Quyết định số 11/2025/DS-GĐT ngày 03/04/2025 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng về tranh chấp liên quan đến yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Quyết định 11/2025/DS-GĐT

Tên Quyết định: Quyết định số 11/2025/DS-GĐT ngày 03/04/2025 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng về tranh chấp liên quan đến yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp liên quan đến yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu
Cấp xét xử: Giám đốc thẩm
Tòa án xét xử: TAND cấp cao tại Đà Nẵng
Số hiệu: 11/2025/DS-GĐT
Loại văn bản: Quyết định
Ngày ban hành: 03/04/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Yêu cầu tuyên bố hợp đồng ủy quyền vô hiệu và đòi lại tài sản
Tóm tắt Quyết định

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI ĐÀ NẴNG
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Quyết định giám đốc thẩm
Số: 11/2025/DS-GĐT
Ngày 03/4/2025
V/v Yêu cầu tuyên bố hợp đồng
ủy quyền vô hiệu và đòi tài sản
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
ỦY BAN THẨM PHÁN
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG
- Thành phn y ban Thm phán Tòa án nhân dân cp cao gm có:
Thm phán Ch ta phiên tòa: ông Nguyễn Văn Tào
Các Thm phán: ông Nguyễn Cường và ông Nguyn Tn Long
- Thư ký phiên tòa: bà Nguyn Th Thoa Thm tra viên.
- Đại din Vin kim t nhân dân cp cao tại Đà Nng tham gia phiên
tòa: ông Trn Viết Tun - Kim sát viên.
Ngày 03 tháng 4 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng
mở phiên tòa giám đốc thẩm xét xử vụ án dân sự: “Yêu cầu tuyên bố hợp đồng
ủy quyền vô hiệu và đòi tài sản”; giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Thị Xuân H ông Vũ Thành C; địa chỉ: sB đường
P, quận T, thành phố Đà Nẵng.
Người đại diện theo y quyền của nguyên đơn: ông Lê Đức T, sinh năm:
1964; Địa chỉ: A L, quận C, thành phố Đà Nẵng; (theo Hợp đồng uỷ quyền ngày
06/7/2021).
Bị đơn: Nguyễn Thị T1; địa chỉ: số D T, quận T, thành phố Đà Nẵng.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ủy ban nhân dân phường A, quận T, thành phố Đà Nẵng; Địa chỉ: B T,
quận T, thành phố Đà Nẵng.
2. Văn phòng đăng đất đai thành phố Đ; Địa chỉ: Tầng A Tòa nhà T
hành chính, số B T, thành phố Đà Nẵng.
3. Ông Đức T, sinh năm: 1964; địa chỉ: A L, quận C, thành phố Đà
Nẵng.
2
NI DUNG V ÁN:
Theo nội dung đơn khởi kiện, bản tự khai, biên bản hòa giải trình bày
tại phiên tòa của đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày:
Vợ chồng Thị Xuân H ông Thành C nhà đất tại thửa đất
số 928 tờ bản đồ số 29, địa chỉ: Thôn V, H, huyện H, thành phố Đà Nẵng
theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sX 526399 vào scấp giấy chứng
nhận số 02510.QSDĐ/9884/QĐ-UB ngày 19/8/2003 do UBND huyện H cấp.
Nhà đất trên thuộc diện giải tỏa dự án mở rộng khu công nghiệp H. Ngày
16/6/2009, H ông C được cấp Phiếu đăng đất tái định tại khu tái
định H, giá trị đền 29.984.900 đồng được cấp phiếu phân đất số 52,
đường 5,5m, theo diện hộ chính tại khu tái định H. Được bố trí theo số
2010/QĐUBND ngày 16/3/2009.
Ngày 14/8/2007, bà H có ủy quyền cho bà T1 với nội dung thay mặt bà giải
quyết các vấn đliên quan đến đất tài sản trên đất của khu đất trên. Trên
sở ủy quyền trên, T1 đã nhận tiền đền bù củaH và tại Bản án số
10/2018/HNGĐ-PT ngày 09/5/2018 của TAND thành phố Đà Nẵng đã buộc
T1 phải trả lại cho bà H số tiền trên.
Ngày 21/8/2017, bà T1 đã nhận Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền
sở hữu ntài sản khác gắn liền với đất số CK117870, số vào sổ cấp giấy
chứng nhận CTsl35280 do Sở Tài nguyên Môi trường thành phố Đ cấp ngày
11/8/2017 cho H và ông C tại thửa đất số 52 tờ bản đồ số B2-4, địa chỉ: Lô E
phân khu B Khu tái định cư H, thôn A, xã H, huyện H, thành phố Đà Nẵng.
Sau đó, H và ông C khởi kiện T1 tại TAND quận Thanh Khê, thành
phố Đà Nẵng; qua nhiều thời gian giải quyết H và ông C phải rút đơn khởi
kiện Tòa án đã đình chỉ giải quyết vụ án, hướng dẫn H ông C kiện lại.
Để hoàn thiện thủ tục kiện lại bà H và ông C đã kiến nghị và Ban giải phóng mặt
bằng huyện H đã trả lời tại Công văn số: 912/BGPMB ngày 17/12/2020; đồng
thời sự việc này đã được hòa giải tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện H, thành phố
Đà Nẵng.
Đối với, Giấy ủy quyền ngày 14/8/2007 Ủy ban nhân dân phường A, quận
T, thành phố Đà Nẵng: Theo quy định tại Điều 563 Bộ luật dân sự 2015 thì
“Thời hạn ủy quyền do các bên thỏa thuận hoặc do pháp luật quy định; nếu
không có thỏa thuận và pháp luật không quy định thì hợp đồng ủy quyền có hiệu
lực 01 năm, kể từ ngày xác lập việc ủy quyền” Ngoài việc theo giấy ủy quyền
nêu trên thì bà H, ông C và bà T1 không có thỏa thuận nào khác. Vì vậy, việc ủy
quyền này hết thời hạn.
Hiện T1 đang quản lý, sử dụng thửa đất số 52 tờ bản đồ số B2-4 giữ
bản gốc Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác
3
gắn liền với đất số CK117870, số vào sổ cấp giấy chứng nhận CTsl35280 do Sở
Tài nguyên Môi trường thành phố Đ cấp ngày 11/8/2017 cho H ông C.
Bà H và ông C đã nhiều lần yêu cầu bà T1 trả lại thửa đất số 52 tờ bản đồ số B2-
4 cùng Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nêu trên nhưng bà T1 không chịu trả
cho rằng đây đất chung của ông T T1. Tuy nhiên, tại Bản án số:
10/2018/HNGĐ-PT ngày 09/5/2018 của TAND TP Đà Nẵng thì bà T1 xác nhận
đây không phải là tài sản chung của ông T và T1. vậy, Lê Thị Xuân H
và ông Vũ Thành C yêu cầu Tòa án:
Tuyên Giấy ủy quyền giữa bà Thị Xuân H Nguyễn Thị T1 được
Ủy ban nhân dân phường A, quận T, thành phố Đà Nẵng chứng nhận ngày
14/8/2007 vô hiệu.
Buộc bà Nguyễn Thị T1 trả lại cho H, ông C thửa đất số 52 tờ bản đồ số
B2-4 và bản gốc Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài
sản khác gắn liền với đất số CK117870, số vào sổ cấp giấy chứng nhận
CTsl35280 do Sở Tài nguyên Môi trường thành phố Đ cấp ngày 11/8/2017
cho bà H, ông C.
Trường hợp T1 không trả lại thửa đất số 52 tờ bản đồ số B2-4 bản
gốc Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nêu trên cho H, ông C hoặc T1
báo mất Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, kính đề nghị Tòa tuyên cho H,
ông C được quyền liên hệ với quan Nhà nước thẩm quyền đlàm thủ tục
đứng tên lô đất trên.
Bị đơn bà Nguyễn Thị T1 trình bày:
Vào khoảng tháng 10 năm 2002, bà T1 mua của hộ ông Huỳnh M diện
tích đất 442m
2
trong thửa đất thổ cư tại thửa 554, tờ bản đồ 19, địa chỉ: Thôn V,
H, huyện H, thành phố Đà Nẵng với số tiền khoảng 10.000.000 đồng. Mọi
giao dịch mua bán, nhận tiền đều thông qua con ông M ông Huỳnh T2; sự
việc này cũng được ông M, bà N1 (vợ ông M) đều đã chết, P (vợ ông T2)
chứng kiến. Ông T2 đã làm giấy xác nhận cho T1 ngày 20.11.2018. Ông T2
đưa cho bà T1 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số I 245067 do UBND huyện
H cấp ngày 06.12.1996 để làm thủ tục. T1 đã nhờ Nguyễn Thị Thanh N,
Lê Thị Xuân H và ông Nguyễn Khắc P đứng tên nên ngày 28.7.2003, đã đăng
biến động cho N, H ông P mỗi người 144 m
2
. Việc thỏa thuận, nhờ
đứng tên hộ giữa tôi và H không văn bản, giấy tờ gì, tuy nhiên sự
chứng kiến của 2 người bà N và ông P.
Ngày 19.8.2003, UBND huyện H cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
cho N (thửa đất 926, tờ bản đồ 99 số vào sổ cấp giấy chứng nhận 02506
QSDĐ/9861/QĐ-UB), H (thửa đất 928, tờ bản đồ 29 số vào số cấp giấy
4
chứng nhận 02510 QSDĐ/9884/QĐ-UB) ông P (thửa đất 927, tờ bản đồ 29
có số vào sổ cấp giấy chứng nhận 02509 QSDĐ/9886/QĐ-UB).
Năm 2007, thành phố chủ trương quy hoạch thu hồi đất, tài sản gắn
liền với đất. N, H ông P đã thông báo tự nguyện làm giấy ủy quyền
cho T1 để liên hệ Ban giải tỏa, đền bù nhận tiền, bàn giao mặt bằng Phiếu
báo được bố trí 01 đất tái định nhận Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất tại Lô E phân khu B Khu tái định H, thôn A, xã H, huyện H, thành phố
Đà Nẵng khi T1 thực hiện đầy đủ nghĩa vụ tài chính pháp luật ban hành.
Trong quá trình T1 thực hiện chủ trương của thành phố về các nghĩa vụ tài
chính thì T1 nộp đầy đủ, được cấp nhận giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất mang tên bà Lê Thị Xuân H và ông Vũ Thành C được Sở Tài nguyên và Môi
trường thành phố Đ cấp Giấy chứng quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà
tài sản khác gắn liền với đất số CK117870 ngày 11.8.2017.
N ông P đã trả lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hđứng
tên cho bà Nguyễn Thị Tuyết . Riêng bà H không chịu sang tên trả cho bà T1. Vì
quá tin tưởng H nên không có giấy tờ thỏa thuận. Hiện tại, T1 đang giữ
bản chính Giấy chứng quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà tài sản khác
gắn liền với đất số CK117870 do Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố Đ cấp
ngày 11/8/2017 cho bà H và ông C.
vậy, bà Nguyễn Thị T1 không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên
đơn, đồng thời yêu cầu Tòa án hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (thửa đất
số 52 phân khu B2.4 khu tái định cư H, thành phố Đà Nẵng) đứng tên Thị
Xuân H ông Thành C công nhận quyền sử dụng đất hợp pháp cho
T1 tại thửa đất số 52 nêu trên.
Nguồn gốc tiền để mua thửa đất nói trên: Vào năm 2003, bà T1 được bố mẹ
T1 ông Nguyễn Khắc V (sinh năm 1943; thường trú tại TDP số F M,
phường M, quận N, Nội) Nguyễn Thị T3 (sinh năm 1945) gửi tiền vào
cho T1 để T1 mua đất. T1 đã mua một mảnh đất tại huyện H, thành
phố Đà Nẵng. Sau đó chia làm ba đất, T1 nhờ Thị Xuân H (sinh
năm 1968; hiện trú tại phường A, quận T, Đà Nẵng) đứng tên giúp bà T1 một
trong số ba lô đất đó, lô đất số 52, phân khu B khu tái định cư H, huyện H, thành
phố Đà Nẵng.
Vì số tiền trên là bố mẹ T1 cho riêng bà T1 để bà T1 mua lô đất trên. Vì
vậy, bà Nguyễn Thị T1 đề nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu phản tố của bà T1.
Theo nội dung tại bản tự khai và trình bày tại phiên tòa của người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan ông Lê Đức T thể hiện:
Thửa đất số 52 nêu trên tài sản của Thị Xuân H ông Thành
C, không phải tài sản chung của ông Lê Đức T và bà Nguyễn Thị Tuyết .
5
Theo nội dung tại Công văn phúc đáp số: 4466/CNHV-ĐKCGCN ngày
07/12/2023 của Chi nhánh Văn phòng Đ tại huyện H, thành phố Đà Nẵng thể
hiện:
Nguồn gốc đất của Thị Xuân H do nhận chuyển nhượng một phần
diện tích thửa đất số 554, tờ bản đồ số 19 của ông Huỳnh M diện tích 144m
2
được UBND huyện H ban hành Quyết định số 9884/QĐ-UB ngày 19/8/2003 cấp
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số X526399 cho bà Lê Thị Xuân H tại thửa
đất số 928, tờ bản đồ số 29, diện tích 144m
2
đất ở.
Sau đó thửa đất trên của Thị Xuân H thuộc diện giải tỏa dự án Khu
công nghiệp H mở rộng, được btrí một chính đất s52 khu B tại khu tái
định cư H, xã H, huyện H, thành phố Đà Nẵng.
Hồ sơ bố trí tái định cư do Trung tâm phát triển quỹ đất thành phố Đà Nẵng
xác lập nộp hồ sơ. Theo hồ thì Thị Xuân H ủy quyền cho
Nguyễn Thị T1 (sinh năm 1973, CMND số 201465716) được UBND phường A,
quận T, thành phố Đà Nẵng xác nhận ngày 14/8/2007 với nội dung “Thay mặt
Lê Thị Xuân H giải quyết các vấn đề liên quan đến đất và tài sản trên đất khu
đất trên như: Xác nhận phần giải tỏa, nhận tiền đền bù, hỗ trợ đất tái định cư,
thanh toán tiền nhận giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Quản lý, sở hữu
đất tái định cư”. Hồ được chuyển đến phòng Tài nguyên Môi trường
huyện H kiểm tra tham mưu, trình UBND huyện H ban hành Quyết định số
2029/QĐ-UBND ngày 03/8/2017 giao đất trên cho ông Thành C
Thị Xuân H sử dụng vào mục đích đất ở tại nông thôn với diện tích 90m
2
.
Sau khi quyết định giao đất nêu trên, Chi nhánh xác lập hồ trình Văn
phòng đăng ký đất đai thành phố Đà Nẵng trình Sở Tài nguyên Môi trường
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn
liền với đất số CK 117870 cấp ngày 11/8/2017, số vào sổ cấp GCN: CTs 135280
đứng tên ông Vũ Thành C và bà Lê Thị Xuân H.
Việc thực hiện các thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền
sở hữu nhà và tài sản khác gắn liền với đất số CK 117870 như nêu trên đảm
bảo đúng trình tự, thủ tục quy định tại thời điểm.
Bản án dân sự thẩm số 87/2023/DS-ST ngày 12 tháng 12 năm 2023 của
Tòa án nhân dân huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng quyết định:
Căn cứ các Điều 26, 35, 39 và Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ Điều 166, Điều 168 của Bộ luật Dân snăm 2015; Điều 255
Điều 256 của Bộ luật dân sự năm 2005.
Căn cứ Điều 167; Điều 203 của Luật đất đai 2013.
Tuyên xử:
6
Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện V/v “Tuyên bố Giấy y quyền giữa
Thị Xuân H Nguyễn Thị T1 được Ủy ban nhân dân phường A, quận
T, thành phố Đà Nẵng chứng thực ngày 14/8/2007 vô hiệu” của Lê Thị Xuân
H và ông Vũ Thành C.
Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện về việc buộc Nguyễn Thị T1 trả
lại cho bà Lê Thị Xuân H, ông Vũ Thành C thửa đất số 52 tờ bản đồ số B2-4, địa
chỉ Lô E khu b2-4, khu tái định cư H, xã H, huyện H, thành phố Đà Nẵng và bản
gốc Giấy chứng quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà tài sản khác gắn liền
với đất số CK117870, số vào sổ cấp giấy chứng nhận CTs 135280 do Sở Tài
nguyên và Môi trường thành phố Đ cấp ngày 11/8/2017.
Chấp nhận yêu cầu phản tố của bà Nguyễn Thị T1 đối với việc “Yêu cầu
công nhận quyền sử dụng đất".
Công nhận thửa đất số 52 tbản đồ số B2-4; địa chỉ E khu B, khu tái
định H, H, huyện H, thành phố Đà Nẵng theo Giấy chứng quyền sdụng
đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CK117870, số vào sổ
cấp giấy chứng nhận CTs 135280 do Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố Đ
cấp ngày 11/8/2017 là của bà Nguyễn Thị Tuyết .
Nguyễn Thị T1 được liên hệ với các quan chức năng thẩm
quyền để làm thủ tục chỉnh lý biến động đối với thửa đất nêu trên.
Ngoài ra, bản án thẩm còn quyết định về án phí dân sự sơ thẩm, chi
phí tố tụng, thi hành án dân sự và quyền kháng cáo của đương sự.
Ngày 25 tháng 12 năm 2023 và ngày 27 tháng 12 năm 2023, bà Thị
Xuân H ông Thành C Đơn kháng cáo, với nội dung: Bản án thẩm
tuyên không đúng, gây ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ hợp pháp của của H,
ông C. Yêu cầu Tòa án phúc thẩm giải quyết chấp nhận toàn bộ yêu cầu của
H, ông C; Không chấp nhận yêu cầu phản tố của bà Nguyễn Thị Tuyết .
- Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 130/2024/DS-PT ngày 16/7/2024, Tòa
án nhân dân thành phố Đà Nẵng đã quyết định:
Căn cứ: Khoản 2 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự;
Chấp kháng cáo của nguyên đơn bà Lê Thị Xuân H và ông Vũ Thành C.
Sửa Bản án dân sự thẩm số 87/2023/DS-ST ngày 12 tháng 12 năm
2023 của Tòa án nhân dân huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng.
Căn cứ:
Các Điều 26, 35, 39, 147, 148, 165, 227, 296 Bộ luật Tố tụng dân sự;
Điều 166, Điều 168, 569 Bộ luật Dân sự năm 2015;
Điều 166; Điều 203 của Luật đất đai 2013;
Điều 26, 29 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12
7
năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Tuyên xử:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Thị Xuân H ông Thành C
đối với bà Nguyễn Thị Tuyết .
Tuyên chấm dứt việc ủy quyền của bà Thị Xuân H cho bà Nguyễn Thị
T1 theo Giấy ủy quyền được Ủy ban nhân dân phường A, quận T, thành phố Đà
Nẵng chứng thực ngày 14/8/2007.
Buộc bà Nguyễn Thị T1 phải trả lại cho bà Lê Thị Xuân H, ông Vũ Thành
Công Q sử dụng; đối với Thửa đất số 52, tờ bản đồ số B2-4, địa chỉ Lô E khu B,
Khu tái định H, H, huyện H, thành phố Đà Nẵng và bản gốc Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà tài sản khác gắn liền với đất số
CK117870, số vào sổ cấp Giấy chứng nhận CTs 135280 do Sở Tài nguyên
Môi trường thành phố Đ cấp ngày 11/8/2017 đứng tên Thị Xuân H, ông
Vũ Thành C.
Không chấp nhận yêu cầu phản tố của Nguyễn Thị T1 đối với
Thị Xuân H, ông Thành C về việc hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CK117870, số vào sổ cấp
giấy chứng nhận CTsl35280 do Sở Tài nguyên Môi trường thành phố Đ cấp
ngày 11/8/2017 công nhận quyền sử dụng thửa đất số 52 tờ bản đồ số B2-4,
địa chỉ E khu B, Khu tái định H, H, huyện H, thành phố Đà Nẵng
của bà Nguyễn Thị Tuyết .
Ngoài ra, Toà án cấp phúc thẩm còn quyết định về án phí, quyền và nghĩa
vụ thi hành án.
Ngày 23/10/2024, bà Nguyễn Thị T1 có Đơn đề nghị xem xét theo thủ tục
giám đốc thẩm đối với bản án dân sự phúc thẩm nêu trên.
Tại Quyết định Kháng nghị giám đốc thẩm số 15/QĐ-VKS-DS ngày
03/3/2025, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp Cao tại Đà Nẵng kháng
nghị đối với Bản án dân sự phúc thẩm số 130/2024/DS-PT ngày 16/7/2024 của
Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng; đề nghị Ủy ban Thẩm phán Toà án nhân
dân cấp Cao Tại Đà Nẵng xét xử giám đốc thẩm, hủy toàn bộ bản án phúc thẩm
số 130/2024/DS-PT ngày 16/7/2024 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng;
giữ nguyên Bản án dân sự thẩm số: 87/2023/DS-ST ngày 12 tháng 12 năm
2023 của Tòa án nhân dân huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng.
Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại
Đà Nẵng đề nghị Hội đồng xét xử giám đốc thẩm chấp nhận kháng nghị của
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng theo hướng hủy toàn
bộ bản án phúc thẩm số 130/2024/DS-PT ngày 16/7/2024 của Tòa án nhân dân
thành phố Đà Nẵng và Bản án dân sự sơ thẩm số: 87/2023/DS-ST ngày 12 tháng
8
12 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng; giao
hồ sơ cho Tòa án nhân dân huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng giải quyết
thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CA TÒA ÁN:
Về nguồn gốc đất: Diện tích đất 442m
2
trong thửa đất thổ tại thửa 554,
tờ bản đồ 19, địa chỉ: Thôn V, xã H, huyện H, thành phố Đà Nẵng có nguồn gốc
của hộ ông Huỳnh M và bà Trần Thị N1.
Năm 2002, ông Huỳnh M chuyển nhượng cho vchồng ông T, T1 một
phần thửa đất trên, theo Giấy xác nhận ngày 12/8/2015 (BL 268) Giấy xác nhận
ngày 20/11/2018 (BL 108) của ông Huỳnh T2 con ông M Biên bản xác
minh ngày 04/4/2022 (BL 319).
Diện tích đất 442m
2
nêu trên được tách thành 03 thửa được UBND
huyện H cấp GCNQSD đất ngày 19/8/2003, bao gồm: Thửa đất 926, đứng tên
Nguyễn Thị Thanh N, thửa đất số 928 đứng tên bà Lê Thị Xuân H và thửa đất
số 927 đứng tên ông Nguyễn Khắc P.
Năm 2007, thành phố Đà Nẵng chủ trương quy hoạch thu hồi đất,
tài sản gắn liền với đất, theo đó bà N, ông P, bà H được nhận tiền giải tòa đền bù
và được cấp mỗi người một lô tái định cư.
Bà H được bố trí cấp 01 lô tái định cư tại thửa đất số 52, tờ bản đồ số B2-
4, địa chỉ: E phân khu B Khu tái định H, thôn A, H, huyện H, thành
phố Đà Nẵng theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà
tài sản khác gắn liền với đất số CK117870, số vào sổ cấp giấy chứng nhận
CTsl35280 do Sở Tài nguyên Môi trường thành phố Đ cấp ngày 11/8/2017
cho bà Lê Thị Xuân H và ông Thành C.
Quá trình giải quyết vụ án, ông Thành C trình bày: Cách đây gần 20
năm, tôi nghe vợ tôi nói rằng nhờ anh T mua đất tại H, huyện H nên
tôi đã giao toàn quyền cho vợ tôi thực hiện tất cả các thủ tục mua đất nên tôi
không biết những vẫn đề cụ thể việc mua đất như thế nào. Thị Xuân H
trình bày bà không nhớ mua đất từ thời điểm nào, không nhớ giá bao nhiêu
chúng tôi giao cho anh T trực tiếp làm; không biết nguồn gốc đất mua của ai, số
tiền bao nhiêu, không biết phải nộp số tiền sử dụng đất bao nhiêu cũng
không đưa số tiền 40.500.000đ đT1 đi nộp tại Trung tâm phát triển quỹ đất
thành phố Đà Nẵng (BL 284, 511).
Mặt khác, Thị Xuân H đã lập Giấy ủy quyền ngày 14/8/2007 ủy
quyền cho Nguyễn Thị T1 với dung “Thay mặt tôi giải quyết các vấn đề liên
quan đến đất tài sản trên đất như: xác nhận phần giải tỏa, nhận tiền đền bù,
hỗ trợ, đất tái định cư, thanh toán tiền nhận giấy chứng nhận QSDĐ. Quản
lý sở hữu lô đất tái định cư.
9
Trên sở giấy ủy quyền ngày 14/8/2007, bà T1 đã thay mặt H nhận
tiền đền số tiền 29.984.900đ tại Ban giải tòa đền các dự án đầu tư, xây
dựng Đà Nẵng, nộp tiền sử dụng đất tại Trung tâm phát triền quỹ đất thành phố
Đà Nẵng với số tiền 40.500.000đ, nhận bản chính Giấy chứng quyền sử dụng
đất.
Các bên đều thừa nhận thửa đất số 52 tờ bản đồ số B2-4, do T1 quản
lý, sử dụng T1 ng đang giữ bản chính Giấy chứng quyền sdụng đất,
quyền shữu nhà và tài sản khác gắn liền với đất đối với thửa đất số 52 nêu
trên. Ngoài việc đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì vợ chồng
Thị Xuân H, ông Thành C không đưa ra được chứng cứ thể hiện việc
tạo lập nên tài sản này.
Như vậy, bản chất của giao dịch nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất
cũng như giấy ủy quyền ngày 14/8/2007 vợ chồng T1 nhờ H (em ruột
ông T) đứng tên giùm trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhằm được nhận
hỗ trợ đền bù và nhận đất tái định cư. Tuy nhiên, quá trình giải quyết vụ án, ông
Lê Đức T xác định thửa đất số 52 là tài sản của vợ chồng bà Lê Thị Xuân H, ông
Thành C chứ không phải tài sản chung ông T1 trong thời kỳ hôn
nhân (BL 457); đồng thời, quá trình giải quyết ly hôn, tranh chấp chia tài sản
chung và nợ chung cả ông T bà T1 đều không yêu cầu chia tài sản chung
thửa đất số 52 nêu trên.
Do đó, Tòa án cấp thẩm công nhận thửa đất số 52 nêu trên của
Nguyễn Thị Tuyết . Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện về việc buộc bà
Nguyễn Thị T1 trả lại cho Thị Xuân H, ông Thành C thửa đất số 52
nêu trên bản gốc Giấy chứng quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà và tài
sản khác gắn liền với đất số CK117870, số vào sổ cấp giấy chứng nhận CTs
135280 do Sở Tài nguyên Môi trường thành phố Đ cấp ngày 11/8/2017
căn cứ.
Về Giấy ủy quyền ngày 14/8/2007, giữa bên ủy quyền là bà Lê Thị Xuân
H bên nhận ủy quyền Nguyễn Thị T1 được chứng thực tại UBND
phường A, quận T, thành phố Đà Nẵng, thì thấy:
Vào năm 2007, thửa đất 928 tờ bản đồ 29 diện tích 144m
2
theo Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số X526399 do UBND huyện H cấp cho
Thị Xuân H thuộc diện giải tỏa dự án Khu Công nghiệp H mở rộng.
Lê Thị Xuân H đã lập Giấy ủy quyền ngày 14/8/2007 ủy quyền cho bà
Nguyễn Thị T1 với dung “Thay mặt tôi giải quyết các vấn đề liên quan đến đất
tàì sản trên đất như: xác nhận phần giải tỏa, nhận tiền đền bù, hỗ trợ, đất tái
định cư, thanh toán tiền và nhận giấy chứng nhận QSDĐ. Quản sở hữu đất
tái định cư”.
10
Trên sở giấy ủy quyền ngày 14/8/2007, Nguyễn Thị T1 đã liên hệ
các quan chức năng để nộp hồ sơ nhận đất tái định cư, nhận tiền hỗ trợ đền
bù, nộp tiền sdụng đất. Sau khi hoàn thành các thủ tục tại Ban giải tỏa đền
thì Lê Thị Xuân H ông Thành C được bố trí cấp 01 lô tái định tại
thửa đất số 52 nêu trên.
Ngày 21/8/2017, bà T1 đã nhận Giấy chứng quyền sử dụng đất, quyền sở
hữu nhà tài sản khác gắn liền với đất số CKU7870. Giấy ủy quyền này
được lập trên sở tự nguyện, không trái với đạo đức hội, tại thời điểm lập
ủy quyền các bên đều năng lực trách nhiệm dân sự đã được chứng thực
của UBND phường A, quận T. Sau khi được ủy quyền Nguyễn Thị T1 đã
thực hiện các công việc được ủy quyền, do đó giấy ủy quyền ngày 14/8/2007
đương nhiên hiệu lực pháp luật. vậy, việc Thị Xuân H, ông
Thành C yêu cầu tuyên bố Giấy ủy quyền ngày 14/8/2007 hiệu không
căn cứ.
Tòa án cấp phúc thẩm tuyên chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Thị
Xuân H và ông Thành C đối với bà Nguyễn Thị Tuyết . Tuyên chấm dứt việc
ủy quyền ngày 14/8/2007. Buộc Nguyễn Thị T1 phải trả lại cho Thị
Xuân H, ông Thành Công Q sử dụng; đối với Thửa đất số 52, tờ bản đồ số
B2-4, địa chỉ E khu B, Khu tái định H, H, huyện H, thành phố Đà
Nẵng và bản gốc Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài
sản khác gắn liền với đất số CK117870, số vào sổ cấp Giấy chứng nhận CTs
135280 do Sở Tài nguyên Môi trường thành phố Đ cấp ngày 11/8/2017 đứng
tên bà Lê Thị Xuân H, ông Vũ Thành C không có căn cứ.
Tòa án cấp thẩm tuyên không chấp nhận yêu cầu khởi kiện về việc
tuyên bố Giấy ủy quyền ngày 14/8/2007 hiệu của Thị Xuân H, ông
Thành C; không chấp nhận yêu cầu khởi kiện về việc buộc Nguyễn Thị T1
trả lại cho bà Lê Thị Xuân H, ông Vũ Thành C thửa đất số 52 tờ bản đồ số B2-4,
địa chỉ E khu b2-4, khu tái định cư H, H, huyện H, thành phố Đà Nẵng
bản gốc Giấy chứng quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà và tài sản khác gắn
liền với đất số CK117870, số vào sổ cấp giấy chứng nhận CTs 135280 do Sở Tài
nguyên và Môi trường thành phố Đ cấp ngày 11/8/2017 là có căn cứ.
Tuy nhiên, Tòa án cấp thẩm chưa tính công sức đứng tên dùm cho
Thị Xuân H, ông Thành C ảnh hưởng đển quyền lợi của H, ông C;
do đó cần hủy bản án thẩm, phúc thẩm để giải quyết lại, đảm bảo quyền lợi
cho các bên.
Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử chấp nhận kháng nghị giám
đốc thẩm của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng theo
hướng hủy toàn bộ bản án phúc thẩm số 130/2024/DS-PT ngày 16/7/2024 của
11
Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng và Bản án dân sự sơ thẩm số: 87/2023/DS-
ST ngày 12 tháng 12 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Hòa Vang, thành
phố Đà Nẵng; giao hồ cho Tòa án nhân dân huyện Hòa Vang, thành phố Đà
Nẵng giải quyết sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật..
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 337, Điều 343, Điều 345 của Bộ luật Tố tụng
dân sự;
1. Chấp nhận Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 15/QĐ-VKS-DS ngày
03/3/2025 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng.
2. Hủy toàn bộ bản án phúc thẩm số 130/2024/DS-PT ngày 16/7/2024 của
Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng và Bản án dân sự sơ thẩm số: 87/2023/DS-
ST ngày 12 tháng 12 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Hòa Vang, thành
phố Đà Nẵng đối vi v án “Yêu cầu tuyên bố hợp đồng ủy quyền vô hiệu và đòi
tài sản” giữa nguyên đơn Lê Thị Xuân H và ông Vũ Thành C vi b đơn
Nguyễn Thị T1 và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
3. Giao hồ vụ án cho Tòa án nhân dân huyện Hòa Vang, thành phố Đà
Nẵng để xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm, đúng quy định của pháp luật.
Quyết định giám đốc thẩm hiệu lực pháp luật kể từ ngày Hội đồng giám
đốc thẩm ra quyết định.
Nơi nhận:
- VKSNDCC tại Đà Nẵng;
- Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng;
- Tòa án nhân dân huyện Hòa Vang,
thành phố Đà Nẵng (kèm theo hồ sơ vụ án);
- Chi cục Thi hành án dân sự
huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng;
- Các đương sự (theo địa chỉ);
- Lưu: hồ sơ vụ án.
TM. ỦY BAN THẨM PHÁN
THẨM PHÁN- CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(Đã ký)
Nguyễn Văn Tào
Tải về
Quyết định số 11/2025/DS-GĐT Quyết định số 11/2025/DS-GĐT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Quyết định số 11/2025/DS-GĐT Quyết định số 11/2025/DS-GĐT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Quyết định cùng lĩnh vực

Quyết định mới nhất