Bản án số 77/2023/HS-PT ngày 19-09-2023 của TAND tỉnh Bình Phước về tội chứa mại dâm
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng tội danh
- Tải về
-
77_2023_HS-PT_ BINH PHUOC
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
77_2023_HS-PT_ BINH PHUOC
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Thuộc tính Bản án 77/2023/HS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 77/2023/HS-PT ngày 19-09-2023 của TAND tỉnh Bình Phước về tội chứa mại dâm |
---|---|
Tội danh: | 254.Tội chứa mại dâm (Bộ luật hình sự năm 1999) |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Bình Phước |
Số hiệu: | 77/2023/HS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 19/09/2023 |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ án: | Lâm Thị Ph phạm tội chứa mại dâm |
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH PHƯỚC -------------- Bản án số: 77/2023/HS-PT Ngày: 19-9-2023 |
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ---------------- |
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH PHƯỚC
BẢN ÁN 77/2023/HS-PT NGÀY 19/09/2023 VỀ TỘI CHỨA MẠI DÂM
Ngày 19 tháng 9 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bình Phước tiến hành xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 72/2023/TLPT-HS ngày 21 tháng 7 năm 2023 đối với bị cáo Lâm Thị Ph do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 37/2023/HS-ST ngày 08 tháng 6 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Hớn Q, tỉnh Bình Phước.
Bị cáo Lâm Thị Ph, sinh năm 1983 tại: Bến Tre. Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nữ; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Buôn bán; Trình độ học vấn: 05/12; Nơi đăng ký HKTT: tổ 02, ấp Sóc Bế, xã Thanh Ph, thị xã Bình L, tỉnh Bình Phước; Nơi cư trú: tổ 5, ấp Xa C, xã Thanh B, huyện Hớn Q, tỉnh Bình Phước; Con ông Lâm Văn U, sinh năm 1954 và bà Võ Thị Ánh N, sinh năm 1962; Bị cáo có 02 em ruột, lớn nhất sinh năm 1984, nhỏ nhất sinh năm 1995; Bị cáo có chồng là Nguyễn Tiến Kh, sinh năm 1984 và 01 con sinh năm 2018. Tiền án, Tiền sự: Không.
Ngoài ra vụ án còn có người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khác nhưng không có kháng cáo, kháng nghị và không xem xét nên không triệu tập.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào ngày 15/11/2022 Lâm Thị Ph thuê nhà của anh Bùi Ngọc Th ở tổ 7, ấp Xa C, xã Thanh B, huyện Hớn Q, tỉnh Bình Phước để mở và kinh doanh quán cà phê “V”, tuy nhiên Ph chưa đăng ký kinh doanh, ngoài việc bán cà phê Ph còn tự mình bán dâm cho khách để tăng thêm thu nhập.
Đến đầu tháng 12/2022 Ph thuê thêm Dương Hồng Kh đến quán làm nhân viên vừa phục vụ nước uống cho khách vừa phục vụ bán dâm cho khách đến uống nước có nhu cầu mua dâm. Khi đến quán làm, Ph cho Kh ở lại quán và thu của Kh số tiền 500.000 đồng tiền ăn ở sinh hoạt, chi phí mua dụng cụ dùng vào việc mua bán dâm ngay tại quán như bao cao su, khăn giấy. Mỗi lần Kh bán dâm xong Kh phải trả cho Ph số tiền 50.000 đồng/1 lần bán dâm bao gồm tiền nước 20.000đ và tiền bán dâm 30.000đ.
Vào khoảng 12h ngày 22/12/2022, khi Ph đang ở quán thì có Trần Văn S và Lê Minh Q đi tới quán uống nước và hỏi mua dâm của Kh, do Kh đi vắng nên Q, S này chỉ uống nước rồi đi về.
Trưa ngày 23/12/2022, S, Q tiếp tục đến quán nước và vào võng nằm. Ph hỏi S, Q uống nước gì rồi đi vào quầy pha đưa cho Kh rồi nói: “Hai anh này hôm qua tìm em” nên Kh bưng nước ra nói chuyện với S, Q và hỏi “Hai anh có mát xa không”, lúc này S nói: “có đi thẳng không” (Ph đứng gần nghe và hiểu là có quan hệ tình dục không) thì Kh trả lời là “có”. Sau đó, S tiếp tục hỏi giá một lần quan hệ tình dục là bao nhiêu thì Kh trả lời là 500.000 đồng/ người thì cả S và Q đồng ý. Sau đó, Kh đưa S vào trong phòng ngủ của quán quan hệ tình dục trước, khoảng 10 phút sau khi quan hệ tình dục xong S đưa cho Kh số tiền 500.000đ, rồi cả hai đi ra ngoài, S ra võng nằm còn Kh cầm bịch nylong màu đen bên trong đựng bao, vỏ bao cao su vừa mới sử dụng xong đem ra cửa phía hông nhà bỏ vào thùng rác. Kh tiếp tục vào đưa Q vào phòng ngủ để quan hệ tình dục, khi quan hệ tình dục được khoảng 5 phút thì bị Công an huyện Hớn Q kiểm tra phát hiện Kh đang bán dâm cho Q nên lập biên bản phạm tội quả tang.
Vật chứng đã thu giữ:
- Số tiền 1.000.000đ là số tiền Q và S trả cho Kh khi mua dâm.
- 02 bao cao su đã qua sử dụng cùng với 02 vỏ bao cao su, trong đó 01 bao cao su, 01 vỏ bao thu tại phòng ngủ của quán; 01 bao cao su, 01 vỏ bao thu trong túi màu đen bỏ trong sọt rác; cả hai vỏ bao có nhãn hiệu SURETEX.
- 01 mảnh giấy khô màu trắng đã qua sử dụng; 03 mảnh khăn ướt mầu trắng đã qua sử dụng tại sọt rác giáp cửa hông của quán.
- Số tiền 310.000đ thu giữ trong túi xách màu nâu đặt trên tủ thờ, đây là số tiền bán nước và tiền Ph bán dâm ngày 22/12/2022.
- 12 bao cao su nhãn hiệu SURETEX chưa qua sử dụng; 01 bao cao su nhãn hiệu DOCTER chưa qua sử dụng; 01 bao cao su nhãn hiệu Beautiful Dream chưa qua sử dụng; 01 bịch khăn ướt mầu trắng; 09 mảnh giấy khô màu trắng; 15 bịch nilong màu đen chưa qua sử dụng; 01 bịch nylong màu đen đã qua sử dụng; 02 sọt nhựa màu đỏ.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số thẩm số 37/2023/HSST ngày 08 tháng 6 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Hớn Q, tỉnh Bình Phước quyết định:
Tuyên bố: Bị cáo Lâm Thị Ph phạm tội: “Chứa mại dâm”.
Áp dụng điểm c khoản 02 điều 327, điểm s khoản 1, 2 Điều 51, Điều 54, Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Tuyên xử bị cáo Lâm Thị Ph 02 (hai) năm 02 (hai) tháng tù. Thời hạn tính tù kể từ ngày chấp hành án, khấu trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 23/12/2022 đến ngày 19/01/2023.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.
Ngày 14/6/2023, bị cáo Lâm Thị Ph có đơn kháng cáo xin được hưởng án treo.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
- Bị cáo giữa nguyên yêu cầu kháng cáo xin được hưởng án treo.
- Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Phước tại phiên tòa phúc thẩm: Vào ngày 20/12/2022 Kh đưa cho Ph số tiền 50.000đ là tiền Kh bán dâm cho khách, nhưng lần bán dâm này Ph không biết và không có đủ căn cứ chứng minh Ph có hành vi chứa mại dâm vào ngày 20/12/2022. Vì vậy đề nghị hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 327 Bộ luật hình sự, căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; điểm e khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, sửa một phần bản án hình sự sơ thẩm số 37/2023/HSST ngày 08 tháng 6 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Hớn Q, tỉnh Bình Phước về phần hình phạt theo hướng chấp nhận kháng cáo xin được hưởng án treo của bị cáo Lâm Thị Ph.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên cơ sở nội dung vụ án, các chứng cứ, tài liệu trong hồ sơ vụ án và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định:
[1] Đơn kháng cáo của bị cáo Lâm Thị Ph được làm trong thời hạn luật định, có nội dung và hình thức phù hợp với quy định tại các Điều 331, 332, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự nên được xem xét theo trình tự phúc thẩm.
[2] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Lâm Thị Ph thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung bản án sơ thẩm đã nhận định. Do đó, đủ căn cứ xác định: Vào tháng 11/2022 Lâm Thị Ph thuê mặt bằng kinh doanh quán cà phê – nước giải khát “Tường Vy” tại tổ 7, ấp Xa C, xã Thanh B, huyện Hớn Q, tỉnh Bình Phước. Quá trình kinh doanh vào đầu tháng 12/2022, Ph thuê Dương Hồng Kh làm tiếp viên và sắp xếp cho Kh nhiều lần thực hiện hành vi bán dâm cho khách tại phòng ngủ của quán để thu số tiền 50.000 đồng sau khi Kh và khách quan hệ tình dục dưới hình thức mua bán dâm xong. Khoảng 12h00 ngày 23/12/2022, khi Ph tiếp tục để cho Kh lần lượt bán dâm cho Trần Văn S và Lê Minh Q tại phòng ngủ của quán bị lực lượng Công an kiểm tra, bắt quả tang, ngoài ra qua quá trình điều tra còn xác định vào ngày 20/12/2022 Kh đưa cho Ph số tiền 50.000đ là tiền Kh bán dâm cho khách, tuy nhiên vào thời điểm này Ph không biết về hành vi Kh bán dâm cho khách và bị cáo Ph tưởng đây là tiền bán nước giải khát và cũng không xác định được khách mua dâm là ai. Do đó, không đủ căn cứ chứng minh vào ngày 20/12/2022 bị cáo Ph thực hiện hành vi chứa mại dâm thành một lần phạm tội độc lập, cần áp dụng nguyên tắc có lợi cho bị cáo, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Chứa mại dâm”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 điều 327 Bộ luật hình sự. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm tuyên bố bị cáo Lâm Thị Ph phạm tội “Chứa mại dâm”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 02 điều 327 Bộ luật hình sự là chưa phù hợp với những tình tiết có trong hồ sơ vụ án.
[3] Xét kháng cáo xin được hưởng án treo của bị cáo Lâm Thị Ph thấy rằng: Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét cho bị cáo hưởng các tình tiết giảm nhẹ như: là thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, có nhân thân tốt; phạm tội lần đầu, bị cáo có hoàn cảnh gia đình đặc biệt khó khăn (được địa phương xác nhận) như: Đặc biệt khó khăn về kinh tế; chồng bị cáo đã đi khỏi địa phương, một mình bị cáo nuôi con nhỏ sinh năm 2018, là lao động chính trong gia đình nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Đây là các tình tiết giảm nhẹ quy định tại định tại khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo với mức 02 (hai) năm 02 (hai) tháng tù là có căn cứ. Bị cáo Lâm Thị Ph không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Tuy nhiên, Hội đồng xét xử xét thấy, tại quá trình gỉai quyết phúc thẩm bị cáo Lâm Thị Ph đã cung cấp thêm Quyết định số 74/2023/QĐCNTTLH ngày 07/7/2023 của Tòa án nhân dân thị xã Bình L, tỉnh Bình Phước về Công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các bên tham gia hòa giải tại tòa án, đơn xin giảm án và có xác nhận của Công an xã Thanh Ph, thị xã Bình L, tỉnh Bình Phước, hiện bị cáo đang một mình nuôi con nhỏ sinh năm 2018. Xét thấy bị cáo là người có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự, bị cáo phạm tội lần đầu, sau khi phạm tội bị cáo đã ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Xét bị cáo có nơi cư trú rõ ràng, có khả năng tự cải tạo mà không cần thiết phải cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội, bị cáo đủ điều kiện cho hưởng án treo theo quy định tại Điều 65 Bộ luật Hình sự. Do đó, cần chấp nhận kháng cáo của bị cáo, sửa bản án sơ thẩm về phần hình phạt theo hướng giữ nguyên mức hình phạt 02 (hai) năm 02 (hai) tháng nhưng cho bị cáo được hưởng án treo với thời gian thử thách 04 năm 04 tháng kể từ ngày tuyên án phúc thẩm.
[4] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa phúc thẩm là phù hợp với Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[6] Án phí phúc thẩm: Bị cáo không phải chịu.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 355, điểm e khoản 1 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Chấp nhận kháng cáo xin hưởng án treo của bị cáo Lâm Thị Ph.
Sửa một phần Bản án hình sự sơ thẩm số 37/2023/HSST ngày 08 tháng 6 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Hớn Q, tỉnh Bình Phước về phần hình phạt đối với các bị cáo Lâm Thị Ph.
Tuyên bố bị cáo Lâm Thị Ph phạm tội “Chứa mại dâm”.
Áp dụng khoản 01 điều 327, điểm s khoản 1, 2 Điều 51, Điều 38; Điều 65 của Bộ luật Hình sự 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017, Điều 2 Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao.
Xử phạt bị cáo Lâm Thị Ph 02 (hai) năm 02 (hai) tháng nhưng cho bị cáo được hưởng án treo với thời gian thử thách 04 năm 04 tháng kể từ ngày tuyên án phúc thẩm.
Giao bị cáo cho Uỷ ban nhân dân xã Thanh Ph, thị xã Bình L, tỉnh Bình Phước quản lý, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách.
Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 Luật thi hành án hình sự. Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì thời gian cho hưởng án treo được tính vào thời hạn tù. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Toà án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
2. Án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo không phải chịu.
3. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Thành viên Hội đồng xét xử
Lê Viết Phong Bùi Thanh Thảo |
Thẩm phán Chủ tọa phiên tòa
Bùi Văn Bình |
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!