điều 217 của Bộ luật Tố tụng dân sự và tuyên hậu
quả pháp lý tại mục 2.1 của quyết định “Nguyên đơn không được quyền khởi kiện
lại vụ án này theo quy định của pháp luật” là không có căn cứ. Do đó, cần hủy
Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự số 364/2024/QĐST-DS, ngày 12
tháng 12 năm 2024 của Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình
Dương và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm để tiếp tục giải quyết vụ
án.
[5] Quan điểm của Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương là phù hợp.
[6] Án phí dân sự phúc thẩm: người kháng cáo không phải chịu.
Căn cứ Điều 148, điểm c khoản 5 Điều 314 của Bộ luật Tố tụng dân sự,
QUYẾT ĐỊNH:
1. Chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn ông Phạm Văn P.
2. Hủy Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự số 364/2024/QĐST-DS
ngày 12 tháng 12 năm 2024 của Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh
Bình Dương.
Chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh
Bình Dương tiếp tục giải quyết vụ án theo thủ tục sơ thẩm.
3. Án phí dân sự phúc thẩm: ông Phạm Văn P không phải chịu. Hoàn trả
cho ông Phạm Văn P số tiền 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí
dân sự phúc thẩm đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số
6
0008934 ngày 08 tháng 01 năm 2025 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố
Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương.
4. Quyết định này có hiệu lực pháp luật kể từ ngày ra quyết định./.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Bình Dương;
- Chi cục THADS thành phố Thủ Dầu Một;
- TAND thành phố Thủ Dầu Một;
- Các đương sự;
- Lưu: HCTP, HSVA, Tòa Dân sự.
TM. HỘI ĐỒNG PHIÊN HỌP
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN HỌP
(Đã ký)
Nguyễn Văn Thanh
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 15/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 10/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 08/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 03/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 03/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 31/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 31/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 27/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 27/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 26/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 26/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 24/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 24/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 24/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 21/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 21/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 20/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm