Bản án số 52/2022/HS-ST ngày 29/11/2022 của TAND huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang về tội cố ý gây thương tích
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng tội danh
- Tải về
-
Bản án số 52/2022/HS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Thuộc tính Bản án 52/2022/HS-ST
Tên Bản án: | Bản án số 52/2022/HS-ST ngày 29/11/2022 của TAND huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang về tội cố ý gây thương tích |
---|---|
Tội danh: | 104.Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác (Bộ luật hình sự năm 1999) |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND huyện Châu Thành (TAND tỉnh Tiền Giang) |
Số hiệu: | 52/2022/HS-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 29/11/2022 |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ án: |
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN C, TỈNH TIỀN GIANG
BẢN ÁN 52/2022/HS-ST NGÀY 29/11/2022 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
Ngày 29 tháng 11 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Tiền Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 41/2022/TLST- HS ngày 28 tháng 10 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 51/2022/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 11 năm 2022 đối với bị cáo:
Đinh Ngọc Th (L), sinh năm 1990 tại Tiền Giang; CMND 312043856 Nơi cư trú: 57/7 Nguyễn Huỳnh Đ, Phường 2, thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang; Nghề nghiệp: làm thuê; trình độ văn hoá: 3/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đinh Văn S sinh năm 1955 và bà Nguyễn Ngọc N sinh năm1957; vợ Nguyễn Thị Tr sinh năm 1995, con (01 con) Đinh Thái Th sinh năm 2018; tiền án: không; tiền sự: không; bị cáo tại ngoại có mặt tại phiên tòa.
- Bị hại : Ông Văn Bá Đ, sinh năm 1968; (chết) Nơi cư trú: ấp Trường Xuân A, xã Thanh B, huyện C, tỉnh Tiền Giang.
+ Đại diện hợp pháp của bị hại :
Bà Nguyễn Thị V, sinh năm 1970 (vợ bị hại- có mặt) Nơi cư trú: ấp Trường Xuân A, xã Thanh B, huyện C, tỉnh Tiền Giang.
+ Đại diện theo ủy quyền (phần trá ch nhiệm dân sự) của bà Nguyễn Thị V:
Chị Văn Hồng Th, sinh năm 1991; (con của ông Đ, bà V- có mặt) Nơi cư trú: ấp Trường Xuân A, xã Thanh B, huyện C, tỉnh Tiền Giang.
+ Người có nghĩa vụ liên quan: Chị Nguyễn Thị Tr, sinh năm 1995; (vợ bị cáo- có mặt) Nơi cư trú: 57/7 Nguyễn Huỳnh Đ, Phường 2, thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang
- Ng ười l à m chứng :
1. Nguyễn Văn T, sinh năm 1972; (có mặt) Nơi cư trú: ấp Hưng Ng, xã Đăng Hưng Ph, huyện C, tỉnh Tiền Giang.
2. Nguyễn Minh T, sinh năm 1985; (có mặt) Nơi cư trú: ấp Bình Hòa B, xã Song B, huyện C, tỉnh Tiền Giang.
3. Hồ Văn Ph, sinh năm 1972; (vắng mặt) Nơi cư trú: ấp Bình A, xã Đăng Hưng Ph, huyện C, tỉnh Tiền Giang.
4. Nguyễn Văn M, sinh năm 1966; (có mặt) Nơi cư trú: ấp Đồng Tr, xã An Lục L, huyện C, tỉnh Long An.
5. Phạm Huệ Th, sinh năm 1981; (có mặt) Nơi cư trú: ấp Song T, xã An Lục L, huyện C, tỉnh Long An.
6. Nguyễn Minh T, sinh năm 1982; (có mặt) Nơi cư trú: ấp Song T, xã An Lục L, huyện C, tỉnh Long An.
7. Phạm Văn H, sinh năm 1965; ( vắng mặt) Nơi cư trú: ấp Đồng Tr, xã An Lục L, huyện C, tỉnh Long An.
8. Phạm Văn D, sinh năm 1957; (có mặt) Nơi cư trú: ấp Cầu V, xã An Lục L, huyện C, tỉnh Long An.
9. Văn Bá V, sinh năm 1981; (vắng mặt) Nơi cư trú: : ấp Trường Xuân A, xã Thanh B, huyện C, tỉnh Tiền Giang.
10. Trần Văn Tr, sinh năm 1957; (vắng mặt) Nơi cư trú: ấp Hưng Ng, xã Đăng Hưng Ph, huyện C, tỉnh Tiền Giang.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 17 giờ ngày 30/11/2020 ông Văn Bá Đ đến múa phá quàn động quan cho đám tang tại hộ ông Lê Văn H sinh năm 1954, ngụ ấp Hưng Ng, xã Đăng Hưng Ph, huyện C được bồi dưỡng 500.000 đồng. Bị cáo Đinh ngọc Th là thành viên đội di quan đề nghị ông Đ chia số tiền trên cho đội di quan thì giữa bị cáo và bị hại xảy ra cự cãi đánh nhau. Bị cáo dùng tay phải nắm các ngón tay lại tạo thành nắm đấm đánh một cái trúng vào vùng mặt ông Đ làm ông Đ té ngã ngửa xuống đường tại nơi có khoảng trống giữa hai xe mô tô đang dựng. Bị cáo tiếp tục dùng chân phải đạp một cái vào vùng mặt ông Đ, ông Đ đưa tay phải lên đỡ trúng tay. Sau đó mọi người can ngăn, bị cáo đi vào phụ làm lễ di quan. Anh Nguyễn Minh T thấy ông Đ bị co giật vài phút thì tự đứng dậy đi về. Đến khoảng 21 giờ cùng ngày, người nhà phát hiện ông Đ có biểu hiện co giật nên đưa đến bệnh viện Đa khoa Tiền Giang và chuyển đến bệnh viện Chợ Rẫy cấp cứu đến ngày 02/12/2020 ông Đồng tử vong.
Tại bản kết luận giám định pháp y về tử thi số 179/PY-PC09 ngày 18-12- 2020 của Phòng kỹ thuật hình sự- Công an tỉnh Tiền Giang kết luận nguyên nhân chết của nạn nhân Văn Bá Đ như sau: Tụ máu ngoài màng cứng, tụ máu dưới nhện, tụ máu trong não thất có tác động ngoại lực ở nạn nhân có bệnh lý viêm phổi, xơ hóa màng phổi và nhồi máu cơ tim cấp.
Theo công văn số 210/PC09-GTKLPY ngày 16/02/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự- Công an tỉnh Tiền Giang giải thích kết luận giám định pháp y về tử thi như sau:
+ Khi bị chấn thương vùng đầu sẽ gây ra “Tụ máu ngoài màng cứng, tụ máu dưới nhện, tụ máu trong não thất” đây là dấu hiệu thường gặp xảy ra độc lập hay kết hợp với nhau không có từ tụ máu ngoài màng cứng “sẽ dẫn đến” tụ máu dưới nhện, tụ máu trong não thất.
+ Tụ máu xảy ra sau khi chấn thương đến khi khối máu tụ nhiều gây ra hôn mê sau đó đưa đến tử vong. Thời gian không xác định được.
+ Khi va đập vào gát chân xe, tay cầm, nền lộ (vào vật cứng hay tác động ngoại lực) dẫn đến tụ máu nhưng vẫn có trường hợp không tổn thương tổ chức dưới da (dập, tụ máu).
Theo công văn số 122/PC09-GTKLPY ngày 09/3/2021 của của Phòng kỹ thuật hình sự- Công an tỉnh Tiền Giang giải thích kết luận giám định pháp y về tử thi số 179/PY-PC09 ngày 18/12/2020 như sau:
+ Tụ máu ngoài màng cứng, tụ máu dưới nhện, tụ máu trong não thất là nguyên nhân trực tiếp gây tử vong ở nạn nhân.
+ Các bệnh lý nền như viêm phổi, xơ hóa màng phổi và nhồi máu cơ tim cấp không phải là nguyên nhân dẫn đến tử vong trên nạn nhân này.
+ Các bệnh lý nền như viêm phổi, xơ hóa màng phổi và nhồi máu cơ tim cấp là yếu tố ảnh hưởng đến quá trình tử vong của nạn nhân.
Theo công văn số 198/PC09-GTKLPY ngày 16/4/2021 của của Phòng kỹ thuật hình sự- Công an tỉnh Tiền Giang giải thích kết luận giám định pháp y về tử thi như sau:
+ Quá trình làm việc đối tượng Đinh Ngọc Th đã khai nhận dùng tay phải (là tay thuận) nắm các ngón tay lại thành nắm đấm và đấm vào vùng mặt bên trái của ông Đồng 01 cái có thể không để lại vết thương bầm, tụ máu dưới da không; có thể dẫn đến tụ máu ngoài màng cứng, tụ máu dưới nhện, tụ máu tỏng não thất hay không? Phòng kỹ thuật hình sự trả lời “Nắm đấm không gây được tụ máu ngoài màng cứng và có thể để lại vết thương bầm tụ máu dưới da nhưng nắm đấm có thể gây ra tụ máu dưới nhện và tụ máu trong não thất”.
+ Nếu nạn nhân không có bệnh lý nền thì việc “Tụ máu ngoài màng cứng, tụ máu dưới nhện, tụ máu trong não thất” có thể dẫn đến tử vong hay không? Phòng kỹ thuật hình sự trả lời “Nếu nạn nhân không có bệnh lý nền thì việc “Tụ máu ngoài màng cứng, tụ máu dưới nhện, tụ máu trong não thất” là nguyên nhân dẫn đến tử vong.
+ Cơ chế hình thành vết thương Tụ máu ngoài màng cứng, tụ máu dưới nhện, tụ máu trong não thất như thế nào? Phòng kỹ thuật hình sự trả lời “Khi bị tác động trực tiếp bởi vật cứng hoặc va đập vào vật cứng dẫn đến tụ máu ngoài màng cứng, tụ máu dưới nhện, tụ máu trong não thất”.
+ Các bệnh lý nền như viêm phổi, xơ hóa màng phổi và nhồi máu cơ tim cấp là yếu tố ảnh hưởng đến quá trình tử vong của nạn nhân.
Bản cáo trạng số 41/CT-VKSCG ngày 21-10-2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện C, tỉnh Tiền Giang truy tố hành vi của bị cáo Đinh Ngọc Th đã phạm vào tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm a khoản 4 Điều 134 Bộ luật hình sự năm 2015. Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố các bị cáo. Đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử:
Tuyên bố bị cáo Đinh Ngọc Th phạm tội “Cố ý gây thương tích”.
* Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 134; Điều 38; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Xử phạt Bị cáo Đinh Ngọc Th từ 07–08 năm tù.
Trách nhiệm bồi thường dân sự: Bị cáo đã bồi thường được số tiền 112.000.000 đồng, giữa đại diện bị hại với bị cáo và vợ bị cáo thỏa thuận bồi thường tiếp 100.000.000 đồng, mỗi tháng trả 2.000.000 đồng. Đề nghị Hội đồng xét xử ghi nhận.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung cáo trạng đã truy tố, lời khai nhận của bị cáo phù hợp với biên bản khám nghiệm hiện trường, kết luận giám định pháp y và các chứng cứ tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó đã có cơ sở xác định: khoảng hơn 17 giờ ngày 30/11/2020 bị cáo dùng tay phải đấm một cái trúng vào dùng mặt ông Đ làm ông Đ té ngã ngửa xuống đường và dùng chân phải đạp một cái vào vùng mặt ông Đ gây thương tích. Đến khoảng 21 giờ cùng ngày, người nhà phát hiện ông Đ có biểu hiện co giật nên đưa đến bệnh viện Đa khoa Tiền Giang và chuyển đến bệnh viện Chợ Rẫy cấp cứu đến ngày 02/12/2020 ông Đ tử vong.
Về năng lực nhận thức và điều khiển hành vi tại thời điểm gây án bị cáo đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi, nên bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội đã gây ra.
Theo quy định tại điểm a khoản 4 Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015 thì:
“ Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 14 năm:
a) làm chết người;” Như vậy hành vi dùng nắm đấm đánh vào mặt và dùng chân đạp vào vùng mặt người bị hại của bị cáo dẫn đến ông Văn Bá Đ chết đã đủ yếu tố cấu thành tội “cố ý gây thương tích” tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm a khoản 4 Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015.
[2] Hành vi phạm tội của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, đã tước đi quyền được sống của bị hại, đây là quyền bất khả xâm phạm của công dân được pháp luật bảo vệ, ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương, gây hoang mang lo sợ trong quần chúng nhân dân.
Xét nguyên nhân dẫn đến đánh nhau là do bị cáo yêu cầu ông Đ chia tiền bồi dưỡng phá quàn, do không kiềm chế được bản thân trong lúc nóng giận nên bị cáo mới có hành động dùng nắm đấm đánh vào mặt và dùng chân đạp vào vùng mặt người bị hại. Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, sẽ bị pháp luật trừng trị nghiêm khắc, nhưng chỉ vì nóng giận tức thời, bị cáo đã tước đi sinh mạng của bị hại, điều đó cũng cho thấy ý thức xem thường pháp luật của bị cáo. Do đó, cần có mức án nghiêm khắc để cải tạo giáo dục bị cáo. Tuy nhiên, xét thấy bị cáo có nhân thân tốt; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; đã tự nguyện khắc phục, bồi thường một phần thiệt hại cho bị hại. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015. Do đó cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.
[3] Lời luận tội của Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa đề nghị kết tội bị cáo theo toàn bộ nội dung cáo trạng đã truy tố và hướng giải quyết về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, Hội đồng xét xử có xem xét khi quyết định.
[4] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện C, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện C, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại, không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[5] Về trách nhiệm dân sự:
+ Đại diện bị hại chị Văn Hồng Th và bà Nguyễn Thị V yêu cầu bị cáo Đinh Ngọc Th (vợ bị cáo chị Nguyễn Thị Tr bồi thường thay) bồi thường tiếp số tiền 100.000.000 đồng, mỗi tháng 2.000.000 đồng đến khi hết số tiền trên, bắt đầu thực hiện từ ngày 10/3/2023.
Chị Nguyễn Thị Tr (vợ bị cáo) tự nguyện đồng ý bồi thường số tiền trên cho bị hại. Sự tự nguyện bồi thường của chị Trúc không trái quy định của pháp luật, do đó Hội đồng xét xử cần ghi nhận. [8] Về án phí:
Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí Hình sự sơ thẩm; Chị Nguyễn Thị Tr phải chịu 5.000.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại điểm a,c khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTV Quốc hội.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Tuyên bố bị cáo Đinh Ngọc Th phạm tội “Cố ý gây thương tích” Căn cứ vào điểm a khoản 4 Điều 134; Điều 38; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Xử phạt: Bị cáo Đinh Ngọc Th 07 (bảy) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi thi hành án.
+ Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 2015; Điều 584, Điều 585, Điều 586, Điều 590 Bộ luật Dân sự năm 2015.
Chị Nguyễn Thị Tr (vợ bị cáo Đinh Ngọc Th) có nghĩa vụ bồi thường cho đại diện hợp pháp bị hại bà Nguyễn Thị V (đại diện theo ủy quyền chị Văn Hồng Th) số tiền còn lại 100.000.000 đồng, hình thức trả dần mỗi tháng 2.000.000 đồng đến khi hết 100.000.000 đồng, bắt đầu thực hiện từ ngày 10/3/2023.
Kể từ ngày đại diện hợp pháp bị hại bà Nguyễn Thị V (đại diện theo ủy quyền chị Văn Hồng Th) có đơn yêu cầu thi hành án, nếu chị Nguyễn Thị Tr (vợ bị cáo Đinh Ngọc Th) chậm trả tiền thì phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả. Lãi suất phát sinh do chậm trả tiền thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.
+ Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015; điểm a,c khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí Hình sự sơ thẩm; chị Nguyễn Thị Tr phải chịu 5.000.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.
+ Quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015.
Bị cáo, bà V, chị Th, chị Tr có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm; Để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang xét xử lại theo trình tự phúc thẩm.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự .
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!