Bản án số 547/2025/DS-PT ngày 27/05/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp đất đai đối với đất nông nghiệp để trồng cây lâu năm, đất lâm nghiệp để trồng rừng, đất ở

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 547/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 547/2025/DS-PT ngày 27/05/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp đất đai đối với đất nông nghiệp để trồng cây lâu năm, đất lâm nghiệp để trồng rừng, đất ở
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp đất đai đối với đất nông nghiệp để trồng cây lâu năm, đất lâm nghiệp để trồng rừng, đất ở
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND cấp cao tại TP.HCM
Số hiệu: 547/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 27/05/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Lê Công T (người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của ông Lê Công T gồm các ông, bà
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Bản án số: 547/2025/DS-PT
Ngày 27 tháng 5 năm 2025
“V/v Tranh chấp quyền sử dụng đất
yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Bà Trần Thị Thuý Hồng
Các Thẩm phán: Ông Lê Hoàng Tấn
Ông Ngô Đức Thọ
- Thư ký phiên tòa: Nguyễn Trung Kiên - Thư ký Tòa án nhân dân cấp cao tại
Thành phố Hồ Chí Minh.
- Đại diện Viện kiểm t nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
tham gia phiên tòa: Bà Trần Thị Huệ - Kiểm sát viên.
Trong các ngày 23, 27 tháng 5 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao
tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự phúc thẩm
thụ số: 418/2025/TLPT-DS ngày 20 tháng 3 năm 2025 về việc“Tranh chấp
quyền sử dụng đất và yêu cầu huỷ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”.
Do Bản án dân sự thẩm số: 102/2024/DS-ST ngày 18 tháng 12 năm 2024
của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 1669/2025/QĐPT-DS
ngày 08 tháng 5 năm 2025 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông Lê Công T (chết ngày 28/5/2002).
Người kế thừa quyền, nghĩa vụ t tụng của nguyên đơn:
1.1. Ông Lê Công H, sinh năm 1976; địa chỉ thường trú: D, đường C,
Phường A, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh; có mặt.
1.2. Thúy N, sinh năm 1955; địa chỉ thường trú: 412, đường C,
Phường A, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh; có mặt.
1.3. Bà Ngọc H1, sinh năm 1970; địa chỉ thường trú: D, đường C,
Phường A, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh; có mặt.
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của Ngọc H1 : Luật
Trần Thị Thu H2 - Văn phòng L4, thuc Đoàn Luật sư Thành phố H; có mặt.
1.4. Ông Công T1, sinh năm 1974; địa chỉ thường trú: 410, đường C,
Phường A, quận T, Thành ph Hồ Chí Minh; địa chỉ tạm trú: 8/4, khu phố C,
phường C, thành phố T, tỉnh Bình Dương; vắng mặt.
2
Người đại diện hợp pháp của ông Công T1: Ngọc H1, sinh năm
1970; địa chỉ thường trú: D, đường C, Phường A, quận T, Thành phố HChí Minh;
có mặt.
1.5. Bà Lê Thúy T2, sinh năm 1978, số hộ chiếu: N2227375 cấp ngày
10/7/2020; địa chỉ thường trú: G M, P, FL32404, Florida, USA (Hoa Kỳ); vắng
mặt.
Người đại diện hợp pháp của Thúy T2: Ông Công H, sinh năm
1976; địa chỉ thường trú: D, đường C, Phường A, quận T, Thành phố HChí Minh;
có mặt.
2. Bị đơn:
2.1. Ông Lê Công K (chết ngày 05/4/2014).
Người kế thừa quyền, nghĩa vụ t tụng của bị đơn:
2.1. Ông Lê Công D, sinh năm 1959; vắng mặt.
2.2. Bà Lê Thúy L, sinh năm 1969; vắng mặt.
Cùng địa chỉ: Số A, khu phố C, phường T, thành phố B, tỉnh Bình Dương.
Người đại diện hợp pháp của ông D và bà L: Ông Hoàng Trọng Đ, sinh năm
1982 (có mặt) hoặc Thị Hồng T3, sinh năm 1994 (vắng mặt); cùng địa chỉ
liên hệ: Công ty TNHH Đ2 Tổ A, khu phố E, phường U, thành phố T, tỉnh Bình
Dương.
2.3. Ông Công L1, sinh năm 1964. Địa chỉ thường trú: Khu phố C,
phường T, thành phố B, tỉnh Bình Dương; vắng mặt.
2.4. Bà Lê Thị M, sinh năm 1949; vắng mặt.
2.5. Bà Lê Trúc L2, sinh năm 1984; vắng mặt.
2.6. Ông Lê Trung H3, sinh năm 1987; vắng mặt.
Cùng địa chỉ: số B, khu phố C, phường T, thành phố B, tỉnh Bình Dương.
1.7. Thúy H4, sinh năm 1962; địa chỉ: số D, đường H, Phường A,
quận T, Thành phố Hồ Chí Minh; vắng mặt.
2. Ông Công D, sinh năm 1959; địa chỉ: số A, khu phố C, phường T,
thành phố B, tỉnh Bình Dương; vắng mặt.
Người đại diện hợp pháp của ông D: Ông Hoàng Trọng Đ, sinh năm 1982;
địa chỉ liên hệ: Công ty TNHH Đ2 tổ A, khu phố E, phường U, thành phố T, tỉnh
Bình Dương; có mặt.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
3.1. Thúy L, sinh năm 1969; địa chỉ thường trú: số A, khu phố C,
phường T, thị B, tỉnh Bình Dương; tạm trú: số A, đường C, Phường A, quận T,
Thành phố Hồ Chí Minh; vắng mt.
Người đại diện hợp pháp của L: Ông Hoàng Trọng Đ, sinh năm 1982 (có
mặt) hoặc Thị Hồng T3, sinh năm 1994 (vắng mặt); cùng địa chỉ liên hệ:
Công ty TNHH Đ2 tổ A, khu phố E, phường U, thành phố T, tỉnh Bình Dương.
3
3.2. Ông Lê Công L1, sinh năm 1964; địa chthường trú: khu phố C, phường
T, thành phố B, tỉnh Bình Dương; xin xét xử vắng mặt.
3.3. Bà Lê Thị M, sinh năm 1949; xin xét xử vắng mặt.
3.4. Bà Lê Trúc L2, sinh năm 1984; xin xét xử vắng mặt.
3.5. Ông Lê Trung H3, sinh năm 1987; xin xét xử vắng mặt.
Cùng địa chỉ: Số B, khu ph C, phường T, thành phố B, tỉnh Bình Dương.
3.6. Bà Thúy H4, sinh năm 1962; địa chỉ: số D, đường H, Phường A,
quận T, Thành phố Hồ Chí Minh; xin xét xử vắng mặt.
3.7. Đặng Thị Mai A, sinh năm 1971; địa chỉ thường trú: số A, khu phố
C, phường T, thành phố B, tỉnhnhơng; vắng mặt.
Người đại diện hợp pháp của bà Đặng Thị Mai A: Ông Hoàng Trng Đ, sinh
năm 1982; địa chỉ liên hệ: Công ty TNHH Đ2 tổ A, khu phố E, phường U, thành
phố T, tỉnh Bình Dương; có mặt.
3.8. Anh Lê Trọng N1, sinh năm 2000; xin xét xử vắng mặt.
3.9. Chị Lê Đặng Mai H5, sinh năm 2002; xin xét xử vắng mặt.
Cùng địa chỉ: số A, khu phố C, phường T, thành phố B, tỉnh Bình Dương.
3.10. Ông Công P, sinh năm 1950; địa chỉ: số A, khu phố C, phường T,
thành phố B, tỉnh Bình Dương; xin xét xử vắng mặt.
Người đại diện hợp pháp của ông Công P: Nguyễn Thị L3, sinh năm
1958; địa chỉ: tổ A, khu phố C, phường T, thành phố B, tỉnh Bình Dương; vắng
mặt.
3.11. Thị Đ1, sinh năm 1946; địa chỉ: số H, tổ B, khu phố C, phường
C, thành ph T, tỉnh Bình Dương; xin xét xử vắng mặt.
3.12. Ông Văn S (tên gọi khác: Lê Công T4, đã chết ngày 10/7/2023).
Người kế thừa quyền, nghĩa vụ t tụng của ông Lê Văn S:
3.12.1. Bà Nguyễn Thị R, sinh năm 1942; xin xét xử vắng mặt.
3.12.2. Ông Lê Công H6, sinh năm 1970; xin xét xử vắng mặt.
3.12.3. Bà Lê Thúy P1, sinh năm 1967; xin xét xử vắng mặt.
3.12.4. Bà Thị Thanh H7, sinh năm 1973; xin xét xử vắng mặt.
3.12.5. Ông Lê Công B, sinh năm 1976; xin xét xử vắng mặt.
Cùng địa chỉ: Số B, khu ph C, phường T, thành phố B, tỉnh Bình Dương.
3.12.6. Ông Nguyễn Văn S1, sinh năm 1959; địa chỉ: số D, đường C,
Phường A, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh; xin xét xử vắng mặt.
3.13. Ông Lê Công T5 (chết năm 2015).
Người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của ông Công T5: Phạm Thị
T6 (vợ ông T5), ông Công T7 (con ông T5), ông Công T8 (con ông T5),
cùng địa chỉ thường trú: 19712 H, A, CA 90703-6539, USA (Hoa Kỳ).
3.14. Ủy ban nhân dân thành phố B, tỉnh Bình Dương; xin xét xử vắng mặt.
4
4. Do có kháng cáo của: Ông Công H Ngọc H1 - người kế
thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của nguyên đơn.
NỘI DUNG V ÁN:
- Theo các đơn khởi kiện ngày 20/8/2001, đơn khởi kiện bổ sung ngày
06/8/2013, và lời khai trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn ông Công
T những người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của ông Công T gồm
Thúy N, bà Ngọc H1, ông ng T1, ông Công H, Thúy T2 thống
nhất trình y:
Cụ Lê Văn T9 (chết năm 1975) và cụ Nguyễn Thị T10 (chết năm 1994) có 06
người con gồm: Ông Công T (chết ngày 28/5/2002) 02 người vợ: người vợ
thứ 1 Phạm Ngọc T11 (chết năm 1963) 01 người con Thúy N;
người vợ thứ 2 Phạm Thị H8 (chết năm 1992) 04 người con: Ngọc
H1, ông Lê Công T1, ông Lê Công H, bà Lê Thúy T2 (đang định cư ở Mỹ); Ông
Công K (chết năm 2014) 02 người vợ: người vợ thứ 1 Phan Thị M1 (chết
năm 1971) có 04 người con ông Công D (ông D vợ Đặng Thị Mai A
02 người con anh Trọng N1 (sinh năm 2000), chị Đặng Mai H5 (sinh
năm 2002), Thúy H4, ông Công L1, Thúy L; người vthứ 2
Thị M, 02 người con gồm: Trúc L2, ông Trung H3; Ông Văn S
(tên gọi khác: Công T4), vợ Thị R1, 04 con chung ông
Công H6, bà Thúy P1, Thị Thanh H7, ông Công B, một con riêng
với bà Lê Thị S2 (không đăng ký kết hôn) là ông Nguyễn Văn S1; Ông Lê Công T5
(chết năm 2015) có vợ là bà Phạm Thị T6. Ông T5 và bà T6 có 02 người con là ông
Lê Công T7, ông Lê Công T8; Bà Lê Thị Đ1 và ông Lê Công P.
Nguyên đơn khai phần đất tranh chấp diện tích 15.500m
2
đo đạc thực tế
10.473,8m
2
theo Trích lục địa chính đo đạc bổ sung của Văn phòng Đăng
quyền sử dụng đất phát hành ngày 13/11/2014, tọa lạc tại phường T, thành phố B,
tỉnh Bình Dương có nguồn gốc do cụ Lê Văn T9 cụ Nguyễn Thị T10 quản lý, sử
dụng từ trước năm 1948, đến năm 1991 thì chia lại cho các con. Ngày 01/11/1992
cụ T10 đã lập Tờ di chúc để chia đất cho các con gồm ông T, ông K, ông S, Đ1
ông P, mỗi người được chia 01 ha 55a đất cao su, đồ cụ thể phần được
chia kèm theo. Tờ di chúc thể hiện ý chí định đoạt tài sản của cụ T10 chữ
của các con cụ T10. Tài sản trên đất cây cao su do ông T, ông K con cháu
trong gia đình trồng trước năm 1991 theo yêu cầu của cụ T10. Do ông Công T
sống và làm việc tại Thành phố Hồ Chí Minh nên không thể canh tác, quản lý phần
đất được cụ T10 chia cho, nên ông T thỏa thuận giao lại cho ông K quản lý, giữ đất
giùm. Sau đó, ông K đã tự ý đi đăng ký kê khai luôn phần đất của ông T giao ông K
giữ giùm mà ông K không thông báo cho ông T, ông T không biết việc ông K đăng
ký. Ông K đã được Ủy ban nhân dân huyện B cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất số 681/GCN-SB ngày 06/01/1993. Việc cụ T10 lập Tờ di chúc ngày 01/11/1992
kèm theo đồ phân chia vườn cây để phân chia đất cho ông T việc ông T giao
cho ông K quản hộ phần đất ông T được cụ T10 chia thì các nội dung này được
ông Văn S, ông Công D, Thị Đ1, bà Thúy L thừa nhận trong quá
trình làm việc tại Ủy ban nhân dân xã T và tại Tòa án.
Do ông K ông D cố tình không trả đất cho gia đình ông T nên ngày
20/8/2001, ông Công T (ủy quyền cho ông Công H) khởi kiện tại Tòa án
5
ngày 06/8/2013, những người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của ông T
Thúy N, Lê Ngọc H1, ông Lê Công T1, ông Lê Công H, Lê Thúy T2 tiếp tục
đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết vấn đề sau: Buộc bị đơn ông K, ông D
trả lại cho nguyên đơn phần đất tranh chấp diện tích 10.473,8m
2
, tọa lạc tại
phường T, thành phố B, tỉnh Bình Dương; yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số 681/GCN-SB ngày 06/01/1993 của Ủy ban nhân dân huyện B cấp cho
ông Lê Công K.
Phía nguyên đơn thống nhất kết quả xem xét, thẩm định tại chỗ, đo đạc, định
giá theo: Biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 13/12/2023; Bản đồ phục vụ
giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất do Văn phòng Đăng ký quyền sử dụng đất
lập ngày 13/11/2014 và Biên bản định giá tài sản ngày 29/5/2024.
- Bị đơn ông Công K (chết ngày 05/4/2014) ông Công D, những
người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của ông Công K gồm ông Công D
Thúy H4, ông Công L1, Thúy L, Thị M, Trúc L2, ông
Lê Trung H3, ông Lê Công D và bà Lê Thúy L trình bày: Bị đơn ông Công D và
người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của bị đơn ông K không đồng ý yêu cầu khởi
kiện của nguyên đơn ông T đề nghị Tòa án không chấp nhận toàn bộ yêu cầu
khởi kiện của nguyên đơn phần đất diện tích 10.473,8m
2
nguồn gốc của cụ
T9 cụ T10 đã cho ông K quản lý, sử dụng từ trước năm 1975. Đất tranh chấp
đất nông nghiệp, gia đình ông K trực tiếp quản lý, canh tác ông K đăng
khai được I huyện B cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 681/GCN-SB ngày
06/01/1993.
Đến năm 2014, ông K chết, vợ chồng ông D tiếp tục quản lý, sử dụng đất cho
đến ngày hôm nay. Toàn bộ tài sản trên đất, cây trái, nhà cửa của vợ chồng ông
D, A. Việc quản lý, sử dụng đất của gia đình ông K ổn định, không ai tranh
chấp và được Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất hợp pháp. Bản thân ông T đã
được nhận phần đất cụ T10 cho nhưng đã chuyển nhượng cho người khác, cụ
thể vào năm 1993, ông Công T sau khi nhận đất của cha mẹ cho thì cho lại
bạn của ông T ông Nguyễn Thanh B1 (tự T) khoảng 01 ha đất để kỷ niệm, vị
trí nằm sát Quốc lộ A số đất còn lại hiện nay còn 24.536m
2
, ông T nhờ cháu
Công H6 đứng tên vì ông T còn công tác tại Cục H10, Thành phố Hồ Chí Minh
nên không thể quản lý, sử dụng được. Mảnh đất trên đã được y ban nhân dân
huyện B cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số N 064280 ngày 20/12/1999
đứng tên ông Công H6 vợ Trần Thanh H9 cùng nhau trồng cao su
cho gia đình ông Công H. Năm 2010, ông H về muốn nhận lại phần đất trên
làm thủ tục chuyển nhượng và đi công chứng với số tiền 50.000.000 đồng. Thực
chất ông Công H6 cùng vợ Trần Thanh H9 không nhận số tiền chuyển
nhượng này. Ngay sau đó gia đình ông H tự tạo dựng lên Tờ di chúc giả để đi đòi
đất trong Tờ di chúc... Còn phần đất gia đình ông H đã nhận của cụ T10 cụ T9
thì đã cho và chuyển nhượng cho người khác. Đồng thời, phía nguyên đơn cho rằng
nhờ bị đơn quản lý giùm là không đúng sự thật. Gia đình bị đơn đã đăng ký, kê khai
được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, trồng cây, xây dựng nhà kiên
cố trên đất nhưng phía nguyên đơn không phản đối hay có ý kiến gì.
Hơn nữa Tờ di chúc ngày 01/11/1992 là không hợp pháp vì Bản kết luận giám
định số 2145/C54B ngày 15/12/2014 của Phân viện Khoa học hình sự tại Thành
phố HChí Minh giám định chữ trên Tờ di chúc không phải của cụ T10. Di
6
chúc lập ngày 01/11/1992 nhưng đến ngày 26/12/1992 mới được công chứng
Phòng Công chứng cũng chỉ chứng nhận chữ của những người thừa kế của cụ
T10. Việc công chứng không đúng với quy định tại khoản 2 Điều 14 Pháp lệnh
Thừa kế năm 1990 người lập di chúc phải ký hoặc điểm chỉ trước mặt người
trách nhiệm chứng thực của cơ quan công chứng nên Tờ di chúc do ông Công T
tự lập ngày 01/11/1992 hiệu. quan thẩm quyền đã giám định chữ
trên Tờ di chúc giả nhưng gia đình ông Công H vẫn cố tình khởi kiện nhằm
chiếm đoạt tài sản hợp pháp của gia đình bị đơn. Do đó, phía bị đơn không đồng ý
với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
- Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Công P, người đại diện theo
ủy quyền của ông Công P Nguyễn Thị L3 trình bày: Ông P không thừa
nhận Tờ di chúc ngày 01/11/1992. Phần đất ông T tranh chấp với ông K nguồn
gốc của cha, mẹ cụ T9 và cụ T10 để lại, ông K quản sử dụng từ trước năm
1975. Các con của cụ T9 và cụ T10 đã tự phân chia đất và sử dụng ổn định cho đến
nay.
- Người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của ông Văn S ThR1,
ông Công H6, Thúy P1, Thị Thanh H7, ông Công B trình bày:
Ông Lê Văn S đã chết ngày 10/7/2023, ông Văn S vợ là Nguyễn Thị R
các con gồm: bà Thúy P1, ông Công H6, bà Thị Thanh H7, ông Công
B. Ngoài ra, ông Nguyễn Văn S1 là con của riêng của ông Lê Văn S với bà Nguyễn
Thị S3. Việc tranh chấp giữa ông Công T ông Công K, cũng như những
người con của ông T và ông K, vợ và các con của ông S chỉ biết qua các lần Tòa án
triệu tập đối với ông Văn S. Trước khi chết thì ông S cũng không nói về sự
việc cho vợ các con ông S biết, nay ông S chết, thì sự việc tranh chấp trong
gia đình nhà chồng không liên quan gì đến R và các con. Vợ và các con của ông
S không bất cứ quyền lợi, nghĩa vụ nào để yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết.
Đề nghị Tòa án xem xét, giải quyết vụ án theo quy định pháp luật.
- Tại Văn bản trình bày kiến ngày 25/6/2024, ông Công H6 trình bày bổ
sung: Năm 1975 giải phóng miền N, thống nhất đất nước, ông Công T từ mật
khu trở về công tác tại Hậu cần Quân khu G, nên ông T con của ông T về
sống tại Thành phố Hồ Chí Minh. Thời gian này, cụ T10 phân chia tài sản ất)
cho các con để ổn định sản xuất, phần đất của ông T được nhận với tổng diện tích
là 24.536m2, tọa lạc tại khu phố C, phường T, B, Bình Dương. Nhưng thời điểm đó
do ông T còn đang tại chức công tác tại Hậu cần Quân khu H10, không thể quản lý
canh tác trên phần đất được phân chia, nên gia đình thống nhất để ông H6 đứng
tên giùm trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số N064280 do UBND huyện
(nay thành phố) B, tỉnh Bình ơng cấp ngày 20/12/1999. Phần đất này cũng
được các anh, em trong nhà hỗ trợ ông T trồng cây cao su. Đến năm 2010, các con
của ông T có nhu cầu muốn nhận lại phần đất của ông T được chia do ông H6 đứng
tên, nên vợ chồng ông H6 đã đồng ý chuyển quyền sử dụng đất lại cho ông
Công H con của ông T. Do đó, ngày 21/7/2010, ông H6 vợ đã Hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông Công H phần diện tích đất
24.536m2 thuộc thửa số 358, tờ bản đồ số 16 tọa lạc tại (nay phường) T,
huyện (nay thành phố ), tỉnh Bình Dương. Theo hợp đồng, thì giá trị chuyển
nhượng ghi là 50.000.000 (năm mươi triệu) đồng, đây là ý của ông H nói là chuyển
quyền sử dụng đất bằng hình thức mua bán, để nhằm mục đích giúp ông H giảm
7
thuế, lệ phí khi thực hiện thủ tục đăng bộ, sang tên. Cũng vì muốn tạo điều kiện cho
anh em được thuận lợi trong việc làm thủ tục sang tên, nên vợ chồng ông H6 mới
thực hiện theo yêu cầu của ông H hợp đồng mua bán. Thực chất không
việc mua bán giao nhận số tiền 50.000.000 đồng. Ông H6 chỉ đứng tên dùm đất
cho gia đình ông T và giao lại phần đất này khi gia đình ông T có nhu cầu và không
có nhận tiền của ông H.
- Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Văn S1 trình bày: Ông
Văn S (cha ông S1) với Nguyễn Thị S3 (mẹ của ông S1) cưới hỏi nhưng
đăng ký kết hôn hay không ông không rõ do không còn giấy tờ. Khi ông S1 gần
một tuổi thì cha mẹ ông S1 không còn sống chung với nhau, ông S1 không biết họ
có làm thủ tục ly hôn hay không. Năm 1981, ông Lê Công T tìm ông S1 và dẫn ông
S1 về nhận họ hàng bên nội ông S1 mới biết cha ông Văn S. Khoảng năm
2010-2011, ông S1 ông Văn S ra Ủy ban nhân dân phường T, thị (nay
thành phố) B làm giấy xác nhận cha con để ông Sáu T12 cho ông S1 một phần
đất. Ông S1 không bất kỳ ý kiến hay yêu cầu liên quan đến ván, cũng như
không có yêu cầu độc lập gì trong vụ án.
- Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Thị Đ1 trình bày: Mẹ của
Đ1 cụ T10 có để lại Di chúc ngày 01/11/1992 để chia đất cho các con. Trong đó,
phần đất của ông T được cụ T10 cho, ông T giao lại đất cho ông K giữ giùm.
yêu cầu bị đơn trả lại đất cho nguyên đơn. Bà Đ1 không tranh chấp và yêu cầu giải
quyết xét xử vắng mặt.
- Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Công T5 chết năm 2015.
người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của ông Công T5 gồm Phạm Thị T6,
ông Lê Công T8, ông Công T7 (có địa chỉ: A H, A, CA 90703-6539, USA). Tòa
án đã thực hiện thủ tục ủy thác tư pháp, tống đạt qua đường bưu điện nhưng không
tên người nhận tại địa chỉ nêu trên và đương sự không cung cấp được địa chỉ nào
khác, nên Tòa án tiến hành đăng thông báo trên B2 trong 03 số báo liên tiếp, đăng
tin thông báo trên Đ3 (VOV5) kênh dành cho người Việt Nam nước ngoài trong
03 ngày liên tiếp, đăng trên Cổng thông tin điện tử Tòa án nhân dân tối cao
Cổng thông tin điện tử Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương về thời gian tiến hành tố
tụng yêu cầu trình bày ý kiến theo quy định pháp luật nhưng vẫn không nhận
được ý kiến của vợ, con của ông T5.
- Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Đặng Thị Mai A (do ông Hoàng
Trọng Đ đại diện theo ủy quyền), anh Trọng N1, chị Đặng Mai H5 thống
nhất trình bày: Thống nhất với ý kiến trình bày của bị đơn ông D những người
kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của bị đơn ông K. Đề nghị Tòa án không chấp
nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông T người kế thừa quyền nghĩa vụ
tố tụng của ông T. Anh Trọng N1 chị Đặng Mai H5 đề nghị Tòa án giải
quyết vắng mặt.
- Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Ủy ban nhân dân thành phố B ý
kiến: Qua kiểm tra, rà soát sở dữ liệu hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, quyền sở hữu nhà tài sản khác gắn liền với đất, Chi nhánh Văn phòng Đ4
(nay thành phố) Bến Cát tìm thấy thông tin bản để cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số 681/GCN-SB đứng tên Lê Công K, đăng ký ngày 20/12/1992.
Các thửa đất số: 600, 601, 603, 504, 598, 599, 605, 809, 810, 811, 812, 813, 814 và
8
815, tờ bản đồ số 3, tọa lạc tại ấp C, phường T, thị xã (nay là thành phố ), tỉnh Bình
Dương. Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai thành phố Đ4 chỉ tìm thấy thông tin
bản để cấp giấy chứng nhận, không tìm thấy thông tin lưu trữ bản sao Sổ trắng
số 681/GCN-SB cấp cho ông Công K ngày 06/01/1993. Nhận thấy các thửa đất
cấp trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sổ trắng cấp cho ông Công K
ngày 06/01/1993 chỉ thửa đất tạm, chưa chuyển về theo đúng bản đồ địa chính
chính quy nên Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai thành phố Đ4 không xác định
được thông tin biến động chính xác liên quan đến phần đất 10.473,8m
2
nêu trên. Đề
nghị Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương phối hợp với Ủy ban nhân phường T và chủ
sử dụng đất để xác minh thêm thông tin và căn cứ kết quả xác minh, quá trình quản
lý sử dụng đất thực tế và chứng cứ có liên quan để giải quyết vụ việc theo quy định.
Đồng thời, Phòng T14 (nay thành phố) Bến Cát đã Văn bản số 2694/ĐN-
TNMT ngày 13/7/2023 đề nghChi nhánh Văn phòng Đăng đất đai thị Đ4
cung cấp hồ sơ để phục vụ cho trả lời Tòa án.
Tuy nhiên, qua soát hồ từ Chi nhánh Văn phòng Đ4 (nay thành phố)
Bến C cung cấp cho thấy thành phần hồ cung cấp không đủ thông tin (chỉ cung
bảng kê cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất) nên người đại diện theo ủy quyền
của Ủy ban nhân dân phường B nhận thấy không sở để trả lời đối với nội
dung yêu cầu của Tòa án. Đề nghị vắng mặt trong quá trình xét xử vụ án.
Tại Bản án dân sự thẩm số 03/2017/DS-ST ngày 20 tháng 4 năm 2017 của
Tòa án nhân dân tỉnh Bình ơng đã tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn: Ông Công H, ông Công T1, Thúy N, Ngọc H1,
Thúy T2 đối với bị đơn: Ông Công D, Thúy H4, ông Công L1,
Thúy L, bà Thị M, chị Trúc L2, anh Trung H3 về việc tranh chấp
quyền sử dụng đất và yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
- Ông Lê Công D, bà Lê Thúy H4, ông Lê Công L1, bà Thúy L, bà Lê Thị
M, Trúc L2, ông Trung H3 giao trả lại cho ông Công H, ông Công
T1, Thúy N, Ngọc H1, Thúy T2 5.354,3m
2
đất (trong đó
4.726,6m
2
đất nông nghiệp và 627,7m
2
đất HLBVĐB) tọa lạc tại phường T, thị
B, tỉnh Bình Dương (ký hiệu B trên đồ kèm theo bản án). Ông Công H, ông
Lê Công T1, bà Lê Thúy N, bà Lê Ngọc H1, bà Lê Thúy T2 được quyền quản lý sử
dụng diện tích đất 5.354,3m
2
, được sở hữu toàn bộ tài sản gắn liền đất trách
nhiệm thanh toán lại giá trị tài sản trên đất cho ông Công D và bà Đặng Thị Mai
A 251.757.000 đồng; Ông Công D, Thúy H4, ông Công L1,
Thúy L, Thị M, Trúc L2, ông Trung H3 được quyền quản lý sử
dụng 5.119,5m
2
đất (trong đó 300m
2
đất ở, 3.099,2m
2
đất nông nghiệp,
1.720,3m
2
đất HLBVĐB) tọa lạc tại phường T, thị B, tỉnh Bình Dương (ký hiệu
A trên đồ kèm theo bản án) trên đất nhà cấp D, nhà tạm, chòi lá, cây trồng
và toàn bộ tài sản trên đất là của ông D, bà A. Ông Lê Công D, bà Lê Thúy H4, ông
Công L1, Thúy L, Thị M, chị Trúc L2, anh Trung H3 cùng
trách nhiệm thanh toán lại giá trị đất cho ông Công H, ông Công T1,
Thúy N, bà Lê Ngọc H1, Thúy T2 929.980.000 đồng; Hủy Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất số 681/GCN-SB ngày 06/01/1993 do UBND huyện B cấp
cho ông Lê Công K. Các đương sự trách nhiệm đăng ký quyền sử dụng đất theo
quy định của pháp luật về đất đai. Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí, chi
phí tố tụng, quyền và nghĩa vụ thi hành án và quyền kháng cáo.
9
Sau khi xét xử sơ thẩm, người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của bị đơn ông
Công K; người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Đặng Thị Mai A đơn
kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.
Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 113/2020/DS-PT ngày 25 tháng 5 năm 2020
của Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đã tuyên xử:
Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông ng D, bà Đặng Thị Mai A,
Thúy H4, ông Công L1, Thúy L, Thị M, Trúc L2, ông
Trung H3. Giữ nguyên Bản án dân sự thẩm số 03/2017/DS-ST ngày
20/4/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương.
Ngày 17/8/2022, bà Lê Thúy L có đơn đề nghị xem xét theo thủ tục Giám đốc
thẩm.
Tại Quyết định Giám đốc thẩm số 02/2023/DS-GĐT ngày 04 tháng 4 năm
2023 của Tòa án nhân dân tối cao đã quyết định: Chấp nhận Quyết định kháng
nghị giám đốc thẩm số: 65/2022/KN-DS ngày 13/12/2022 của Chánh án Tòa án
nhân n tối cao: Hủy Bản án dân sự phúc thẩm số 113/2020/DS-PT ngày
25/5/2020 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh và hủy Bản án
dân sự thẩm số 03/2017/DS-ST ngày 20/4/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình
Dương.
- Tại Bản án dân s thẩm số: 102/2024/DS-ST ngày 18/12/2024 của Tòa
án nhân dân tỉnh Bình Dương đã quyết định:
Căn cứ các Điều: 5, 26, 34, 35, 37, 39, 147, 158, 165, 203, 227, 228, 235, 266,
271, 273, 473, 474, 477, 479 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 14, Điều
19 Pháp lệnh Thừa kế năm 1990; các Điều: 189, 192, 206, 612, 613, 614, 624, 630
của Bộ luật Dân sự năm 2015; các Điều: 5, 166, 188, 203 Luật Đất đai năm 2013;
Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ
Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sử dụng án phí
lệ phí Tòa án;
- Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Công T, người
kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của ông Công T (gồm các ông, bà: Công H,
Thúy N, Ngọc H1, Công T1, Thúy T2) về việc tranh chấp quyền sử
dụng đất, yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với bị đơn ông
Công K, ông Lê Công D.
- Về án phí dân sự sơ thẩm: Người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của ông
Công T gồm các ông, bà: Công H, Thúy N, Ngọc H1, Công T1,
Thúy T2 phải nộp 300.000 đồng án phí dân sự thẩm. Được trừ vào số tiền nộp
tạm ứng án phí theo biên lai thu số 00120149 ngày 29/8/2023. Hoàn trả lại cho
người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của ông Công T gồm các ông, bà:
Công H, Lê Thúy N, Ngọc H1, Lê Công T1, Lê Thúy T2 số tiền nộp tạm ứng án
phí còn lại là 2.700.000 đồng.
Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn quyết định về án phí và chi phí tố tụng và quyền
kháng cáo theo quy định của pháp luật.
- Ngày 18/12/2024 và ngày 20/12/2024, bà Ngọc H1 ông Công H
người kế thừa quyền và nghĩa vụ t tụng của nguyên đơn ông Công T kháng cáo
10
Bản án thẩm, yêu cầu Toà án cấp phúc thẩm giải quyết sửa án thẩm chấp
nhận toàn b yêu cầu của nguyên đơn.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
- Ngọc H1 ông Công H giữ nguyên yêu cầu kháng cáo yêu cầu
Toà án cấp phúc thẩm giải quyết như bản án thẩm năm 2017 Bản án phúc
thẩm năm 2020 đã xử, theo đó buộc ông Lê Công D, Thúy H4, ông Công
L1, Thúy L, Thị M, Trúc L2, ông Trung H3 giao trả lại cho
ông Công H, ông Công T1, Thúy N, Ngọc H1, Thúy T2
5.354,3m
2
đất (trong đó 4.726,6m
2
đất nông nghiệp 627,7m
2
đất HLBVĐB) tọa
lạc tại phường T, thị B, tỉnh Bình Dương (ký hiệu B trên sơ đồ kèm theo bản
án). Ông Công H, ông Lê Công T1, Lê Thúy N, Ngọc H1, bà Thúy
T2 trách nhiệm thanh toán lại giá trị tài sản trên đất cho ông Công D bà
Đặng Thị Mai A 251.757.000 đồng; Ông Công D, Thúy H4, ông
Công L1, Thúy L, Thị M, bà Trúc L2, ông Trung H3 được
quyền quản lý sử dụng 5.119,5m
2
đất (trong đó có 300m
2
đất ở, 3.099,2m
2
đất nông
nghiệp, 1.720,3m
2
đất HLBVĐB) tọa lạc tại phường T, thị B, tỉnh Bình Dương
(ký hiệu A trên đồ kèm theo bản án) trên đất nhà cấp D, nhà tạm, chòi lá,
cây trồng toàn bộ tài sản trên đất của ông D, bà A. Ông Công D,
Thúy H4, ông Công L1, bà Thúy L, bà Thị M, chị Trúc L2, anh
Trung H3 cùng có trách nhiệm thanh toán lại giá trị đất cho ông Lê Công H, ông Lê
Công T1, bà Lê Thúy N, bà Lê Ngọc H1, bà Lê Thúy T2 là 929.980.000 đồng; Hủy
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 681/GCN-SB ngày 06/01/1993 do UBND
huyện B cấp cho ông Lê Công K.
Luật bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của Ngọc H1 ý kiến: Đề
nghị chấp nhận kháng cáo của H1, sửa Bản án thẩm, buộc bị đơn ông D
người kế thừa quyền và nghĩa vụ của ông K trả lại cho các con của ông T phần đất
tranh chấp diện tích 10.473,8m
2
, tọa lạc tại phường T, thành phố B, tỉnh Bình
Dương đề nghị hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 681/GCN-SB ngày
06/01/1993 của Ủy ban nhân dân huyện B cấp cho ông Lê Công K.
- Ông Hoàng Trọng Đ là người đại diện theo ủy quyền của ông Lê Công D, bà
Thúy L, Đặng Thị Mai A ý kiến: Không đồng ý với kháng cáo của H1
và ông H. Đề nghị giữ nguyên bản án sơ thẩm.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Thúy N có ý kiến: Đồng ý với
ý kiến của bà H1 và ông H.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh phát
biểu quan điểm giải quyết vụ án:
Về tố tụng: Những người tiến hành tố tụng người tham gia tố tụng đã thực
hiện đúng quyền nghĩa vụ theo quy định của Pháp Luật tố tụng dân sự; đơn
kháng cáo của H1, ông H làm trong hạn luật định, hợp lệ đủ điều kiện để giải
quyết theo thủ tục phúc thẩm.
Về nội dung khángo: Xét thấy Bản án sơ thẩm xét xử bác yêu cầu khởi kiện
của nguyên đơn ông Công T và những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng
của ông T căn cứ. Do đó, đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng
dân sự năm 2015 bác kháng cáo của ông H và bà H1, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
11
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi xem xét các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại
phiên tòa căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận
định:
[1] Đơn kháng cáo của Ngọc H1, ông Công H làm trong hạn luật
định, hợp lệ đủ điều kiện để xem xét giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.
[2] Phía nguyên đơn và bị đơn đều thống nhất xác định phần đất tranh chấp có
diện tích đo đạc thực tế 10.473,8thuộc thửa 2457, tờ bản đồ số 21 tọa lạc tại
phường T, thành phố B, tỉnh Bình Dương theo Trích lục địa chính đo đạc bổ
sung của Văn phòng Đăng ký quyền sử dụng đất lập ngày 13/11/2014 (bút lục 373).
Nguyên đơn ông Nguyễn Công T13 những người kế thừa quyền nghĩa
vụ tố tụng của ông T13 khai phần đất tranh chấp nguồn gốc của cụ Văn T9
(chết năm 1975) cụ Nguyễn Thị T10 (chết năm 1994) trên đất cụ T10 trồng
cây cao su. Trước khi chết, cụ T10 lập “Tờ di chúc” đngày 01/11/1992 kèm
“Sơ đồ n chia vườn cây”. Theo Tờ di chúc thì ông T13, ông K, ông S, bà Đ1, ông
P mỗi người được chia 01 ha 55 đất cao su. Do ông T13 sinh sống tại Thành phố
Hồ Chí Minh nên phần đất của ông T13 được chia, ông T13 giao lại cho ông K
quản lý, giữ đất giùm nhưng ông K đã tự ý đăng khai xin cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất luôn phần đất ông T13 được chia. Do đó, nguyên đơn ông
T13 những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông T13 yêu cầu Tòa
án hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất yêu cầu bđơn trlại cho nguyên
đơn diện tích đất tranh chấp là 10.473,8m².
Còn bị đơn ông K người kế thừa quyền nghĩa vụ của ông K không chấp
nhận yêu cầu khởi kiện của ông T13 ông T13 không gửi đất cho ông K quản
và giữ dùm; cụ T10 cũng không có ký tên trong Tờ di chúc ngày 01/11/1992 mà
do ông T13 viết di chúc nhằm mục đích để đối phó không bị người khác lấn chiếm
đất.
[2.1] Xét “Tờ di chúc” đề ngày 01/11/1992 và “Sơ đồ fân chia vườn cây” ngày
01/11/1992 (bút lục 236-238) ghi người lập di chúc Nguyễn Thị T10 thấy rằng
Tờ di chúc đề ngày 01/11/1992 nhưng đến ngày 26/12/1992 mới được phòng công
chứng chứng nhận chữ của ông T13, ông P2, ông T4, ông K, Đ1 con của
Nguyễn Thị T10. Như vậy, theo chứng nhận của phòng công chứng ngày
26/12/1992 thì không có chứng nhận chữ ký của bà Nguyễn Thị T10 là người lập di
chúc. Do đó việc công chứng này không đúng với quy định tại khoản 2 Điều 14 của
Pháp lệnh Thừa kế năm 1990. Đồng thời Theo quy định tại khoản 3 Điều 14 của
Pháp lệnh Thừa kế năm 1990 thì trong trường hợp người lập di chúc không đọc bản
di chúc được, không hoặc điểm chỉ được thì phải nhờ người chứng kiến nhưng
Tờ di chúc chỉ chữ của những người thừa kế của cụ T10, không đúng theo
quy định tại Điều 19 của Pháp lệnh Thừa kế năm 1990.
Mặt khác, Tại Kết luận giám định số: 2145/C54B ngày 15/12/2014 của Phân
viện Khoa học hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: Chữ mang tên
Nguyễn Thị T10 trên “Tờ di chúc” đề ngày 01 tháng 01 năm 1992; “sơ đồ fân chia
vườn cây” đề ngày 01 tháng 11 năm 1992 so với chữ ký mang tên Nguyễn Thị T10
trên hai tài liệu mẫu so sánh là không phải chữ ký của cùng một người (bút lục 200-
12
202). Theo lời khai của ông K, ông S và ông P thì tờ di chúc ngày 01/11/1992 là do
ông T13 viết và ký tên cụ T10 mục đích làm tạm thời phân chia để giữ đất, tránh sự
lấn chiếm đất của người khác. Như vậy không căn cứ xác định cụ Nguyễn Thị
T10 lập di chúc ngày 01/11/1992 để phân chia phần đất cho ông T13 như nguyên
đơn đã khai.
[2.2] Nguyên đơn ông T13 người kế thừa quyền nghĩa vụ tố tụng của
ông T13 cho rằng sau khi ông T13 được cụ T10 chia đất, do ông T13 bận công tác
nên ông T13 nhờ ông K quản dùm 15.000m
2
đất theo đo đạc thực tế diện tích
10.473,8m², nhưng ông K tự ý khai đăng cấp quyền sử dụng đất bao trùm
luôn phần đất của ông T13. Còn bị đơn ông K khai diện tích đất tranh chấp
10.473,8m² là do ông K đã quản lý, sử dụng ổn định từ trước năm 1975. Năm 1992,
ông K đăng ký kê khai, được Ủy ban nhân dân huyện B cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất số 681/GCN-SB ngày 06/01/1993 (sổ trắng). Năm 2014, ông K chết,
ông D là con của ông K tiếp tục quản lý, sử dụng cho đến nay. Tài sản trên đất gồm
có cây trồng, căn nhà chính, nhà tạm là của vợ chồng ông D, bà A xây cất.
Tuy nhiên, ông T13 người kế thừa quyền nghĩa vụ tố tụng của ông T13
không cung cấp được tài liệu, chứng cứ để chứng minh việc ông T13 có gửi đất cho
ông K giữ dùm. Trong khi tại Văn bản ngày 25/6/2024, ông Công H6 khai sau
năm 1975 cụ T10 phân chia tài sản (đất) cho các con đổn định sản xuất, phần
đất của ông T13 được nhận với tổng diện tích 24.536m
2
, tọa lạc tại khu phố C,
phường T, B, Bình Dương. Nhưng thời điểm đó do ông T13 còn đang tại chức công
tác tại Hậu cần Quân khu H10, không thể quản canh tác trên phần đất được
phân chia, nên gia đình thống nhất để ông H6 đứng tên giùm trên Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số N064280 do UBND huyện (nay thành phố) B, tỉnh Bình
Dương cấp ngày 20/12/1999. Phần đất này cũng được các anh, em trong nhà hỗ trợ
ông T13 trồng cây cao su. Đến năm 2010, các con của ông T13 nhu cầu muốn
nhận lại phần đất của ông T13 được chia do ông H6 đứng tên, nên vợ chồng ông
H6 đã đồng ý lập thủ tục chuyển quyền sử dụng đất lại cho ông Công H con
của ông T13. Do đó, ngày 21/7/2010, ông H6 vợ đã Hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất cho ông Công H phần diện tích đất 24.536m
2
thuộc thửa số 358, tờ bản đồ số 16 tọa lạc tại (nay phường) T, huyện (nay
thành phố ), tỉnh Bình Dương. Theo hợp đồng, thì giá trị chuyển nhượng ghi
50.000.000 (năm mươi triệu) đồng, đây ý của ông H i chuyển quyền sử
dụng đất bằng hình thức mua bán, để nhằm mục đích giúp ông H giảm thuế, lệ phí
khi thực hiện thủ tục đăng bộ, sang tên. Cũng muốn tạo điều kiện cho anh em
được thuận lợi trong việc làm thủ tục sang tên, nên vợ chồng ông H6 mới thực hiện
theo yêu cầu của ông H là ký hợp đồng mua bán. Thực chất không có việc mua bán
giao nhận số tiền 50.000.000 đồng. Ông H6 chỉ đứng tên dùm đất cho gia đình
ông T13 giao lại phần đất này khi gia đình ông T13 nhu cầu và không
nhận tiền của ông H. Như vậy n cứ xác định ông T13 cũng đã được cụ T10
chia đất, sau đó ông T13 nhờ ông H6 đứng tên khai đăng ký cấp quyền sử dụng
đất, đến năm 2010, vợ chồng ông H6 đã đồng ý chuyển trả lại quyền sử dụng đất lại
cho ông Lê Công H là con của ông T13.
Còn đối với phần đất tranh chấp thì do ông K sử dụng từ năm 1975, sau đó
ông K đơn khai đăng cấp quyền sử dụng đất năm 1992 được Ủy ban
nhân dân huyện B cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 681/GCN-SB ngày
13
06/01/1993, khi ông K khai đăng ký được cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất thì cụ T10 còn sống nhưng cụ T10 không có ý kiến hay phản đối việc ông
K kê khai đăng ký cấp quyền sử dụng đất.
Tại Biên bản xác minh ngày 20/6/2024, y ban nhân dân phường T, thành
phố B, tỉnh Bình Dương cung cấp thông tin: Phần đất tranh chấp hiện nay thuộc
thửa đất số 2457, tờ bản đồ số 21, tọa lạc tại phường T, thành phố B, tỉnh Bình
Dương. Theo Bản đồ địa chính chính quy năm 1999 thì phần đất tranh chấp theo
Trích lục địa chính đo đạc bổ sung số 14-2014 của Văn phòng Đăng quyền
sử dụng đất thị xã B (nay Chi nhánh Văn phòng Đăng đất đai thành phố Đ4)
ngày 13/11/2014 thuộc một phần thửa đất số 161, tờ bản đồ số 21. Theo Sổ mục kê
năm 1999: thửa đất số 161, tờ bản đồ số 21 có tổng diện tích 26.675m
2
(trong đó có
300m
2
đất 21.377m
2
đất CNCS), người sử dụng đất ông Công K. Từ
năm 1998, y ban nhân dân phường T mới thông báo cho người dân có sử dụng đất
đăng (theo dạng đại trà) nên không quản hồ đăng trước năm 1998.
Ủy ban nhân dân phường T không quản hồ đất đưa vào tập đoàn sản xuất.
Đồng thời tại Công n số: 1019/CNBC-LT ngày 16/7/2024 (bút lục 842) Chi
nhánh Văn phòng đăng đất đai thành phố Đ4 ý kiến: “Qua kiểm tra, soát
dữ liệu hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Chi nhánh B3 tìm thấy thông
tin bản kê để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 681/GCN-SB tên Lê Công
K đăng ngày 20/12/1992. Các thửa đất số: 600, 601, 603, 504, 598, 599, 605,
809, 810, 811, 812, 813, 814, 815, tờ bản đồ số 3, tọa lạc tại ấp C, phường T, thị xã
(nay thành phố ), tỉnh Bình Dương… không tìm thấy thông tin bản cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, không tìm thấy thông tin lưu trữ bản sao sổ trắng
số: 681/GCN-SB cấp cho ông Lê Công K ngày 06/01/1993. Nhận thấy các thửa đất
trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sổ trắng cấp cho ông Công K chỉ
thửa đất tạm, chưa chuyển về theo đúng bản đồ địa chính chính quy nên Chi nhánh
B3 không xác định được phần đất tranh chấp diện tích 10.473,8m
2
thuộc thửa
2457 tờ bản đồ số 21 tọa lạc tại phường T thuộc một trong các thửa được ghi
trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 681/GCN-SB ngày 06/01/1993 do Ủy
ban nhân dân huyện B (nay là thành phố B) cấp cho cho ông Lê Công K”.
Trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn ông T13 và các con của ông T13
cũng không cung cấp được giấy tờ, tài liệu về việc cụ T10, cụ T9 khai đăng
quyền sử dụng đất đối với diện tích đất đang tranh chấp. Trên thực tế con của ông
K là ông D cùng vợ là bà Mai A quản lý sử dụng đất, cất nhà để ở và trồng cây trên
đất.
Tại biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 13/12/2023 (bút lục 779-781) và
biên bản định giá ngày 29/5/2024 (bút lục 798-801) đã định gtài sản trên đất
tranh chấp tại thửa 2457 các tài sản do bị đơn xây cất gồm: Một căn nhà chính
cấp 4 mái tonl, vách gạch nền xi măng, trần nhựa, cửa sắt kính diện tích 134m
2
do
vợ chồng ông D Mai A xây dựng năm 2000; Nhà tạm (ký hiệu số 3) kết cấu
máy nền gạch tàu, trụ xi măng vách nhựa + khung sắt diện tích 61m
2
do vợ
chồng ông D xây dựng năm 2000; Nhà tạm (ký hiệu số 7) kết cấu mái lá. Cột gỗ
nền xi măng. Diện tích 28m
2
do vợ chồng ông D xây dựng năm 2000; Nhà tạm (
hiệu số 8) kết cấu mái tôn. Vách tôn. Toàn xi măng diện tích 36m
2
do vợ chồng ông
D xây dựng năm 2000; 05 chòi xây dựng năm 2000. Hàng rào kẽm gai trụ
tông diện tích 576m
2
do ông D xây dựng năm 2000. Ngoài ra, trên phần đất tranh
14
chấp còn 436 cây cao su do ông K trồng vào năm 1991 các cây trồng do ông
D trồng gồm 03 cây bằng lăng, 236 cây phát tài, 11 cây mai vàng, 10 cây mai chiếu
thủy, 26 cây cau kiểng; mít, trúc, cây xanh do ông D trồng từ năm 2001 đến năm
2010. Qtrình ông D xây cất nhà, chòi tạm, trồng cây trên đất nguyên đơn ông
T13 cũng không có tranh chấp ngăn cản.
Do đó, Bản án thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn
ông Công T, người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của ông Công T (gồm
các ông, bà: Công H, Thúy N, Ngọc H1, Công T1, Thúy T2) về
việc tranh chấp quyền sử dụng đất, yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
đối với bị đơn ông Công K, ông Công D n cứ, đúng quy định của
pháp luật.
[3] Tại phiên tòa phúc thẩm, bà H1 và ông H là người kế thừa quyền, nghĩa vụ
tố tụng của ông Công T giữ nguyên kháng cáo; Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của Ngọc H1 đề nghị chấp nhận kháng cáo của bà H1, ông H sửa
Bản án sơ thẩm, buộc bị đơn ông D người kế thừa quyền và nghĩa vụ của ông K
trả lại cho các con của ông T phần đất tranh chấp diện tích 10.473,8m
2
, tọa lạc
tại phường T, thành phố B, tỉnh Bình Dương; hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất số 681/GCN-SB ngày 06/01/1993 của Ủy ban nhân dân huyện B cấp cho ông
Công K. Tuy nhiên, bà H1ông H cũng không xuất trình được tài liệu, chứng
cứ nào mới để chứng minh cho yêu cầu kháng cáo của mình nên không căn cứ
để chấp nhận kháng cáo của H1, ông H và ý kiến đề nghị của Luật bảo vệ
quyền lợi hợp pháp cho bà H1.
Do đó, không chấp nhận kháng cáo của ông H H1, theo ý kiến đề nghị
của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh là căn
cứ. Tuy nhiên cần điều chỉnh lại cách tuyên tại phần quyết định của Bản án sơ thẩm
cho chính xác như sau: Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông
Công T, (người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của ông Công T gồm các ông,
bà: Lê Công H, Lê Thúy N, Lê Ngọc H1, Lê Công T1, Lê Thúy T2) yêu cầu ông
Công D những người kế thừa quyền nghĩa vụ của ông Công K trả lại cho
ông T (người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của ông Công T gồm các ông, bà:
Công H, Thúy N, Ngọc H1, Công T1, Thúy T2) phần đất tranh
chấp diện tích 10.473,8m
2
thuộc thửa 2457, tờ bản đồ số 21 tọa lạc tại phường
T, thành phố B, tỉnh Bình Dương; Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên
đơn ông Công T, (người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của ông Công T
gồm các ông, bà: Công H, Thúy N, Ngọc H1, Công T1, Thúy T2)
yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số: 681/GCN-SB do Ủy ban nhân
dân huyện B cấp cho ông Lê Công K ngày 06/01/1993.
[4] Về án phí dân sự thẩm: Người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của ông
Lê Công T gồm các ông, bà: Lê Công H, Lê Thúy N, Lê Ngọc H1, Công T1,
Thúy T2 phải nộp 300.000 đồng án phí dân sự thẩm. Được trừ vào số tiền nộp
tạm ứng án phí theo biên lai thu số 00120149 ngày 29/8/2023. Hoàn trả lại cho
người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của ông Công T gồm các ông, bà:
Công H, Thúy N, Ngọc H1, Công T1, Thúy T2) số tiền nộp tạm ứng
án phí còn lại 2.700.000 đồng.
15
Về hoàn trả số tiền nộp tạm ứng án phí cho các đương sự: Tại Công văn số:
1745/CTHADS-NV ngày 03/8/2023 Cục Thi hành án dân sự tỉnh Bình Dương xác
định đã hoàn trả cho ông Công H 3.000.000 đồng theo Quyết định thi hành án
số: 51/QĐ-CTHDS ngày 28/12/2022 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Bình Dương.
Các khoản còn lại theo Bản án 03/2017 ngày 24/4/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh
Bình Dương và Bản án số 113/2020/DS-PT ngày 25/5/2020 của Tòa án nhân dân
cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh thì chưa thi hành. Do đó, hoàn trả cho các
đương sự Công D, Đặng Thị Mai A, Thúy H4, Công L1, Thúy L,
Trung H3, Lê Thị M, Lê Trúc L2 mỗi người 300.000 đồng nộp tạm ứng án phí theo
biên lai thu 0010627 đến 0010635 ngày 03/5/2017 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh
Bình Dương.
[5] Về án phí phúc thẩm: Do sửa án sơ thẩm nên Ngọc H1 ông
Công H không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều
29 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường
vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sử dụng án phí
lệ pTòa án. Hoàn trả cho H1 và ông H số tiền nộp tạm ứng án phí phúc
thẩm.
[6] Quyết định khác của Bản án thẩm về chi phí tố tụng không kháng
cáo, kháng nghị hiệu lực pháp luật thi hành kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo,
kháng nghị.
Vì những lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
1. Căn cứ khoản 2 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; khoản 2 Điều
Điều 29 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sử
dụng án phí và lệ phí Tòa án;
- Không chấp nhận kháng cáo của bà Lê Ngọc H1 và ông Công H là người
kế thừa quyền và nghĩa vụ của nguyên đơn.
2. Sửa một phần Bản án dân sự sơ thẩm số: 102/2024/DS-ST ngày 18/12/2024
của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương:
Căn cứ các Điều: 5, 26, 34, 35, 37, 39, 147, 158, 165, 203, 227, 228, 235, 266,
271, 273, 473, 474, 477, 479 của Bộ luật Ttụng dân sự năm 2015; Điều 14, Điều
19 Pháp lệnh Thừa kế năm 1990; Điều 189, 192, 206, 612, 613, 614, 624, 630 của
Bộ luật Dân sự năm 2015; các Điều: 5, 166, 188, 203 Luật Đất đai năm 2013; Nghị
quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội
quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa
án;
Tuyên xử:
2.1. Không chấp nhận u cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Công T
(người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tng của ông Công T gồm các ông, bà:
Công H, Thúy N, Lê Ngọc H1, Lê Công T1, Thúy T2) yêu cầu ông Công
D những người kế thừa quyền và nghĩa vụ của ông Công K trả lại cho ông T
(người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tng của ông Công T gồm các ông, bà:
16
Công H, Thúy N, Ngọc H1, Công T1, Thúy T2) phần đất tranh chấp
diện tích 10.473,8m
2
thuộc thửa 2457, tờ bản đồ số 21 tọa lạc tại phường T,
thành phố B, tỉnh Bình Dương;
2.2. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Công T,
(người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tng của ông Công T gồm các ông, bà:
Công H, Thúy N, Ngọc H1, Công T1, Thúy T2) yêu cầu hủy Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số: 681/GCN-SB do Ủy ban nhân dân huyện B cấp
cho ông Lê Công K ngày 06/01/1993.
3. Về án phí sơ thẩm: Người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của ông Lê Công
T gồm các ông, bà: Lê Công H, Thúy N, Lê Ngọc H1, ng T1, Thúy T2
phải nộp 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm. Được trừ vào số tiền nộp tạm ứng án
phí theo biên lai thu số 00120149 ngày 29/8/2023. Hoàn trả lại cho người kế thừa
quyền, nghĩa vtố tụng của ông Công T gồm các ông, bà: Lê Công H, Thúy
N, Ngọc H1, Công T1, Thúy T2 số tiền nộp tạm ứng án phí còn lại
2.700.000 đồng (hai triệu bảy trăm ngàn đồng).
- Hoàn trả cho các đương sự Lê Công D, Đặng Thị Mai A, Thúy H4,
Công L1, Lê Thúy L, Lê Trung H3, Lê Thị M, Lê Trúc L2 mỗi người 300.000 đồng
(ba trăm ngàn đồng) nộp tạm ứng án phí theo biên lai thu 0010627, 0010628,
0010629, 0010630, 0010631, 0010632, 0010633, 0010634, 0010635 ngày
03/5/2017 của Cc Thi hành án dân sự tỉnh Bình Dương.
4. Về án phí dân sự phúc thẩm: Ông Lê Công H và bà Lê Ngọc H1 không phải
nộp án phí phúc thẩm. Hoàn trả cho ông Công H bà Ngọc H1 mỗi người
300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) số tiền nộp tạm ứng án phí n sự phúc thẩm
theo biên lai thu số 0003592, 0003593 ngày 10/01/2025 của Cục Thi hành án dân
sự tỉnh Bình Dương.
5. Quyết định khác của Bản án sơ thẩm về chi phí tố tụng không có kháng cáo,
kháng nghị có hiu lc pháp luật thi nh kể t ngày hết thời hn kháng cáo, kháng nghị.
6. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(Đã ký)
Tải về
Bản án số 547/2025/DS-PT Bản án số 547/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 547/2025/DS-PT Bản án số 547/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất