Bản án số 660/2023/HS-PT ngày 12/09/2023 của TAND cấp cao về tội vận chuyển trái phép chất ma túy
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng tội danh
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án 660/2023/HS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án 660/2023/HS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 660/2023/HS-PT
| Tên Bản án: | Bản án số 660/2023/HS-PT ngày 12/09/2023 của TAND cấp cao về tội vận chuyển trái phép chất ma túy |
|---|---|
| Tội danh: | 250.Tội vận chuyển trái phép chất ma túy (Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015) |
| Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
| Tòa án xét xử: | TAND cấp cao |
| Số hiệu: | 660/2023/HS-PT |
| Loại văn bản: | Bản án |
| Ngày ban hành: | 12/09/2023 |
| Lĩnh vực: | Hình sự |
| Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Thông tin về vụ án: | Tô Đình T tội vận chuyển trái phép chất ma túy |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh Phúc
Bản án số: 660/2023/HS-PT
Ngày: 12-9-2023
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Ông Trần Văn Mười
Thẩm phán: Ông Dương Tuấn Vinh
Bà Nguyễn Thị Thúy Hòa
- Thư ký phiên tòa: Ông Thân Văn Nhường - Thư ký Tòa án nhân dân cấp cao
tại Thành phố Hồ Chí Minh.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh tham
gia phiên tòa: Ông Lê Công Thành – Kiểm sát viên.
Ngày 12 tháng 9 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố
Hồ Chí Minh xét xử công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 446/2023/TLPT-
HS ngày 21/6/2023. Do có kháng cáo của bị cáo Tô Đình T đối với Bản án hình sự
sơ thẩm số 229/2023/HS-ST ngày 18/5/2023 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ
Chí Minh.
Bị cáo có kháng cáo: Tô Đình T; giới tính: N; sinh năm: 1967 tại Thành phố
Hồ Chí Minh; nơi đăng ký thường trú: 2 N, Phường B, Quận C, Thành phố Hồ Chí
Minh; chỗ ở: P, nhà số H C, Phường D, Quận H, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề
nghiệp: Không có; trình độ học vấn: 5/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch:
Việt Nam; con ông Tô Hòa S (chết) và bà Ngụy Thị S1 (chết); hoàn cảnh gia đình:
có vợ và 02 con, lớn sinh năm 1991, nhỏ sinh năm 2016; tiền án, tiền sự: Không.
Nhân thân:
- Ngày 16/8/1988, Tòa án nhân dân tỉnh Bình Trị Thiên xử phạt 03 năm tù, tội
“Tổ chức người khác trốn đi nước ngoài trái phép”, theo Bản án số 76/HSST, đã
chấp hành xong hình phạt tù. Tại Cục Thi hành án dân sự tỉnh Thừa Thiên Huế (B)
không có hồ sơ thi hành án đối với Tô Đình T.
- Ngày 12/7/2006, Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xử phạt
07 năm 06 tháng tù giam về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo Bản án số
427/2006/HSST. Chấp hành án tại Trại giam T2 (Z30D), đến 06/11/2010 thì chấp
hành xong hình phạt tù. Chi Cục Thi hành án dân sự Quận 1 chưa thụ lý thi hành án
đối với Quyết định ủy thác số 228/QĐ-THA ngày 25/9/2006 của Chi Cục Thi hành
án dân sự thành phố Biên Hòa – Đồng Nai.
Bị bắt, tạm giam từ ngày 04/4/2022 (có mặt).
- Người bào chữa chỉ định cho bị cáo: Ông Vũ Thanh H – Luật sư của Văn
phòng luật sư Vũ Thanh H thuộc Đoàn Luật sư Thành phố H. (có mặt).

2
Ngoài ra trong vụ án còn có người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không liên
quan đến kháng cáo của bị cáo nên Tòa án không triệu tập.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án
được tóm tắt như sau:
Vào lúc 14 giờ 15 phút ngày 03/4/2022, Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về
ma túy Công an Thành phố H phối hợp với Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về ma
túy – Bộ C tuần tra đến khu vực đường T, phường T, Quận A, Thành phố Hồ Chí
Minh thì phát hiện Tô Đình T đang điều khiển xe gắn máy biển số 86N1-4493 chở
01 thùng carton, có biểu hiện nghi vấn nên yêu cầu dừng xe kiểm tra. T không chấp
hành mà điều khiển xe bỏ chạy đến khu vực giao lộ đường T và đường H, phường
T, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh thì đánh rơi thùng carton và trốn thoát. Vật
chứng thu giữ là 01 thùng carton bên ngoài ghi chữ “Cuckoo”, bên trong chứa 15
gói nylon màu xanh - vàng có in chữ “QING SHAN” và hình ấm trà chứa tinh thể
không màu qua giám định là ma túy ở thể rắn, có tổng khối lượng 14.913,36 gram
loại Methamphetamine.
Qua truy xét, đến 15 giờ cùng ngày, tổ công tác phát hiện Tô Đình T tại trạm
xe buýt trên đường T, phường C, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh nên mời về trụ
sở Công an phường C làm việc và T đã khai nhận hành vi vận chuyển 01 thùng
carton bên ngoài có in hình nồi cơm điện ghi chữ “Cuckoo”, bên trong chứa ma túy
do đó tiến hành bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp đối với Tô Đình T.
Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố H tiến hành khám xét khẩn cấp
chỗ ở của Tô Đình T tại phòng số A, nhà số H đường C, Phường D, Quận H, Thành
phố Hồ Chí Minh. Kết quả khám xét không thu giữ đồ vật, tài liệu nào có liên quan
đến vụ án.
Căn cứ lời khai của Tô Đình T, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố
H đã thu giữ 01 xe gắn máy biển số 86N1-4493, 01 phiếu giữ xe gắn máy tại chung
cư N, Phường A, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.
Kết quả rà soát camera và cho nhận dạng, Tô Đình T xác nhận chính T là người
đã chở 01 túi nylon màu trắng đựng 01 thùng carton màu trắng – đỏ, bên trong chứa
ma túy như đã nêu trên.
Tất cả ma túy thu giữ của bị can trong vụ án đã được giám định, kết quả thể
hiện tại bản kết luận giám định số 2006/KLGĐ-H ngày 12/4/2022 của Phòng K
Công an Thành phố H.
Tô Đình T khai nhận: Khoảng tháng 12/2021, T quen biết một người đàn ông
tên T1 (không rõ lai lịch), T1 thuê T vận chuyển ma túy cho T1 và hứa sẽ trả công,
T đồng ý. Ngày 03/4/2022, T1 yêu cầu T đến gặp T1 trên đường T, Quận A, Thành
phố Hồ Chí Minh nhận 01 thùng chứa ma túy đá và mang đến đường T, Quận A,
giao cho một người đàn ông tên H1 (không rõ lai lịch), tiền công là 5.000.000 đồng.
T đồng ý và điều khiển xe gắn máy biển số 86N1-4493 đến điểm hẹn nhận 01 thùng
carton màu trắng – đỏ, bên ngoài thùng carton có in hình nồi cơm điện ghi chữ
“Cuckoo” chứa ma túy đá chở đi giao theo yêu cầu của T1. Khi đến khu vực đường
T, phường T, Quận A, T bị Công an yêu cầu dừng xe kiểm tra nên đã tăng ga xe bỏ

3
chạy làm rơi thùng carton chứa ma túy xuống đường. T tiếp tục điều khiển xe bỏ
trốn và gửi xe máy tại chung cư N, địa chỉ số G đường N, Phường A, quận B, Thành
phố Hồ Chí Minh. Sau đó, T đi bộ ra trạm xe buýt tại khu vực đường T, phường C,
Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh để đón xe về nhà thì bị Công an phát hiện.
Đối với các đối tượng tên T1, H1 do Tô Đình T khai không rõ lai lịch, địa chỉ
nên Cơ quan Cảnh sát điều tra không có căn cứ xác minh làm rõ để xử lý.
Tại bản cáo trạng số 179/CT-VKSTPHCM-P1 ngày 27/3/2023 của Viện kiểm
sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố: Bị cáo Tô Đình T về tội “Vận
chuyển trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 4 Điều 250 Bộ luật Hình sự.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 229/2023/HS-ST ngày 18/5/2023 của Tòa án
nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã tuyên xử:
Tuyên bố bị cáo Tô Đình T phạm tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”.
- Áp dụng điểm b khoản 4, khoản 5 Điều 250; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều
40 Bộ luật Hình sự.
+ Xử phạt: Tô Đình T tử hình. Bị cáo bị bắt, tạm giam từ ngày 04/4/2022, tiếp
tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.
+ Buộc bị cáo nộp phạt số tiền 30.000.000 đồng để nộp Ngân sách Nhà nước.
Ngoài ra bản án sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, án phí, quyền kháng
cáo theo quy định.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 24/5/2023 bị cáo Tô Đình T có đơn kháng cáo xin
giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Tô Đình T vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh tham gia
phiên tòa phát biểu: Về thủ tục tố tụng: Người tiến hành tố tụng và người tham gia
tố tụng thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, đơn kháng cáo
trong hạn luật định. Về nội dung vụ án, quyết định của bản án sơ thẩm đúng như
Chủ tọa phiên tòa tóm tắt. Về nội dung: Đại diện Viện kiểm sát phân tích tính chất,
mức độ hành vi phạm tội và xét kháng cáo của bị cáo Tô Đình T nhận thấy bản án
của Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo là có căn cứ, đã xem xét đầy đủ các tình tiết
có trong hồ sơ vụ án, các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Đề
nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355 của Bộ luật Tố tụng hình
sự, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Tô Đình T, giữ nguyên bản án hình sự sơ
thẩm của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.
Người bào chữa cho bị cáo là luật sư Vũ Thanh H trình bày: Bị cáo ăn năn hối
cải, biết được sai phạm của mình, hoàn cảnh bị cáo khó khăn, có 2 đứa con, 1 đứa
con còn đi học, bị cáo không biết được hàng vận chuyển là ma túy, do T1 nói với bị
cáo là hàng cấm nên bị cáo nghĩ đó là vật liệu nổ. Từ đó, mong Hội đồng xét xử xem
xét cho bị cáo mức án phù hợp thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.
Bị cáo bổ sung: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, bị cáo bị T1 lừa dối nên đã
vận chuyển khối lượng lớn chất mà bị cáo cho rằng đó là vật liệu nổ. Mong Hội đồng
xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

4
Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo xin Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo
giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN;
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được
thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] V thủ tục tố tụng: Kháng cáo của bị cáo Tô Đình T trong hạn luật định,
được xem xét theo trình tự phúc thẩm.
[2] Xét kháng cáo:
[2.1] Về hành tội danh:
Tại phiên tòa, bị cáo Tô Đình T thừa nhận hành vi phạm tội, lời khai nhận tội
của bị cáo phù hợp với hình ảnh trích xuất camera và các tài liệu, chứng cứ khác như
biên bản thu giữ vật chứng, biên bản ghi lời khai người làm chứng cùng các biên bản
hoạt động điều tra khác, có căn cứ kết luận: Khoảng 14 giờ ngày 03/4/2022, Tô Đình
T điều khiển xe gắn máy biển số 86N1-4493 đến nhận 01 thùng carton, bên trong có
chứa ma túy của đối tượng T1 (không rõ lai lịch) tại khu vực đường T, Quận A. Sau
đó giao cho đối tượng H1 (không rõ lai lịch) tại khu vực đường T, phường T, Quận
A, Thành phố Hồ Chí Minh để hưởng tiền công 5.000.000 đồng thì bị công an phát
hiện bắt giữ.
Với hành vi nêu trên, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Tô Đình T phạm tội
“Vận chuyển trái phép chất ma túy”, tội danh và hình phạt quy định tại điểm b khoản
4, khoản 5 Điều 250 Bộ luật hình sự là có căn cứ và đúng pháp luật, đúng người,
đúng tội, không oan, không sai.
[2.2] Về hình phạt:
Hành vi của bị cáo đã xâm phạm trực tiếp đến chế độ độc quyền quản lý chất
ma túy của Nhà nước. Với tính chất vụ án đặc biệt nghiêm trọng, hành vi phạm tội
của bị cáo gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội, bị cáo đã tham gia vận chuyển trái
phép ma túy có khối lượng rất lớn. Bị cáo nhận thức rõ ma túy là chất độc có hại cho
sức của con người, khi sử dụng sẽ bị lệ thuộc và nó tàn phá cơ thể con người, là
nguyên nhân gây ra nhiều tác hại xấu cho xã hội nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện
hành vi phạm tội nên hành vi của bị cáo cần phải xử lý nghiêm để đảm bảo tính răn
đe, giáo dục và phòng ngừa tội phạm trong xã hội.
Khi lượng hình, Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ
đối với bị cáo, tuy nhiên khối lượng ma túy bị cáo vận chuyển đặc biệt lớn là
14.913,36 gram ma túy ở thể rắn loại Methamphetamine, hơn nữa bị cáo có nhân
thân xấu đã nhiều lần bị đưa ra xét xử về cùng loại tội. Do vậy căn cứ tính chất mức
độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, cần áp dụng hình phạt cao nhất là loại trừ vĩnh
viễn bị cáo Tô Đình T ra khỏi đời sống xã hội mới đảm bảo được tính phòng ngừa
chung như nhận định của cấp sơ thẩm là có căn cứ, tương xứng với tính chất, mức
độ nguy hiểm do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Tô Đình T có kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt
nhưng không có tài liệu, chứng cứ mới so với những tình tiết đã được cấp sơ thẩm
áp dụng để làm căn cứ cho Hội đồng xét xử xem xét, do vậy Hội đồng xét xử không

5
có cơ sở chấp nhận kháng cáo của bị cáo cũng như lời bào chữa của Luật sư. Quan
điểm của Viện kiểm sát phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp
nhận.
Từ những phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị của Kiểm sát
viên, không chấp nhận lời trình bày của bị cáo T và Luật sư, bác toàn bộ kháng cáo
của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
[3] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị
kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[4] V án ph hnh sự: Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo Tô
Đình T phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015; Áp
dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ
Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ
phí Tòa án.
- Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Tô Đình T. Giữ nguyên Bản án hình
sự sơ thẩm số 229/2023/HS-ST ngày 18/5/2023 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ
Chí Minh.
Tuyên xử:
1/ Căn cứ điểm b khoản 4, khoản 5 Điều 250; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 40
Bộ luật Hình sự,
- Xử phạt bị cáo Tô Đình T tử hình về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”.
- Buộc bị cáo nộp phạt số tiền 30.000.000 đồng để nộp Ngân sách Nhà nước.
Trong thời hạn 7 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo Tô Đình T được quyền làm
đơn gửi Chủ tịch N1 để xin ân giảm án tử hình.
Hội đồng xét xử tiếp tục tạm giam bị cáo Tô Đình T để đảm bảo thi hành án.
2/ Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có
hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết hạn kháng cáo, kháng nghị.
3/ Bị cáo Tô Đình T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- Tòa án nhân dân tối cao;
- VKSNDCC tại TP. Hồ Chí Minh;
- TAND TP. Hồ Chí Minh (2);
- VKSND TP. Hồ Chí Minh;
- Công an TP. Hồ Chí Minh;
- Sở tư pháp TP. Hồ Chí Minh;
- Cục THADS TP. Hồ Chí Minh;
- Trại tạm giam CA TP. Hồ Chí Minh;
- Bị cáo (1);
- Lưu HSVA(2). VP(5) 17b. (LTTT).
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TOÀ
Trần Văn Mười
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 28/12/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 26/09/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 26/09/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Bản án số 18/2023/HS-ST ngày 24-08-2023 của TAND TP. Cần Thơ về tội vận chuyển trái phép chất ma túy
Ban hành: 24/08/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 22/08/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 22/06/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 20/06/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 19/06/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 16/06/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 13/06/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 09/06/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 30/05/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 25/05/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 22/05/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 17/05/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 28/04/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 25/04/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 05/04/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 21/03/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm