Bản án số 496/2019/HNGĐ-ST ngày 04/11/2019 của TAND huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre về ly hôn

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Mục lục
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 496/2019/HNGĐ-ST

Tên Bản án: Bản án số 496/2019/HNGĐ-ST ngày 04/11/2019 của TAND huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre về ly hôn
Quan hệ pháp luật: 181. Tội cưỡng ép kết hôn, ly hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, cản trở ly hôn tự nguyện (Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015)
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Thạnh Phú (TAND tỉnh Bến Tre)
Số hiệu: 496/2019/HNGĐ-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 04/11/2019
Lĩnh vực: Hôn nhân gia đình
Áp dụng án lệ: Không
Đính chính: Không
Thông tin về vụ/việc:
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THẠNH PHÚ, TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 496/2019/HNGĐ-ST NGÀY 04/11/2019 VỀ LY HÔN

Ngày 04 tháng 11 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 395/2019/TLST-HNGĐ ngày 05 tháng 7 năm 2019 về việc: “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 2341/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 30 tháng 9 năm 2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 110/2019/QĐST-HNGĐ ngày 17 tháng 10 năm 2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Huỳnh Thị Thùy Ng, sinh năm: 1994, địa chỉ: Số 170/2 ấp An Ngãi A, xã A, huyện P, tỉnh Bến Tre. Có đơn xin xét xử mặt.

2. Bị đơn: Anh Hà Văn Kh, sinh năm: 1989, địa chỉ: Số 127/2 ấp An Ngãi B, xã A, huyện P, tỉnh Bến Tre. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Theo đơn khởi kiện đề ngày 05/7/2019, trong quá trình tố tụng Ng đơn chịHuỳnh Thị Thùy Ng trình bày:

Chị và anh Hà Văn Kh có quen biết nhau và đi đến hôn nhân, chị và anh Kh có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã An Thạnh cấp giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 03/5/2013. Sau khi kết hôn, chị và anh Kh sống chung hạnh phúc và có với nhau một con chung tên Hà Gia H, sinh ngày 05/12/2013 nhưng thời gian gần đây thì vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn dẫn đến cuộc sống hôn nhân không còn hạnh phúc, nguyên nhân là do anh Kh không lo làm ăn và không quan tâm gia đình mặc dù chị nhiều lần cho Kh cơ hội để anh Kh thay đổi bản thân nhưng anh Kh vẫn không thay đổi. Xét thấy không thể tiếp tục sống chung nên từ tháng 01 năm 2019 chị dẫn con về nhà mẹ ruột sinh sống cho đến nay. Trong thời gian sống ly thân, anh Kh không có đến nhà mẹ chị để thăm chị và con nhằm hàn gắn cuộc sống vợ chồng. Nay tình cảm giữa chị và anh Kh không còn nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Kh, chị không yêu cầu nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ chồng khi ly hôn; sau khi ly hôn chị yêu cầu được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung là Hà Gia H, sinh ngày 05/12/2013, không yêu cầu anh Kh cấp dưỡng nuôi con;

Về tài sản chung: Chị không yêu cầu giải quyết;

Về nợ chung: Chị và anh Kh không có nợ chung nên không yêu cầu giải quyết.

Trong quá trình tố tụng anh Hà Văn Kh vắng mặt nên không có lời trình bày.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thạnh Phú phát biểu quan điểm: Việc tuân theo pháp luật trong thời gian chuẩn bị xét xử: Thẩm phán đã thực hiện đúng quy định Bộ luật tố tụng dân sự.

Về việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử,Thư ký: Hội đồng xét xử,Thư ký đã tuân theo đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về việc xét xử sơ thẩm vụ án.

Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: Ng đơn đã thực hiện đúng quy định Bộ luật tố tụng dân sự; bị đơn Hà Văn Kh không đến tòa để tham gia hòa giải, tham gia phiên tòa là chưa thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, 72 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung: Căn cứ vào các Điều 28, Điều 35 Bộ luật Tố tụng dân sự; các Điều 56, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình. Đề nghị: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Huỳnh Thị Thùy Ng. Chị Ng không yêu cầu nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ chồng khi ly hôn nên đề nghị không xem xét; Chị Ng được trực tiếp nuôi con chung là Hà Gia H, sinh ngày 05/12/2013; ghi nhận việc chị Ng không yêu cầu anh Kh cấp dưỡng nuôi con chung;

Về tài sản chung: Chị Ng không yêu cầu nên không xem xét;

Về nợ chung: Chị Ng trình bày không có nợ chung nên không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Căn cứ vào đơn xin ly hôn của chị Huỳnh Thị Thùy Ng thì vụ án có quan hệ pháp luật tranh chấp là Hôn nhân và gia đình về việc “Ly hôn”. Bị đơn anh Hà Văn Kh có nơi cư trú: Số 127/2 ấp An Ngãi B, xã A, huyện P, tỉnh Bến Tre nên căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a, khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự thì thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre.

[2] Về tố tụng: Nguyên đơn chị Huỳnh Thị Thùy Ng có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt, nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt chị Ng theo quy định tại Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Việc anh Kh vắng tại phiên tòa Hội đồng xét xử xét thấy: Anh Hà Văn Kh đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai đến tham gia phiên tòa nhưng anh Kh vẫn không có mặt.Việc vắng mặt không rõ lý do, không có đơn đề nghị xét xử vắng, nên Hội đồng xét xử xét xử vắng mặt anh Kh theo quy định tại điểm b, khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự.

[3] Về hôn nhân: ChịHuỳnh Thị Thùy Ng và anh Hà Văn Kh kết hôn trên cơ sở tự nguyện và bình đẳng không bên nào bị lừa dối hoặc ép buộc. Cả hai đều có đủ điều kiện kết hôn và được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận kết hôn nên đây là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật công nhận.

Xét yêu cầu ly hôn của chị Thùy Ng Hội đồng xét xử xét thấy: Sau khi kết hôn chị Ng và anh Kh có thời gian sống hạnh phúc không lâu thì phát sinh mâu thuẫn, chị Ng đã tạo cơ hội để vợ chồng đoàn tụ nhưng tình cảm vợ chồng vẫn không cải thiện được.Theo biên bản xác minh ngày 01/10/2019 của Tòa án đối với ông Hà Văn Mến là cha ruột của anh Hà Văn Kh thì nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn giữa anh Kh và chị Nguyên là do anh Kh không lo làm ăn và không quan tâm gia đình. Ông đã khuyên ngăn anh Kh nhưng anh Kh vẫn không thay đổi nên chị Ng đã dẫn con về nhà mẹ ruột sinh sống cho đến nay. Nhiều lần ông nhận được Thông báo, giấy triệu tập của Tòa án đối với anh Kh và ông có chuyển giao lại cho anh Kh đầy đủ, đúng thời gian quy định như đã cam kết nhưng anh Kh không đến Tòa án theo nội dung Tòa án đã thông báo và triệu tập. Điều này đã chứng minh anh Kh không còn mong nuốn hàn gắn tình cảm vợ chồng với chị Ng. Mặt khác trong thời gian sống ly thân anh Kh không đến thăm chị Ng và con để nhằm hàn gắn lại tình cảm vợ chồng. Xét thấy, tình trạng hôn nhân giữa chị Ng và anh Kh đã mâu thuẫn đến mức trầm trọng, không thể tiếp tục cuộc sống vợ chồng nên chị Ng yêu cầu được ly hôn với anh Kh là có căn cứ. Phù hợp với Điều 56 luật Hôn nhân và gia đình nên được Hội đồng xét xử chấp nhận. Chị Ng không yêu cầu nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ chồng khi ly hôn nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4] Xét việc chị Ng yêu cầu nuôi con chung là Hà Gia H, sinh ngày 05/12/2013 Hội đồng xét xử xét thấy: Từ lúc chị Ng và anh Kh sống ly thân cho đến nay, chị Ng là người trực tiếp nuôi dưỡng cháu Gia Hân. Anh Kh từ lâu không quan tâm đến con chung, bỏ mặc cho chị Ng nuôi dưỡng. Mặt khác, anh Kh biết được khi ly hôn, chị Ng có nguyện vọng được trực tiếp nuôi con chung nhưng anh Kh không có ý kiến gì. Do đó, việc chị Ng có yêu cầu được tiếp tục nuôi con chung là phù hợp nên được Hội đồng xét xử chấp nhận. Ghi nhận việc chị Ng không yêu cầu anh Kh cấp đưỡng nuôi con chung.

[5] Về tài sản chung: Chị Ng trình bày không yêu cầu Tòa xem xét giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về nợ chung: Chị Ng trình bày không có nợ chung, không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Chị Ng phải nộp án phí theo quy định tại Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[ 8] Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH:

Căn cứ vào các Điều 28, điểm a, khoản 1 Điều 35, Điều 147 và Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự; các Điều 51, 56, 58, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình.

Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của chịHuỳnh Thị Thùy Ng. Chị Ng được ly hôn với anh Hà Văn Kh. Chị Ng không yêu cầu nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ chồng khi ly hôn nên Hội đồng xét xử không xem xét.

2. Về con chung: Chị Ng được trực tiếp nuôi con chung là Hà Gia H, sinh ngày 05/12/2013. Ghi nhận việc chị Ng không yêu cầu anh Kh cấp dưỡng nuôi con chung.

Sau khi ly hôn, anh Kh vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên. Anh Kh có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Trên cơ sở vì lợi ích của con, cha mẹ hoặc cá nhân, tổ chức theo quy định có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con, mức cấp dưỡng nuôi con khi có căn cứ.

3. Về tài sản chung: Chị Ng không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

4. Về nợ chung: Chị Ng trình bày không có nợ chung nên không xem xét.

Về án phí hôn nhân và gia đình: ChịHuỳnh Thị Thùy Ng phải nộp số tiền là 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng theo biên lai thu số 0003956 ngày 05 tháng 7 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre.

Các đương sự có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (04/11/2019), đương sự vắng mặt tại phiên Tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất