Bản án số 460/2023/HS-PT ngày 19/06/2023 của TAND cấp cao về tội vận chuyển trái phép chất ma túy

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 460/2023/HS-PT

Tên Bản án: Bản án số 460/2023/HS-PT ngày 19/06/2023 của TAND cấp cao về tội vận chuyển trái phép chất ma túy
Tội danh: 250.Tội vận chuyển trái phép chất ma túy (Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015)
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND cấp cao
Số hiệu: 460/2023/HS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 19/06/2023
Lĩnh vực: Hình sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án: Nguyễn Ngọc T tội vận chuyển trái phép chất ma túy
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI HÀ NỘI
Bản án số: 460/2023/HS-PT
Ngày: 19/6/2023
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập- Tự do- Hạnh phúc
NN DANH
NƯỚC CNG HÒA XÃ HỘI CH NGHĨA VIỆT NAM
A ÁN NN DÂN CẤP CAO TẠI NỘI
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Bùi Xuân Trọng;
Các Thẩm phán: Ông Điều Văn Hằng;
Ông Phùng Hải Hiệp.
- Thư ký phiên tòa: Hoàng Th Nhật Phương, Thư a án nhân
nhân dân cấp cao tại Hà Nội.
- Đại diện Viện kiểm t nhân n cấp cao tại Nội tham gia phn tòa:
Ông Nguyễn Văn Tuyến, Kiểm sát viên cao cấp.
Ngày 19 tháng 6 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc, xét
xử phúc thẩm công khai vụ án hình s th số 887/2019/TLPT- HS ngày
26/9/2023 đối với bị cáo Nguyễn Ngọc T do kháng cáo của các bị o đối
với bản án hình sthẩm số 58/2022/HS-ST ngày 26 tháng 9 m 2022 của
Tòa án nhân dân tỉnh nh Phúc.
* Bị cáo kháng cáo:
Nguyễn Ngọc T, sinh ngày 07/7/1982; nơi đăng hộ khẩu thường trú:
Phường HH, thành phố V, tỉnh Vĩnh Phúc; nơi cư trú: Phố C, phường HH, thành
phố V, tỉnh Vĩnh Phúc; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: Lớp 9/12; dân
tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông
Nguyễn Ngọc T1 bà Nguyễn Thị T2; vợ Bùi Thị M (Đã ly hôn tháng
08/2018) và 01 con.
Tiền án: 01, tại Bản án số: 29/2012/HSST ngày 09/3/2012 Tòa án nhân
dân thành phố V, tỉnh Vĩnh Phúc xử phạt Nguyễn Ngọc T 08 năm 06 tháng tù về
tội Mua bán trái phép chất ma y”. Ngày 29/01/2019 chấp hành xong hình
phạt tù trở về địa phương; tiền sự: Không.
Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 29/4/2020 đến nay, hiện đang bị
tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Vĩnh Phúc (Có mặt).
2
* Người bào chữa cho b cáo:
- Ông Nguyễn Văn H - Luật Công ty Luật TNHH KP, thuộc Đoàn luật
sư tỉnh Vĩnh Phúc (Vng mt, có đơn đề ngh xét x vng mt).
Địa ch: S 3, ph QGL, khu dân t xây thuộc khối quan tỉnh y,
phưng Đ, thành phố V, tỉnh Vĩnh Phúc.
- Ông Nguyn Minh L - Luật Công ty Lut TNHH L thuộc Đoàn luật sư
thành phố Hà Nội (Vng mt).
- Ông Nguyễn Trung T3, ông Trần Văn T4 Công ty luật TNHH T34 thuc
Đoàn luật sư thành ph Hà Nội; địa ch: s31 NX, phường , quận X, thành
ph Hà Nội (Ông T3 có mt, ông T4 vắng mt).
- Ông Hoàng Tuấn A, Ông Thiu Quang S - Luật Công ty Luật TNHH
Th thuộc Đoàn luật thành phố Nội; địa ch: s360 K, phường NK, qun
B, thành ph Hà Ni (Có mt).
* Người có quyền li nghĩa v liên quan đến v án:
- Anh Phạm Văn H1, sinh năm 1983; nơi cư trú: Thôn C1, ĐC, huyện Y,
tỉnh Vĩnh Phúc (Vắng mặt).
- Nguyễn Thị T2, sinh năm 1963; nơi trú: Phố C, phường HH, thành
phố V, tỉnh Vĩnh Phúc (Có mặt).
- Anh Đỗ Tiến D1, sinh năm 1979, nơi cư trú: Tổ 5, phường T5, thành phố
ĐP, tỉnh Điện Biên (Vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu trong hồ vụ án diễn biến tại phiên tòa, nội dung
vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 6 giờ 30 phút ngày 29/4/2020, T công tác của Phòng cảnh sát
điu tra tội phạm về ma y - Công an tỉnh Vĩnh Phúc phối hợp với Phòng cnh
sát giao thông Công an tỉnh Vĩnh Phúc đang làm nhiệm v ti Km 4 + 873,
đưng quc l X (đầu cầu V1) thuộc thôn BT, xã Đ1, huyện V2, tỉnh Vĩnh Phúc
thì nhận được tin báo của quần chúng nhân dân báo tin xe ô tải màu trắng,
BKS 19C-113.48 đi từ ng cu V2 trên quốc l X vào địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc
đang vận chuyển trái phép chất ma túy. Tổ công tác tiến hành xác minh nguồn
tin, phát hiện xe ô tải nhãn hiệu Hyundai, màu sơn trắng BKS 19C-113.48
đang đi đến đầu cu V2, đã yêu cầu dng xe kim tra, trên ca bin xe ô tô lúc này
có 02 người, trong đó người điều khiển xe ô tô là Phạm Văn H1, sinh năm 1983,
trú tại: Thôn C1, ĐC, huyện Y, tỉnh Vĩnh Phúc người ngồi ghế phụ
3
Nguyễn Ngọc T, sinh ngày 07/7/1982, trú tại: Phố C, phường HH, thành phố V,
tỉnh Vĩnh Phúc, phát hiện tại vị trí để chân phụ lái nơi T ngồi 01 thùng giấy
carton kích thước (34 x 23,5 x 22) cm, được đóng, dán kín bên ngoài bằng
băng dính màu trắng, một mặt của hộp giấy carton dán 01 tờ giấy trắng k ô
ly kích thước (23,5 x 16) cm ghi hàng chữ Người nhn Hoà Bnh
0362.117.946”, bên trong hộp giấy 01 chiếc áo mưa màu ghi xám 01 bao
xác rắn màu hồng để hở, bên trong đựng 01 túi vải màu hồng in hàng chữ
Bitishunter được buộc túm, bên trong túi vải 01 bọc túi nilon bằng hai
chiếc túi nilon màu đen sáng màu, lồng vào nhau, bên trong bọc túi nilon
10 vật hình khối hộp kích thước đều bằng nhau (16 x10 x 2,5) cm, bên trong
10 khối hộp này là chất bột màu trắng được ép thành bánh, ngoài được bọc bằng
nhiều lớp nilon và giấy màu vàng, màu xanh và sáng màu. T tkhai nhận 10 vật
hình khối hộp cha chất bột màu trắng được ép thành bánh là ma túy heroine
của T nhận vận chuyển cho người nam giới tên S1 ttỉnh Hoà Bình đem đến
huyện M1, thành phố Nội để hưởng tiền công 20.000.000 đồng (Hai mươi
triu đng). Tổ công tác tiến hành thu giữ và niêm phong 10 khối hộp cha chất
bột màu trắng theo đúng quy định, hiệu A1; 01 chiếc áo mưa màu ghi xám,
01 bao xác rắn màu hồng, 01 túi vải màu hồng in hàng chữ Bitishunter”, 01
túi nilon màu đen 02 túi nilon sáng màu để trong thùng giấy carton nêu trên
đã được tách riêng đóng gói niêm phong trong một hộp giấy theo đúng quy
định, hiệu A2; 01 v thùng giấy carton nêu trên được niêm phong trong một
hộp giấy theo quy định, ký hiệu A3. Ngoài ra còn thu giữ trong cabin xe ô
gồm 05 chiếc điện thoại di động, trong đó của Phạm Văn H1 03 chiếc, gồm:
01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone, v màu vàng trắng, ốp bọc
lưng bằng nhựa, trong ốp lưng 01 th sim, được niêm phong hiệu A4; 01
chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO, v màu đ, đen có ốp lưng bằng nhựa
màu trắng, được niêm phong hiệu A5 01 chiếc điện thoại di động nhãn
hiệu Nokia, v màu đen, được niêm phong hiệu A7; của Nguyễn Ngọc T
02 chiếc điện thoại, gồm: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Sam Sung, v
màu xanh, đen, ốp lưng bằng nhựa sáng màu, bên trong ốp lưng có 01 tờ tiền
giấy ghi mệnh giá 100 USD, được niêm phong hiệu A6 01 chiếc điện
thoại di động nhãn hiệu Nokia, v màu đen, được niêm phong hiệu A8; thu
giữ tại thùng xe ô 01 xe máy nhãn hiệu Wave @, màu sơn trắng, đen, BKS
88F1-502.93 của H1; Thu giữ trong túi quần sau bên phải của T đang mặc 01
chiếc giả da màu nâu, bên trong 400.000 đồng, 01 giấy chng minh nhân
dân và 02 giấy phép lái xe đều mang tên Nguyễn Ngọc T; Thu giữ trong túi quần
4
sau bên phải của Phạm Văn H1 đang mặc 01 chiếc giả da màu nâu, bên trong
5.550.000đồng, 01 giấy chng minh nhân dân, 01 giấy phép lái xe đều
mang tên Phạm Văn H1, 01 giấy đăng xe ô mang tên Phạm Văn N1, 02
giấy chng nhận bảo hiểm tự nguyện mô tô, xe máy mang tên Phạm Văn H1, 01
bản sao giấy đăng xe 01 giấy biên nhận thế chấp mang tên Phạm
Văn H1 tạm giữ xe ô BKS: 19C- 113.48. Tổ công tác tiến hành lập biên
bản bắt người phạm tội quả tang đối với Nguyễn Ngọc T, thu giữ vật chng, đồ
vật nêu trên cùng xe ô BKS: 19C- 113.48 của Phạm Văn H1 rồi đưa các đối
tượng về trụ sở làm việc.
Cùng ngày, quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Vĩnh Phúc đã ra lệnh
khám xét khẩn cấp chỗ của Nguyễn Ngọc T tại Phố Cả, phường HH, thành
phố V, tỉnh Vĩnh Phúc. Kết quả khám xét không thu giữ đồ vật, tài sản, tài liệu
.
Ngày 29/04/2020, quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Vĩnh Phúc đã ra
Quyết định trưng cầu Phòng K thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Phúc giám
định chất ma tuý đối với mu vật gồm 10 vật hình khối hộp cha chất bột màu
trắng nghi vấn chất ma tuý Heroine thu giữ của Nguyễn Ngọc T, được niêm
phong hiệu A1. Tại Bản kết luận giám định số 1019 ngày 06/5/2020 của
Phòng K thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Phúc, kết luận:
“Cht bt màu trng được p thành bánh trong 10 khi hp của mu A1
gi giám định cht ma tu ln tp cht, loi Heroine. Khi lượng mu gi
giám định 3,514 kg (Ba phy năm mt bn kilogam, không k bao b). Hàm
lượng cht ma tu Heroine có trong 3,514 kg mu gi giám định là 74,266 %.
Hoàn lại mu vật sau giám định gồm 3,512kg (Ba phy năm mt hai
kilogam) mu chất bột màu trắng toàn bộ bao gói được niêm phong trong
cùng một bao gói giấy MẪU TRẢtrên giáp lai chữ của người tham gia
đóng gói, niêm phong hình dấu tròn đ của Phòng k thuật hình sự Công an
tỉnh Vĩnh Phúc”.
Ngày 01/5/2020, quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Vĩnh Phúc ra
Quyết định trưng cầu Phòng K thuật hình sCông an tỉnh Vĩnh Phúc giám
định k thuật số điện tử đối với 05 chiếc điện thoại di động thu giữ của Nguyễn
Ngọc T Phạm Văn H1 để xác định: Slượng các sim điện thoại được lắp
trong các điện thoại trên, số thuê bao của các sim điện thoại khôi phục, trích
xuất dữ liệu tin nhắn SMS, lịch sử cuộc gọi, tin nhắn Zalo, Facebook trong các
5
điện thoại trên. Tại Kết luận giám định số 1089/KL ngày 14/5/2020 của
Phòng k thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Phúc kết luận:
Khôi phục, trích xut được dữ liu trên các mu vt gi giám định qua
phân tích dữ liu thy:
- Mu vt k hiu A4 lp 02 thẻ sim di dng s thuê bao:
+84329183664 (ứng với sim đ sau p lưng đin thoi) +84866058062.
Trong đin thoi có 250 cuc gọi trong lịch s cuc gọi; 13 tin nhn SMS; 2378
tin nhn ứng dụng Zalo từ ngày 20/4/2020 đến ngày 29/4/2020;
- Mu vt k hiu A5 lp 02 thẻ sim di đng s thuê bao
+84984411909 +84972174931. Trong đin thoi 58 cuc gọi trong lịch
s cuc gọi, 14 tin nhn, 22 cuc gọi trong lịch s cuc gọi ứng dụng Zalo, 529
tin nhn ứng dụng Zalo t ngày 20/4/2020 đến ngày 29/4/2020.
- Mu k hiu A6 lp 02 sim di đng s thuê bao: +84986365666
+84965085085.
- Mu k hiu A7 không lp thẻ sim, không dữ liu lịch scuc gọi
và tin nhn từ ngày 20/4/2020 đến ngày 29/4/2020.
- Mu k hiu A8 lp 01 thẻ sim di đng s thuê bao +84359759692.
Trong đin thoi 01 cuc gọi trong lịch s cuc gọi, 02 tin nhn từ ngày
20/4/2020 đến ngày 29/4/2020.
Toàn b dữ liu tin nhn lịch s cuc gọi nêu trên được in trên bn in
dữ liu kèm theo kết lun giám định. Toàn b tin nhn lịch s cuc gọi khôi
phục trích xut được trên các mu vt gi giám định được sao lưu ra 01 đĩa
DVD kèm theo kết lun giám định.
Từ chi giám đnh mt phần với ni dung trưng cầu: Khôi phục, trích xut dữ
liu tin nhn, lịch s cuc gọi, tin nhn Zalo, Facebook đi với đin thoi di đng
nhãn hiu Sam sung, u xanh (mu k hiu A6) do ni dung yêu cầu t quá kh
ng chuyên n của giám định viên (do đin thoi được khóa bo mt n hnh,
không kết ni được với c thiết bị, phần mềm trích xut dữ liu hin có).
quan điều tra đã tiến hành kiểm tra, soát toàn bộ dữ liệu tin nhắn và
lịch sử cuộc gọi kèm theo Kết luận giám định số 1089/KLGĐ ngày 14/5/2020
của Phòng k thuật hình sCông an tỉnh Vĩnh Phúc không phát hiện dữ liệu gì
liên quan. quan điều tra đã nhiều lần yêu cầu Nguyễn Ngọc T cung cấp mật
khẩu mở khóa mình hình chiếc điện thoại Sam Sung v màu xanh, đen thu giữ
6
của T, nhưng T khai nhận không xác định được mật khẩu mkhoá màn nh
chiếc điện thoại này hiện nay nthế nào trước ngày 29/04/2020 T để điện
thoại này ở nhà thì có mấy người cháu của T đến chơi, không rõ ai đã đặt lại mật
khẩu khoá màn hình điện thoại của T, do vậy T không mở được khóa mình hình
điện thoại này.
Ngày 04/06/2020, quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Vĩnh Phúc ra
Quyết định trưng cầu giám định bổ sung, trưng cầu Viện khoa học hình sự - Bộ
Công an giám định k thuật số điện tử đối với chiếc điện thoại di động nhãn
hiệu Sam Sung thu giữ của Nguyễn Ngọc T, được niêm phong trong mu
hiệu A6. Tại bản Kết luận giám định số 3505/C09-P6 ngày 08/7/2020 của Viện
khoa học hình sự - Bộ Công an kết luận: Không m được khoá màn hnh máy
đin thoi nhãn hiu Sam sung gi giám định; Không khôi phục trích xut
được dữ liu đin t lưu giữ trong máy đin thoi Samsung gi giám định”.
Ngày 04/05/2020, quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Vĩnh Phúc ra
các quyết định trưng cầu Viện khoa học hình sự - Bộ Công an để giám định dấu
vết sinh học (Gen) và giám định dấu vết đường vân đối với 01 thùng giấy carton
kích thước (34 x 23,5 x 22) cm, mt mặt của thùng giấy carton dán 01 tờ
giấy trắng k ô ly kích thước (23,5 x 16) cm ghi hàng chữ Người nhn Hoà
Bnh 0362117946 (mu vật được niêm phong ký hiệu A3).
Tại Kết luận giám định số 2514/C09-TT3 ngày 08/5/2020 của Viện khoa
học hình sự Bộ Công an kết luận: Trên hp giy carton gi giám định bám
dính tế bào người có kiu gen trng với kiu gen của Nguyn Ngọc T”.
Tại Kết luận giám định số 2515/C09-P3 ngày 12/5/2020 của Viện khoa học
hình sự Bộ Công an kết luận:
“1. Trên lớp băng dính dán ngoài thng cartonch thước (34 x 23,5 x 22)
cm phát hin 04 du vết đường vân đủ yếu t giám định (k hiu từ s 01 đến s
04). Trong đó du vết từ s 01 đến s 03 phát hin trên mặt dính của băng dính,
du vết s 04 phát hin trên mặt ngoài băng dính.
2. Du vết s 01, s 02 s 03 với các du vân tay in ô ngón trỏ trái,
cái phi giữa phi trong chỉ bn ghi tên Nguyn Ngọc T sinh năm 1982,
NĐKTT: Ph C, phường HH, thành ph V, tỉnh Vĩnh Phúc du vân tay của
cng mt người.
7
3. Du vết s 04 với các du vân tay in trong chỉ bn ghi tên Nguyn Ngọc
T sinh năm 1982, NĐKTT: Ph C, phường HH, thành ph V, tỉnh Vĩnh Phúc
không phi du vân tay ca cng mt người.
4. Trên tờ giy ghi ch “Người nhn Hoà Bnh 0362117946” phát hin
thy mt s du vết đường vân, các du vết này không đủ yếu t giám định”.
Ngày 07/01/2021, quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Vĩnh Phúc ra
quyết định trưng cầu Phòng K thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Phúc giám định
dấu vết đường vân đối với 01 áo mưa màu ghi xám, 01 bao xác rắn màu hồng,
01 túi vải màu hồng có in hàng chữ Bitishunter”, 01 túi nilon màu đen và 02 túi
nilon sáng màu để trong thùng giấy carton (mu vật được niêm phong hiệu
A2). Tại Bản kết luận giám định số 162/KL ngày 14/01/2021 của Phòng k
thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Phúc, kết luận: Trên mu vt gi giám định
không phát hin du vết đường vân đủ yếu t giám định. Không tiến hành giám
định so sánh do không có du vết đường vân đủ yếu t giám định (BL: 97-101).
Ngày 22/5/2020, quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Vĩnh Phúc đã ra
lệnh thu giữ thư tín, điện tín đối với 08 số điện thoại được lắp trong 05 chiếc
điện thoại thu giữ của Nguyễn Ngọc T, Phạm Văn H1 số điện thoại được ghi
trên thùng giấy carton đựng 10 bánh ma tuý Heroine Nguyễn Ngọc T vận
chuyển bị bắt quả tang ngày 29/04/2020, để xác định chủ thuê bao lịch s
cuộc gọi, nội dung tin nhắn của các số thuê bao trên. Ngày 01/6/2020, Tập đoàn
viễn thông Quân đội đã cung cấp thông tin chủ thuê bao, lịch sử cuộc gọi đi, đến
của các số điện thoại trên từ 0 giờ 0 phút ngày 20/4/2020 đến 0 giờ 0 phút ngày
30/4/2020; không thu giữ được nội dung tin nhắn nào. Kết quả thu giđiện tín
xác định các cuộc gọi đi đến của số điện thoại 0965.085.085 0986.365.666
lắp trong máy điện thoại Sam Sung của Nguyễn Ngọc T và 03 số điện thoại lắp
trong máy của Phạm Văn H1 không phát hiện có số điện thoại nào liên quan đến
việc vận chuyển ma túy; số điện thoại 0359.759.692 của T từ 20 giờ 25 phút
ngày 28/4/2020 đến 5 giờ 55 phút 03 giây ngày 29/4/2020 05 cuộc gọi đi
(trong đó 04 cuộc gọi đến số điện thoại 0327.669.421; 01 cuộc gọi đến số
điện thoại 0978.601.980) và 03 cuộc gọi đến (số điện thoại 0978.601.980 gọi 01
lần; số điện thoại 0963.379.311 gọi 01 lần số điện thoại 0345.030.658 gọi 01
lần); số điện thoại 0362.117.946 (ghi trên bìa thùng bìa carton đựng 10 bánh ma
túy), chủ thuê bao Thị U - sinh năm: 1963, ttại: Phường M3, thành phố
ĐP, tỉnh Điện Biên, không phát sinh cuộc gọi đi, đến nào. quan điều tra đã
tiến hành cho Nguyễn Ngọc T xem danh sách lịch sử cuộc gọi của số điện thoại
8
0359.759.692 của T thì T xác định số điện thoại 0327.669.421 của người tên
S1 sử dụng liên lạc với T thuê vận chuyển 10 bánh ma tuý heroine.
quan điều tra tiến hành triệu tập, làm việc với Thị U chủ thuê bao
số điện thoại 0362.117.946, U khai báo từ trước đến nay không sử dụng số điện
thoại 0362.117.946, U không biết, không quan hệ với Nguyễn Ngọc T
người đàn ông tên S1 tỉnh Hoà Bình, không liên quan gì đến việc ngày
29/4/2020 T vận chuyển trái phép chất ma tuý. Nguyễn Ngọc T cng khai nhận
không có quan hệ, quen biết gì với Lò ThU.
Ngày 04/8/2020, quan điều tra đã ra lệnh thu giữ điện tín đối với 04 số
điện thoại liên lạc với T tối ngày 28/4/2020 rạng sáng ngày 29/4/2020, gồm:
0978.601.980, 0327.669.421, 0963.379.311 0345.030.658. Ngày 17/8/2020,
Tập đoàn công nghiệp viễn thông Quân đội đã cung cấp thông tin chủ thuê bao
của 04 số điện thoại trên tại thời điểm lấy sliệu trên hệ thống không tìm
thấy danh sách các cuộc gọi đi, đến, nội dung tin nhắn của 04 số điện thoại nêu
trên từ 0 giờ 0 phút ngày 20/4/2020 đến 0 giờ 0 phút ngày 30/4/2020. Kết quả
xác minh chủ thuê bao xác định: Số điện thoại 0978.601.980, chủ thuê bao
Hoàng Bích N2 sinh ngày 20/7/1980, trú tại: CN, S2, Lai Châu; số điện thoại
0963.379.311 chủ thuê bao là Hoàng Bích N2 sinh ngày 20/7/1980, t tại: CC,
S2, Lai Châu; số điện thoại 0327.669.421, chủ thbao Nguyễn H3 sinh
ngày 08/11/1988, trú tại: NK, L, Nghệ An số điện thoại 0345.030.658, ch
thuê bao Đình T7 sinh ngày 22/10/1982, trú tại: PV, R1, M4, Bình
Phước.
quan điều tra đã tiến hành triệu tập, xác minh về Nguyễn H3 - sinh
năm 1988, trú tại: NK, huyện L, tỉnh Nghệ An (chủ thuê bao số điện thoại
0327.669.421), xác định: Tại NK đối tượng tên Nguyễn H3 - sinh năm
1988, hiện không mặt tại gia đình địa phương, H3 đi đâu, làm địa
phương gia đình không nên quan điều tra không triệu tập, làm việc
được với H3. Nguyễn Ngọc T khai nhận không quan hệ, quen biết với
Nguyễn H3. Xác minh vsố chng minh nhân dân mang tên Nguyễn H3
xác định số chng minh thư s dụng đăng thuê bao số điện thoại
0327.669.421 180584003, nhưng số chng minh thư nhân dân Công an tỉnh
Nghệ An cấp cho Nguyễn Bá H3 là 186584903. Do vậy không có căn c để điều
tra, xử lý đối với H3.
quan điều tra đã tiến hành triệu tập, xác minh đối với Võ Đình T7 (Chủ
thuê bao số điện thoại 0345.030.658, gọi cho Nguyễn Ngọc T vào c 5 giờ 55
9
phút 03 giây ngày 29/4/2020). Anh Đình T7 khai từ trước đến nay không s
dụng số điện thoại 0345.030.658, số chng minh thư nhân dân của T7
285518068, còn số chng minh thư đang số thuê bao điện thoại trên
285518968, thì từ trước đến nay T7 không được cấp số chng minh thư trên;
anh T7 không quan hệ quen biết với Nguyễn Ngọc T, rạng sáng ngày
29/4/2020 anh T7 không liên lạc gì với T. Do vậy không có căn c xác định anh
T7 có liên quan đến việc T vận chuyển trái phép chất ma túy.
quan điều tra đã tiến hành triệu tập, xác minh đối với Hoàng Bích N2
(Chủ thuê bao 02 số điện thoại 0978.601.980 0963.379.311 liên lạc với
Nguyễn Ngọc T tối ngày 28/4/2020), xác định: Tại xã CN, huyện S2, tỉnh Lai
Châu người tên Hoàng Bích N2 sinh ngày 20/7/1980, đến năm 2013, N2
bán hết nhà cửa chuyển đi nơi khác sinh sống, khi chuyển đi không lên làm
thủ tục chuyển khẩu, hiện tại không biết N2 gia đình sinh sống tại đâu. Quá
trình điều tra, Nguyễn Ngọc T khai nhận không biết N2 ai, tối ngày
28/4/2020, hai số điện thoại trên gọi đến cho T, T nghe thì không thấy nói gì rồi
tắt máy, do vậy không căn c xác định N2 liên quan đến việc T vận chuyển
trái phép chất ma túy.
Ngày 17/12/2020, quan CSĐT Công an tỉnh Vĩnh Phúc Văn bản đề
nghị Ngân hàng Nhà nước Chi nhánh tỉnh Vĩnh Phúc cung cấp thông tin về
các tài khoản ngân hàng mang tên Nguyễn Ngọc T kèm theo sao tài
khoản, xác định: Nguyễn Ngọc T có mở 03 tài khoản gồm: Tài khoản 53243053
mở tại Ngân hàng Việt Nam Thịnh Vượng, m ngày 10/8/2013, đóng ngày
11/9/2017, số dư tài khoản 0 đồng; Tài khoản 028744040001, mở tại Ngân hàng
Bưu điện Liên Việt ngày 15/3/2019, số tài khoản đến ngày 23/12/2020 là
55.134 đồng tài khoản số 2807205127338 mở tại Ngân hàng nông nghiệp
phát triển nông thôn Việt Nam Chi nhánh huyện TD, mở ngày 13/5/2019, số
tài khoản đến ngày 24/12/2020 22.167.908 đồng. Quá trình điều tra xác
định không có giao dịch chuyển tiền nào liên quan đến việc Nguyễn Ngọc T vận
chuyển trái phép chất ma tcho đối tượng tên S1 hoặc đối ợng nào khác.
Ngày 05/4/2021, quan CSĐT Công an tỉnh Vĩnh Phúc ra Lệnh phong ta tài
khoản số 01, phong ta số tiền 22.167.908 đồng trong tài khoản 2807205127338
mang tên Nguyễn Ngọc T mở tại Ngân hàng nông nghiệp phát triển nông
thôn Việt Nam Chi nhánh huyện TD.
Ngày 29/01/2021, quan CSĐT Công an tỉnh Vĩnh Phúc đề nghị Ngân
hàng nông nghiệp phát triển nông nghiệp Việt Nam - Chi nhánh tỉnh nh
10
Phúc cung cấp sao tài khoản số 8912205084099 mang tên Hoàng Bích N2.
Ngày 02/02/2021, Ngân hàng nông nghiệp phát triển nông nghiệp Việt Nam
Chi nhánh tỉnh Vĩnh Phúc cung cấp sao kê tài khoản số 8912205084099 mang
tên Hoàng Bích N2, xác định các lần giao dịch chuyển tiền từ Nguyễn Ngọc T
đến Hoàng Bích N2 ngược lại như sao tài khoản của Nguyễn Ngọc T nêu
trên. Ngoài ra, ngày 07/4/2020, Nguyễn Ngọc T nộp vào tài khoản của N2
150.000.000đ. Như vậy từ ngày 30/12/2019 đến ngày 11/4/2020, Nguyễn
Ngọc T chuyển vào tài khoản của Hoàng Bích N2 là 560.000.000 đồng.
Đối với việc chuyển tiền giữa tài khoản của Nguyễn Ngọc T và Hoàng Bích
N2, Nguyễn Ngọc T khai nhận không mối quan hệ quen biết với N2, việc T
chuyển tiền vào tài khoản của N2 là do trước đây T vay tiền của anh Nguyễn
D1 S3 - sinh năm 1979, ĐKTT: Thôn H4, xã NM, huyện L1 sau đó T trả tiền S3
thì S3 bảo T chuyển vào tài khoản của N2 cho S3 để S3 trả nợ nên T chuyển, T
không biết S N2 quan hệ với nhau như thế nào; Hoàng Bích N2 khai
không quen biết, không có quan hệ với Nguyễn Ngọc T và những người khác
liên quan đến việc chuyển tiền qua tài khoản ngân hàng của T N2. Tài khoản
ngân hàng của N2 được niêm yết công khai trên xe ô tô để khách thanh toán tin
xe làm dịch vụ chuyển, rút tiền cho khách hàng nhu cầu. quan điều
tra xác minh về Nguyễn D1 S3, xác định S3 đã chết ngày 05/4/2020, nên
quan CSĐT Công an tỉnh Vĩnh Phúc không điều tra, xác minh làm rõ được.
Quá trình điều tra, truy tố, Nguyễn Ngọc T khai nhận về hành vi vận
chuyển trái phép chất ma túy để hưởng tiền công 20.000.000 đồng như nêu
trên khai về nguồn gốc 10 bánh ma y heroine như sau: Tối ngày
28/04/2020, khi T đang đi chơi tại thị trấn L1, huyện L1 thì nhận được điện
thoại của người nam giới tên S1 Hòa Bình gọi tsố điện thoại 0327.669.421
đến số điện thoại 0359.759.692 của T, S1 nói chuyến hàng ma tmuốn
đem từ Hòa Bình đến huyện M1, thành phố Nội, nếu T đi vận chuyển được
thì đêm nay lên Hoà Bình để nhận ma tuý, xong việc S1 s trả cho T
20.000.000 đồng. T đồng ý hi địa điểm nhận hàng thì S1 nói c lên cổng
chào đầu tỉnh Hòa Bình đợi đó, s người đem hàng đến. Sau đó T gọi điện
thoại nhờ Phạm Văn H1 đến thị trấn L1 đón T rồi đi tỉnh Hoà Bình đón bạn.
Khoảng 02 giờ ngày 29/04/2020, anh H1 điều khiển xe ô tải BKS: 19C -
113.48 đón T rồi T chỉ dn anh H1 điều khiển xe ô chở T đi đến tỉnh H
Bình. Khi đi gần đến cổng chào XM, tỉnh Hoà Bình thì T bảo H1 dừng xe để T
xuống đón bạn, sau đó T xuống xe đi cách vị trí xe anh H1đỗ khoảng 40 mét thì
11
dừng lại đng ven đường đợi S1 đem ma tuý đến. Khoảng hơn 04 giờ sáng
cùng ngày thì một xe tô khách (T không để ý biển kiểm soát xe ô như thế
nào) đi theo chiều đường từ Hòa Bình đi Nội qua chỗ T đng khoảng 30m
đến 40m thì dừng lại rồi một ai đó trong xe ô khách (T không xác định
được nam hay nữ) ném xuống ven đường phía bên T đng 01 thùng giấy
carton rồi xe ô tô đó đi tiếp. T xác định đó là thùng đựng ma tuý mà S1 giao cho
T để vận chuyển, T đến ôm thùng giấy carton đó đem vào để ở vị trí để chân bên
ghế phụ xe ô tô của H1 rồi T lên xe ngồi ở ghế phụ thì lúc này S1 gọi điện thoại
cho T bảo T đem thùng carton đựng ma túy đó đến huyện M1, thành phố Hà Nội
s một phụ nữ liên hvới T ra nhận thùng ma tuý đó, xong việc S1 s thanh
toán cho T 20.000.000 đồng. Sau đó T bảo H1 điều khiển xe ô tô chở T quay v
đi theo đường đi cầu V2 rồi T ngồi trên xe ngủ. Khi qua cầu V2, T giật mình
tỉnh dậy tnhìn thấy phía trước Tổ công tác của Công an tỉnh Vĩnh Phúc
đang kiểm tra nên T bảo H1dừng xe vào rìa đường thì cùng lúc này Tổ công tác
của Phòng cảnh sát ma y Phòng cảnh sát giao thông Công an tỉnh Vĩnh
Phúc yêu cầu H1 dừng xe kiểm tra, phát hiện T đang vận chuyển trái phép 10
bánh ma túy heroine.
Tuy nhiên, tại các phiên tòa ngày 27/10/2021 ngày 01/11/2021, Nguyễn
Ngọc T lại khai nhận: Nội dung bản Cáo trạng đại diện Viện kiểm sát nhân dân
tỉnh Vĩnh Phúc công bố tại phiên tòa ngày 27/10/2021 đúng với diễn biến
hành vi phạm tội của T nT đã khai nhận trong quá trình điều tra, truy tố vụ
án, nhưng đó không phải sự thật. Thực tế là tối ngày 28/4/2020, Nguyễn Văn D1
- sinh năm 1979, trú tại: Tổ 5, phường T5, tỉnh Điện Biên là anh quen biết xã hội
với T1, gọi điện thoại cho T bảo T đến cổng chào Hòa Bình đón D1, sau đó T
nhờ Phạm Văn H1 điều khiển xe ô tô chở T đi đón D1. Rạng sáng ngày
29/4/2020, tại cổng chào vào tỉnh Hòa Bình, D1 đưa cho T thùng carton, không
nói bên trong cha gì và nói nhờ T cầm giúp, D1 đến Hà Nội đăng kiểm xe ô
xong s quay lên gặp T lấy nên T định đem thùng carton này về nhà cất. Khi đi
đến đầu cầu V2, thuộc thôn Bảo Trưng, Phú Đa, huyện Vĩnh Tường, tỉnh
Vĩnh Phúc thì bị ng an tỉnh Vĩnh Phúc kiểm tra và thu giữ của T thùng carton
trên, phát hiện bên trong 10 bánh heroine, do D1 người địa vị mối
quan hệ lớn, hơn nữa T nghĩ với lượng ma túy như vậy thì T chỉ đi khoảng 5
năm 7 năm về, T nhận tội vận chuyển ma túy thay cho D1 thì D1 s lo cho
con gái của T cng như gia đình T cung cấp tiền thăm nuôi T nên T đã không
khai ra nguồn gốc thùng carton của D1 T tự nghĩ ra một người tên S1 rồi
khai với cơ quan điều tra là nhận vận chuyển ma túy cho S1 đem đến huyện M1
12
giao cho phụ nữ không rõ tên tuổi để lấy tiền công là 20.000.000đ, thực tế người
tên S1 người phụ nữ tại huyện M1 không thật, do tự T nghĩ ra. Nay T
được biết quá trình T bị bắt giam, D1 không thăm nuôi T cng như hỗ trợ tiền để
chăm sóc người thân của T nên nay Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc xét xử, T
xin khai nhận ra sự thật thùng carton của Nguyễn Văn D1 D1 chủ
doanh nghiệp vận tải DN2 thành phố ĐP, số điện thoại của D1 sử dụng
0978.601.980 và sáng ngày 29/4/2020, D1 đi trên xe ô khách giường nằm của
nhà D1 tuyến Điện Biên Nội, xe ô màu đ, biển kiểm soát xe hai số
cuối là 46 đến gặp T tại khu vực cổng chào XM, tỉnh Hoà Bình.
Cng tại phiên tòa ngày 01/11/2021, luật Nguyễn Trung T3 bào chữa
cho bị cáo T cung cấp cho Hội đồng xét xKiểm sát viên bản Vi bằng s
4081/2021/VB-TPLngày 30/10/2021 lập tại n phòng thừa phát lại B địa
chỉ: Số 61 phố Phan Kế Bính, phường Cống Vị, quận B, thành phố Nội 01
USB, theo luật đó i liệu của Nguyễn Thị T2 mbị cáo T cung cấp,
trong đó nội dung cuộc nói chuyện qua điện thoại giữa T2 (SĐT:
033.939.3592) với số điện thoại 0978.601.980 của Đỗ Văn D1 sinh năm 1979,
trú tại: Tổ 5, phường T5, thành phố ĐP, tỉnh Điện Biên o hồi từ 15 giờ 06 phút
đến 15 giờ 27 phút ngày 27/10/2021, về việc T2 i với D1 T con đã
nhận hết tội thay D1, D1 phải có trách nhiệm hỗ trợ tiền cho bà T2 để lo cho T thì
D1 i trước đây đã chuyển cho bà T2 200.000.000đ thông qua số điện thoại của
D2 con gái T2, n nữa D1 không phải là chủ ng chỉ là người cầm thuê
thì T2 yêu cầu D1 phải chuyển thêm tiền án của T tử hình nhưng D1 nói
hiện không tiền, gia đình hiện khó khăn. Tại phiên tòa ngày 01/11/2021, chị
Nguyễn Thị Lan P1 con gái bà T2 đã tự nguyện giao nộp cho Hội đồng xét xử
01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Sam sung u đen, theo T2 Phương
khai đó là chiếc điện thoại T2 sử dụng liên lạc với D1 ngày 27/10/2021 và ghi
âm lại cuộc nói chuyện với D1. Bị cáo T, luật o chữa cho bị cáo T đề nghị
Hội đồngt xử trả hồ để làm rõ vai trò của Đỗ Văn D1.
Căn c lời khai của Nguyễn Ngọc T cùng tài liệu chng c luật bào
chữa cho bị cáo Nguyễn Thị T2 cung cấp tại phiên tòa, Hội đồng xét xử
xác định đó là các tình tiết mới của vụ án, cần điều tra làm rõ có hay không đồng
phạm khác trong vụ án. Hội đồng xét xử đã trả hồ cho Viện kiểm sát nhân
dân tỉnh Vĩnh Phúc để trả hcho quan CSĐT Công an tỉnh Vĩnh Phúc
làm rõ.
13
Tại các Quyết định trả hồ để điều tra bổ sung số 06/QĐ-VKS-P1 ngày
29/11/2021 Quyết định trả hồ để điều tra bổ sung số 02/QĐ-VKS-P1 ngày
06/01/2022 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc đã trả hồ cho
quan CSĐT Công an tỉnh Vĩnh Phúc yêu cầu điều tra làm ngày 29/4/2020 Đỗ
Tiến D1 - sinh ngày 08/6/1979, hộ khẩu thường trú: Bản TC, xã S4, thành phố
LC, tỉnh Lai Châu; chỗ ở: Tổ 5, phường T5, thành phố ĐP, tỉnh Điện Biên
giao cho Nguyễn Ngọc T thùng carton bên trong cha 10 bánh ma túy heroine
để vận chuyển từ cổng chào Hòa Bình về Vĩnh Phúc bị phát hiện và bắt quả tang
không. Kết quả điều tra đã xác định được như sau:
quan điều tra đã tiến hành xác minh tại phường T5, thành phố ĐP xác
định tại tổ 5 cng như cả phường T5, thành phố ĐP không có ai Đỗ Văn D1 -
sinh năm 1979, chỉ người tên Đỗ Tiến D1 - sinh ngày 08/6/1979, hộ khẩu
thường trú: Bản Thành Công, S4, thành phố LC, tỉnh Lai Châu, vợ tên
Hoàng Bích N2 - sinh năm 1980, hiện hai vợ chồng đang số nhà 18, tổ 5,
phường T5, thành phố ĐP, là chủ doanh nghiệp vận tải DN2.
Xác minh tại Ban quản bến xe thành phố ĐP Hợp tác vận chuyển
khách hàng hóa dịch vụ thành phố ĐP, tỉnh Điện Biên xác định: Năm 2018,
vợ chồng Đỗ Tiến D1 có góp vốn vào Hợp tác xã vận chuyển khách hàng hóa và
dịch vụ thành phố ĐP 02 xe ô tô nhãn hiệu Huyn dai, trọng tải 39 giường là xe ô
BKS 27B-001.28 và xe ô tô BKS 27B-001.46, Hợp tác xã vận tải bố trí 02 xe
ô này chạy tuyến Điện Biên - bến xe Yên Nghĩa, Hà Nội. Lái xe xe ô BKS
27B-001.46 là Trịnh Tuấn D3 - sinh năm 1983, trú tại: BNC, phường NT, thành
phố ĐP, tỉnh Điện Biên, Văn L2 - sinh năm 1982, ttại: CD, huyện G1,
tỉnh Điện Biên phụ xe Đôn T9 sinh năm 1989, trú tại: QV, huyện
L3, tỉnh Nghệ An; Lái xe và phụ xe ô tô BKS 27B-001.28 là Ngô Văn C2 sinh
năm 1986, trú tại: Tổ 4, phường TT, thành phố ĐP, tỉnh Điện Biên Hoàng
Trung T10 sinh năm 1988, trú tại: Tổ 5, phường MT, thành phố ĐP, tỉnh Điện
Biên.
Ngày 29/11/2021, quan CSĐT Công an tỉnh Vĩnh Phúc đã ra Quyết
định trưng cầu Phòng K thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Phúc giám định k
thuật số điện tử đối với chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Sam sung màu đen
của bà Nguyễn Thị T2. Tại Kết luận giám định số 3203/KLGĐ ngày 10/12/2021
của Phòng K thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Phúc kết luận: Trích xut được
dữ liu trong mu vt gi giám định, qua phân tích dliu theo yêu cầu giám
định thy có:
14
- Danh sách 107 s đin thoi trong danh b đin thoi, 72 cuc gọi trong
lịch s cuc gọi và 144 tin nhn trong ứng dụng Zalo. Toàn b dữ liu này được
in trong bn in dư liu giám định;
- 452 MB dữ liu tp tin âm thanh, tp tin hnh nh video được sao
lưu vào 01 đĩa DVD(thu được dữ liu về các bn ghi âm cuc gọi giữa các s
đin thoi 0978601980 và 0339393592).
Ngày 29/11/2021, quan CSĐT Công an tỉnh Vĩnh Phúc đã ra lệnh thu
giữ thư tín, điện tín tại Tập đoàn Công Nghiệp Viễn Thông Quân đội (Viettel)
đối với 02 số điện thoại 0978601980 0339393592, thời gian từ ngày
27/4/2020 đến ngày 30/6/2020 từ ngày 01/9/2021 đến ngày 22/11/2021. Kết
quả, ngày 13/12/2021, Tập đoàn Công Nghiệp Viễn Thông Quân đội (Viettel)
cung cấp list điện thoại của 02 số điện thoại trên từ ngày 01/9/2021 đến ngày
22/11/2021, xác định ngày 27/10/2021 các cuộc gọi giữa 02 số điện thoại
0978.601.980 và 0339.393.592 với nhau, trong đó có các cuộc gọi trùng khớp về
thời gian như trong bản vi bằng của bà Nguyễn Thị T2 cung cấp kết luận
giám định k thuật số điện tử đối việc chiếc điện thoại T2 cung cấp, nhưng
không thu giữ được nội dung tin nhắn nào.
Ngày 29/11/2021, quan CSĐT Công an tỉnh Vĩnh Phúc đã ra Quyết
định trưng cầu giám định bổ sung Viện khoa học hình sự - Bộ Công an giám
định đối với các dấu vết đường vân thu giữ được trên thùng giấy carton đựng 10
bánh ma tuý heroine của Nguyễn Ngọc T vận chuyển trái phép ngày 29/4/2020
với dấu vết đường vân của Đỗ Tiến D1 và của các lái xe, phụ xe ô tô BKS 27B -
001.46 (gồm Trịnh Tuấn D3, Văn L2 Đôn T9); Hoàng Bích N2
Phạm Văn H1. Tại Bản kết luận giám định số 8727 ngày 09/12/2021 của Viện
khoa học hình sự - Bộ Công an, kết luận: Du vết đường vân k hiu s 4 ghi
trong Kết lun giám định s 2515/C09-P3 ngày 12/5/2020 của Vin khoa học
hnh sự B Công an với du vân tay in ô ngón giữa trái trên chỉ bn ghi tên
Đỗ Tiến D1 sinh năm 1979, h khẩu thường trú: S4, thành ph LC, tỉnh Lai
Châu gi giám định cng mt người(không tm thy du vân tay của T9,
D3, L2, H1 và N2).
Ngày 18/12/2021, quan CSĐT Công an tỉnh Vĩnh Phúc đã ra Quyết
định trưng cầu Viện khoa học hình s- Bộ Công an giám định âm thanh xác
định tiếng nói của Đỗ Tiến D1, Nguyễn Thị T2 trong các cuộc gọi ghi âm trong
chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Sam Sung của bà T2. Tại Kết luận giám định
15
số 9154/C09-P6 ngày 20/12/2021 của Viện khoa học hình sự - Bộ Công an, kết
luận:
- Tiếng nói của người đàn ông được gọi D1, conxưng con
trong các tp ghi âm mu cần giám định và tiếng nói của Đỗ Tiến D1 trong mu
so sánh là của cng mt người.
- Tiếng nói của người phụ nđược gọi ”và xưng “bà, taotrong
các bn ghi âm mu cần giám định tiếng nói của Nguyn Thị T2 trong
mu so sánh là của cng mt người”.
Ngày 20/12/2021, quan CSĐT Công an tỉnh Vĩnh Phúc ra Quyết định
trưng cầu giám định bổ sung Viện khoa học hình sự - Bộ Công an, yêu cầu dịch
thành văn bản các tệp ghi âm các cuộc gọi điện thoại ngày 27/10/2021 giữa
Nguyễn Thị T2 và Đỗ Tiến D1. Tại Bản kết luận giám định bổ sung số
9189/C09-P6 ngày 23/12/2021 của Viện khoa học hình sự - Bộ Công an kết
luận: Nội dung tiếng nói của Nguyễn Thị T2, tiếng nói của Đỗ Tiến D1 trong
các tệp ghi âm đã được chuyển thành dạng văn bản (kèm theo kết luận giám
định).
quan điều tra đã tiến hành xác minh tại Siêu thị điện thoại Viettel
phường KQ, thành phố V, tỉnh Vĩnh Phúc, xác định: Ngày 04/5/2020, Nguyễn
Thái H2 nhận số tiền 200.000.000đ từ Hoàng Thị Bích N3 - sinh năm 1977,
trú tại: Phường MT, thành phố ĐP, tỉnh Điện Biên qua 04 phiếu lĩnh tiền (mỗi
phiếu 50.000.000đ).
Tại Cơ quan điều tra, Đỗ Tiến D1 khai là không có quan hệ quen biết gì với
Nguyễn Ngọc T, Nguyễn Thị T2, Phạm Văn H1 cng như các thành viên gia
đình Nguyễn Ngọc T không liên lạc, trao đổi hay quan hệ làm ăn với T
cng nc thành viên gia đình T. Không đến trang trại chăn nuôi của ai
Vĩnh Phúc. Ngày 29/4/2020, D1 không đưa thùng giấy carton đựng 10 bánh ma
tuý heroine cho T, hôm đó D1 Điện Biên, không đi theo xe khách của nhà
xe DN2 xuống Nội; chỉ những lần D1 đưa vợ của D1 Hoàng Bích N2 đi
Nội để khám điều trị bệnh ung thư tuyến giáp tại Bệnh viện K Tân Triều
và Bệnh viện Ung Bướu 108 thì D1 mới đi theo xe khách; ngày 28 và 29/4/2020
không phải lịch đi khám điều trị bệnh của vD1. D1 không biết sao lại
dấu vết đường vân tay của D1 trên thùng giấy carton đựng 10 bánh ma tuý của T
bị bắt ngày 29/4/2020, D1 cho rằng D1 nhà xe vận tải hành khách hàng
hoá, nhận hàng hoá của nhiều khách gửi theo xe, trong đó nếu khách gửi
16
hàng từ hôm trước khi xe chạy tđem hàng vào nhà của D1 tại tổ 5, phường
T5, thành phố ĐP thì vợ chồng D1 nhận hàng hoặc nếu khách gửi tại bến xe mà
D1 mặt tại bến thì D1 cng tham gia cùng phụ xe hàng hóa lên xe ô tô,
còn khách gửi hàng dọc tuyến đường xe chạy thì do lái xe hoặc phụ xe nhận nên
thể khi D1 nhận hoặc hàng cho khách lên xe ô s để lại dấu vết đường
vân tay của D1. Việc theo dõi tiếp nhận vận chuyển hàng hóa của khách thì lái
xe ghi chép về giao cho N2 vợ D1. Khách gửi hàng hóa thì đều dán kín, n
xe không kiểm tra, họ bảo đó là hàng thì biết hàng đó, khi gửi hàng thì khách
cung cấp số điện thoại của người nhận và lái xe, phụ xe căn c số điện thoại
ghi trên hàng hóa để liên hệ giao hàng; căn c trọng lượng hàng hóa để thu tiền
cước vận chuyển hàng hóa. Các sổ sách theo dõi nhận hàng hóa của lái xe thì
hiện do đã lâu nên vợ D1 đã đốt hết, D1 không xác định được trong các ngày 28
và 29/4/2020 nhà xe đã nhận, trả những loại hàng hoá gì, của ai, cho ai, ở đâu và
không xác định được thùng carton cha 10 bánh ma túy dấu vân tay
của D1 của ai nhận khi nào. Số điện thoại 0978.601.980 số điện thoại
của nhà xe DN2, đăng ký chủ thuê bao là Hoàng Bích N2 v ca D1, đưc niêm yết
công khai trên xe ô tô BKS 27B - 001.46 đưc lắp trong cùng mt chiếc máy đin
thoại vi một s đin thoi khác ca nhà xe DN2 là 0945.188.389 và thưng đưc các
lái, ph xe ô tô BKS 27B - 001.46 cầm theo xe để liên hệ với khách. Khi xe về
Điện Biên các lái, phụ xe không cầm theo các số điện thoại trên thì D1 mới
cầm để nhận khách và nhận, trả hàng hoá. Ngày 27/10/2021, D1 không gọi điện
thoại nói chuyện với bà Nguyễn Thị T2 ngày đó xe ô khách BKS 27B -
001.46 đang Nội, D1 không đi theo xe mà ở Điện Biên, nên D1 không thể
dùng số điện thoại trên đliên lạc, nói chuyện với ai được. Tháng 05/2020, D1
không nhchị Hoàng Thị Bích N3 chị i vợ D1 chuyển số tiền 200.000.000
đồng cho gia đình T đlo việc cho T theo như lời khai của T2 lời khai
của Nguyễn Thái H2 người đã nhận tiền, cng như tài liệu xác minh tại siêu
thị điện thoại Viettel.
Tại quan điều tra, ban đầu Nguyễn Thị T2 khai không quan hệ
quen biết với Đỗ Văn D1 (tc Đỗ Tiến D1) - sinh năm 1979, trú tại: T5,
phường T5, thành phố ĐP, tỉnh Điện Biên mà chỉ đến trưa ngày 27/10/2021, khi
chồng các con T2 đi dự phiên tòa xét xử T về kể lại tại phiên toà
thẩm ngày 27/10/2021 xét xử Nguyễn Ngọc T, T khai người đưa thùng giấy
carton đựng 10 bánh ma tuý cho T D1 số điện thoại của D1
0978.601.980, bà T2 mới nhớ ra sau khi T bị bắt một thời gian tngười bạn
của T gọi điện thoại cho T2 tự giới thiệu tên D1 Điện Biên hi thăm v
17
T, động viên T2, nói s hỗ trợ cho gia đình 200.000.000 đồng bảo
T2 cho D1 số chng minh nhân dân của T2 để D1 chuyển tiền qua dịch vụ
của Tập đoàn viễn thông quân đội Viettel thì T2 đã cho D1 số căn cước công
dân số điện thoại của anh Nguyễn Thái H2 - sinh năm 1985, trú tại: Thôn
Hưng Thịnh, xã H5, huyện TD, tỉnh Vĩnh Phúc là con rể của T2 để nhận tiền.
Ngày 04/5/2020, anh H2 đến siêu thị điện thoại Viettel nhận 200.000.000 đồng
về đưa cho bà thì bà T2 đã bảo H2 chi vào tiền thuê luật sư bào chữa cho T, mua
máy tính cho con gái T và chi thăm nuôi T trong quá trình tạm giam. Bà T2 nghĩ
D1 là người đã điện thoại trước đây choT2 và chuyển cho bà T2 200.000.000
đồng chính người đã đưa hộp carton cha 10 bánh ma túy cho T nên chiều
ngày 27/10/2021, T2 đã gọi điện thoại cho D1 rồi ghi âm lại. T2 không
biết D1 liên quan như thế nào đến việc T vận chuyển trái phép chất ma túy bị bắt
quả tang ngày 29/4/2020.
Ngày 23/12/2021, Cơ quan điều tra đã tiến hành cho bà T2 nhận dạng Đ
Tiến D1 thì T2 D1 đều khai nhận không biết người tham gia nhận dạng
ai. Đến ngày 07/01/2022, Nguyễn Thị T2 lại đơn đề nghị gửi quan
CSĐT Công an tỉnh Vĩnh Phúc, đề nghị cho nhận dạng đối chất lại với Đỗ
Tiến D1, do sau khi được quan điều tra cho nhận dạng Đỗ Tiến D1 vào
ngày 23/12/2021, khi về nhà T2 nhớ ra D1 đã nhiều lần đến trang trại chăn
nuôi của vợ chồng con gái Nguyễn Thị Lan D2 Nguyễn Thái H2
H5, huyện TD, tỉnh Vĩnh Phúc ăn cơm cùng với T2, T, D2, H2, Phạm Văn
H1 người lái xe đưa T đi ngày 29/4/2020 cháu Hồ A2 sinh năm 2006, trú
tại: Phường T8, thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên. Bà T2 còn cung cấp thêm một
tấm ảnh chụp hình 02 cháu gái T2 cho biết đó ảnh của con gái D1 và
cháu Hồ A2 chụp cùng nhau trong một lần D1 con gái D1 đến trang trại của
D2 chơi đã được cháu Hồ A2 chụp và lưu lại trong chiếc điện thoại di động của
cháu A2.
Ngày 20/02/2022, quan CSĐT Công an tỉnh Vĩnh Phúc tiếp tục tiến
hành đối chất giữa Nguyễn Thị T2 Đỗ Tiến D1. Kết quả T2 khai
quan hệ quen biết với D1 D1 người quen của T, D1 đã nhiều lần đến trang
trại của D2, H2 gặp T ăn cơm ng những người khác trong gia đình
Phạm Văn H1, D1 đã nhiều lần gọi điện cho T2 sau khi T bị bắt để hi thăm
về T, động viên bà T2 và ha s lo cho T, D1 cng gửi cho gia đình T2 số
tiền 200.000.000 đồng D1 còn đe doạ T2 nếu nói cho người th ba thì
vĩnh viễn không gặp được T. Ngoài ra, tối ngày 29/4/2020 (là ngày T bị bắt), khi
18
H1 được quan Công an cho về không liên quan đến vụ án thì H1đến
trang trại của D2 H2 gặp bà và những người khác trong gia đình bà kể lại là sáng
ngày 29/4/2020, H1 nhìn thấy D1 là người đưa thùng carton cho T, sau đó H1 và
T đi về đến khu vực cầu V2 thì bị Công an kiểm tra phát hiện trong thùng carton
D1 đưa cho T 10 bánh ma túy heroine. Tuy nhiên, Đỗ Tiến D1 không
thừa nhận các nội dung mà bà T2 đã khai.
Tại Cơ quan điều tra, anh Nguyễn Thái H2 đã khai nhận nội dung cung cấp
căn cước công dân của H2 cho T2 đnhận chuyển tiền và ngày 04/5/2020,
anh H2 đã nhận được cuộc gọi điện thoại của Tổng đài Viettel gọi đến Siêu th
điện thoại Viettel gần bến xe phường Khai Quang, thành phố V, tỉnh Vĩnh
Phúc để nhận tiền 200.000.000đ, cùng ngày anh H2 đã nhận số tiền trên nhưng
không cụ thể ai đã gửi tiền gì. Sau khi H2 nhận được số tiền trên, H2
đã đưa cho T2 thì T2 bảo H2 đưa cho Nguyễn Thị Lan P1 con gái út của
T2 80.000.000đ để thuê luật cho T, đưa cho T2 10.000.000đ để mua
điện thoại di động cho con gái T học online, còn lại sử dụng vào chi phí đi lại
cho luật mua đồ tiếp tế cho Nguyễn Ngọc T đến nay đã hết. quan điều
tra thông báo cho H2 biết người chuyển tiền cho H2 chị Hoàng Thị Bích N3
sinh năm 1977, trú tại: Tổ 11, phường MT, thành phố ĐP, tỉnh Điện Biên thì H2
nói không mối quan hquen biết với chị N3 cng không vay nợ, mua
bán hàng hóa với chị N3. Lời khai ban đầu, H2 khai không biết, không
quan hvới ai tên Đỗ Văn D1 hay Đỗ Tiến D1, sinh năm 1979, tổ 5,
phường TB, thành phố ĐP, tỉnh Điện Biên. Nhưng sau ngày 23/12/2021 (bà T2
đến Phòng cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh đối chất với D1
về), H2 đến làm việc và trình bày nhớ ra là có quen biết và đã từng ăn cơm cùng
D1. quan CSĐT Công an tỉnh Vĩnh phúc đã cho Nguyễn Thái H2 nhận dạng
qua ảnhH2 đã nhận được ra Đỗ Tiến D1, con gái D1 trong tấm ảnh do T2
cung cấp, nhưng H2 không biết D1 liên quan đến việc T vận chuyển trái
phép chất ma túy bị bắt ngày 29/4/2020. Ngày 20/02/2022, quan CSĐT
Công an tỉnh Vĩnh Phúc tiến hành đối chất giữa Nguyễn Thái H2 Đỗ Tiến
D1. Kết quả anh H2 khai quan hquen biết với D1 D1 người quen
của T, D1 đã nhiều lần đến trang trại của vợ chồng H2 gặp T, ăn cơm ng
những người khác trong gia đình và H1, trong đó có lần D1 cùng Phạm Văn H1,
T vợ chồng H2 còn cùng nhau đi ăn tại một quán lẩu ĐC, huyện Y. Ngoài
ra, tối ngày 29/4/2020, H1 đến trang trại chăn nuôi của vợ chồng H2 gặp
T2 những người khác trong gia đình klại cho mọi người biết về việc T bị
19
bắt vào sáng cùng ngày H1 nói nhìn thấy D1 người đưa thùng carton
cho T. Tuy nhiên, D1 không thừa nhận các nội dung H2 khai.
Xác minh về Hoàng Thị Bích N3 - sinh năm 1977, trú tại: Phường MT,
thành phĐP, tỉnh Điện Biên, xác định là chị gái ruột của Hoàng Bích N2
sinh năm 1980, trú tại: Tổ 5, phường T5, thành phố ĐP, tỉnh Điện Biên (vợ của
Đỗ Tiến D1). Quá trình điều tra, chị N3 khai khoảng tháng 5/2020, Đỗ Tiến D1
em rể của chị đưa cho chị 200.000.000 đồng cùng số điện thoại của người
nhận tiền nhờ chị N3 chuyển số tiền trên cho người nhận tiền theo số điện
thoại D1 cung cấp thì chị N3 chuyển khoản số tiền trên, chị không mối quan
hệ với người nhận tiền cng không biết mục đích D1 nhờ chuyển tiền cho
người đó. Cơ quan điều tra đã làm việc với Đỗ Tiến D1 về nội dung chị N3 khai
báo nhưng D1 không thừa nhận có việc nhờ chị N3 chuyển số tiền trên. Cơ quan
điều tra đã tiến hành đối chất giữa D1 và chị N3 nhưng cả hai đều khai không có
mâu thun giữ nguyên lời khai, D1 không thừa nhận việc nhờ chị N3
chuyển 200.000.000 đồng cho gia đình bà T2 vào ngày 04/5/2020.
Tại quan điều tra, Nguyễn Thị Lan D2 (em gái bị can T) khai quen
biết và đã từng ăn cơm với Đỗ Tiến D1 tại trang trại chăn nuôi của vợ chồng D2
02 lần khi D1 đến trang trại của D2 gặp T. quan CSĐT đã tiến hành cho D2
nhận dạng D1 qua ảnh và D2 đã nhận được ra Đỗ Tiến D1, con gái D1 trong tấm
ảnh do T2 cung cấp. Chị D2 còn cung cấp cho quan CSĐT nội dung tin
nhắn chúc mừng năm mới qua ng dụng Zalo giữa D1 D2 vào ngày
25/01/2020 (tc ngày 01/01/2020 âm lịch), nhưng D2 không biết D1 liên
quan như thế nào đến việc T vận chuyển trái phép chất ma tuý bị bắt ngày
29/4/2020. Ngày 20/02/2022, quan CSĐT tiến hành đối chất giữa D2 Đỗ
Tiến D1. Kết quả chị D2 khai quan hệ quen biết với D1 D1 người quen
của Nguyễn Ngọc T, D1 đã nhiều lần đến trang trại của D2 gặp T, ăn cơm cùng
những người khác trong gia đình chị D2 Phạm Văn H1, trong đó lần D1
cùng H1, T vợ chồng D2 còn cùng nhau đi ăn tại một quán lẩu ĐC, huyện
Y. Tối ngày 29/4/2020, H1 đến trang trại chăn nuôi của chị D2 gặp T2
những người khác trong gia đình chị, H1kể lại cho mi người biết về việc T
bị bắt vào sáng cùng ngày H1 nói nhìn thấy D1 người đưa thùng
carton cho T. Nhưng D1 không thừa nhận các nội dung D2 khai.
Tại quan điều tra, cháu Hồ A2, sinh năm 2006, trú tại: Phường T8,
thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên cháu nuôi của T2 và hiện đang được
T2 chăm c, nuôi dưỡng khai vào buổi chiều ngày 18/3/2020, D1 đi cùng
20
con gái nh gọi tên NK (không họ tên đầy đủ của NK gì) và Phạm Văn
H1 đến trang trại chăn nuôi của vợ chồng cô D2 HT gặp chú Nguyễn Ngọc
T và ở lại ăn cơm tối, sau đó có cùng nhau đi uống nước tại một quán cafe ở khu
vực QT, phường HH, thành phố V. Cháu A2 đã chụp một số kiểu ảnh bằng máy
điện thoại di động của A2 với NK còn lưu lại trong máy điện thoại được
xác định những tấm ảnh đó được chụp vào ngày 18/3/2020. quan CSĐT
Công an tỉnh Vĩnh Phúc đã tiến hành cho cháu Hồ A2 nhận dạng qua ảnh đối
với Đỗ Tiến D1 thì cháu A2 đã nhận được ra Đỗ Tiến D1 Phạm Văn H1.
Ngày 21/02/2022, quan CSĐT tiến hành đối chất giữa Hồ A2 với Đỗ Tiến
D1. Kết quả D1 khai không biết cháu A2, không thừa nhận các nội dung cháu
A2 khai báo.
Đối với Phạm Văn H1, quá trình điều tra H1 khai nhận mối quan hệ
quen biết với T. H1 làm nghề kinh doanh bia tại phường HH, thành phố V.
Trước khi T bị bắt, H1 thường xuyên đến trang trại của chị D2 để đi chcây
ngô, mía, c giúp T về chăn nuôi trâu, bò và nhiều lần ăn cơm tại trang trại cùng
gia đình T. Tối ngày 28/4/2020, T gọi điện thoại nhờ H1 đêm cùng ngày đến thị
trấn L1 đón T rồi đi tỉnh Hòa Bình để đón bạn. Khi đi T không bàn bạc, tha
thuận hay nói cho H1 biết việc T đến tỉnh Hòa Bình để vận chuyển trái phép
chất ma y cng không cho H1 khoản tiền gì. Do nnang T bạn nên mặc
ban đêm nhưng H1 vn đồng ý điều khiển xe ô đến đón T rồi đưa T đi
Hòa Bình. Khi đi qua cổng chào XM để vào tỉnh Hòa Bình, T bảo H1 dừng xe
để T xuống đợi bạn sau đó H1 đxe vào rìa đường rồi ngồi trên cabin xe ngủ,
một lúc sau thấy T mở cửa xe ô hộp đó vào để dưới chân của ghế phụ
rồi T lên ngồi trên ghế phụ thì H1 hi T là bạn đâu thì T không nói gì mà bảo H1
quay về đường c, sau đó T ngủ. H1 điều khiển xe ô tô qua cầu V2 thì T dậy
nhìn thấy phía trước Công an nên bảo H1 dừng xe thì cùng lúc này Tổ công
tác của Công an tỉnh Vĩnh Phúc kiểm tra, phát hiện trong thùng carton của T
10 bánh heroine, H1 thấy T tự khai nhận đó 10 bánh ma túy heroine của T
nhận vận chuyển từ Hòa Bình về huyện M1 để hưởng tiền công 20.000.000
đồng thì khi đó H1 mới biết T nhờ H1 chở đi tỉnh Hòa Bình để T nhận vận
chuyển trái phép chất ma túy. Nguồn gốc 10 bánh ma túy đó ai đưa cho T và đưa
khi nào thì H1 không nhìn thấy. Tối ngày 29/4/2020, H1 có đến trang trại của vợ
chồng chị D2 nói chuyện với gia đình T về việc sáng cùng ngày T bị bắt về hành
vi vận chuyển trái phép chất ma y, H1 không nói với gia đình T H1 nhìn
thấy Đỗ Tiến D1 đưa thùng carton bên trong có cha 10 bánh ma túy heroine và
cng không mối quan hệ quen biết với Đỗ Tiến D1, chưa gặp D1 bao giờ
21
cng không ăn cơm cùng D1 lần nào. Việc các thành viên gia đình T nói H1
biết D1, đi cơm cùng D1 một số lần, trong đó T, vợ chồng D2 H2 cháu
A2 là không đúng. Qua kiểm tra các tin nhắn, cuộc gọi đi đến theo kết luận giám
định và rút list điện thoại của H1 thì không phát hiện có dữ liệu gì về việc H1
bàn bạc với T để vận chuyển trái phép chất ma túy. Quá trình điều tra, truy t
trước đây Nguyễn Ngọc T cng khai nhận H1 không liên quan đến việc
T vận chuyển trái pháp chất ma túy. Ngày 22/02/2022, Cơ quan điều tra đã tiến
hành đối chất giữa T2, chị D2, anh H2, cháu A2 với Phạm Văn H1, nhưng
các bên đều giữ nguyên lời khai trong quá trình điều tra đều cam đoan nội
dung khai báo đúng; cùng ngày Cơ quan điều tra đã cho H1 nhận dạng đối
chất với Đỗ Tiến D1 nhưng H1 D1 đều khai nhận không có quan hệ quen biết
nhau, chưa gặp nhau bao giờ. Do vậy không căn c xác định H1 đồng phạm
với T, nên Cơ quan điều tra không đề cập xử lý đối với H1 là có căn c.
quan điều tra đã xác minh, triệu tập ghi lời khai của các lái xe, phụ xe
của nhà xe DN2 tuyến bến xe thành phố ĐP đi bến xe Yên Nghĩa, Nội trong
ngày 28/4/2020 29/4/2020 gồm: Lái xe xe ô BKS 27B-001.46 Trịnh
Tuấn D3 - sinh năm 1983, trú tại: BNC, phường NT, thành phố ĐP, tỉnh Điện
Biên, Văn L2 - sinh năm 1982, trú tại: , huyện G1, tỉnh Điện Biên
Đôn T9 - sinh năm 1989, trú tại: QV, huyện L3, tỉnh Nghệ An; Lái xe
phụ xe ô BKS 27B-001.28 Ngô Văn C2 - sinh năm 1986, trú tại: Tổ 4,
phường TT, thành phố ĐP, tỉnh Điện Biên Hoàng Trung T10 - sinh năm
1988, trú tại: T 5, phường MT, thành phố ĐP, tỉnh Điện Biên. Các lái xe và ph
xe đều khai trước đây thỉnh thoảng Đỗ Tiến D1 đi theo các xe ô tô khách của
nhà xe DN2, nhưng do thời gian đã lâu, các lái, phụ xe không thể nhớ được cụ
thể vào ngày nào; số điện thoại 0978.601.980 là mt trong các số điện thoại của
nhà xe DN2, được niêm yết công khai trên xe ô tô BKS: 27B - 001.46. Anh D3,
anh L3 và anh T9 đều khai nhận số điện thoại của nhà xe D1 N2 để trên xe ô
cho các lái xe phụ xe sử dụng 0945.188.389, còn số điện thoại
0978.601.980 do Đỗ Tiến D1 thường xuyên quản lý, sử dụng. Việc tiếp nhn
các loại hàng hoá của khách gửi thuê vận chuyển chủ yếu do các lái xe, phụ xe
tiếp nhận bến xe và trên dọc tuyến đường đi, còn các loại hàng hoá của khách
đem đến gửi tại nhà DN2 thì do D1, N2 tiếp nhận rồi chuyển ra xe. Việc tiếp
nhận hàng hoá gửi theo xe ô thì thường giao cho phụ xe làm, ghi chép s
sách theo dõi do nhà xe cung cấp, nhưng không được mở hàng hóa ra đkiểm
tra bên trong mà thường chỉ nghe khách nói lại đó hàng gì, khách gửi vận
chuyển hàng thường đóng gói dán kín hoặc buộcn, có khách ghi rõ tên, địa ch
22
người gửi người nhận trên thùng/hp hàng hóa nhưng cng khách chỉ ghi
số điện thoại của người nhận và địa điểm giao hàng để nhà xe liên hệ giao hàng.
Đến nay các lái xe phụ xe đều không nhớ ngày 28/4/2020 rạng sáng ngày
29/4/2020, có nhận thùng hàng carton nào bên trên có dán chữ “người nhận Hòa
Bình 0362.117.946”, không biết ai trả thùng hàng này và trả cho ai. Sổ sách theo
dõi nhận, trả hàng hoá cho khách kết thúc chuyến xe thì về giao cho Hoàng Bích
N2 kiểm tra sau đó N2 đưa lại cho phụ xe để m sau theo dõi, hết quyển thì
giao cho N2 sau đó N2 sdụng như thế nào các lái xe, phụ xe không biết.
quan điều tra đã tiến hành cho đối chất giữa Văn L2 với Đỗ Tiến D1 vcác
nội dung mu thun trong lời khai, nhưng Đỗ Tiến D1 cng không thừa nhận
việc D1 thường xuyên quản , sử dụng sđiện thoại 0978.601.980. Còn
Đôn T9 và Trịnh Tuấn D3 hiện tại không còn m việc cho nhà xe DN2 nữa,
quan điều tra đã triệu D3và T9 đđối chất với D1 nhưng D3 T9 đều t
chối đối chất cho rằng toàn bộ nội dung liên quan đến việc sử dụng số điện
thoại, quy trình tiếp nhận ng hóa đều đã khai nhận với quan điều tra
cam kết các nội dung khai báo là đúng sự thật.
Quá trình điều tra, Hoàng Bích N2 khai nhận không mối quan hệ quen
biết gì với Nguyễn Ngọc T, Thị M5, Nguyễn Thị T2, Nguyễn Thị Lan D2
Nguyễn Thái H2; ngoài kinh doanh vận tải, nhà xe D1 N2 còn kinh doanh dịch
vụ chuyển tiền, số tài khoản ngân hàng của N2 được dán trên xe ô khách đ
khách hàng thể chuyển tiền nên theo quan điều tra thông báo trong tài
khoản của N2 một số lần Nguyễn Ngọc T chuyển tiền vào tài khoản là do khi
đó khách thuê nhà xe nhận tiền qua tài khoản; việc tiếp nhận hàng hóa của khách
gửi qua nxe D1 N2 lập sổ sách giao cho các phụ xe theo dõi, ghi chép rồi
giao cho N2 quản lý. Khi sổ sách phụ xe ghi hết sổ giao cho N2 thì N2 đã đốt b
hết, không còn lưu giữ ssách gì, nên không xác định được ngày 28/4/2020
ngày 29/4/2020 nhà xe DN2 đã nhận, trả những loại hàng hoá gì, nhận hàng của
ai giao cho ai, đâu; nhận thùng hàng carton bên trong cha 10 bánh
ma y heroin hay không cng không biết thùng hàng đó của ai. Hai số
điện thoại 0978.601.980 0963.799.311 trước đây N2 đăng mang tên N2
nhưng số điện thoại 0978.601.980 để trên xe ô tô BKS 27B-001.46 cho lái xe và
phụ xe sử dụng liên lạc với khách; số điện thoại 0963.799.311 N2 dùng một thời
gian sau đó cách đây khoảng 02 năm N2 đã cho một phụ xe ô của nhà N2
dùng số điện thoại này nhưng không nhớ cho phụ xe nào.
23
Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Vĩnh Phúc đã xác minh lịch đăng kiểm của 02
xe ô BKS: 27B-001.46 27B-001.28 của nhà xe DN2 trong năm 2020
2021 để làm nội dung Nguyễn Ngọc T khai ngày 29/4/2020 là ngày D1 đi
theo xe ô khách đến Nội đăng kiểm xe ô tô. Kết quả xác minh, xác định:
Ngày 29/4/2020 xe ô BKS: 27B-001.46 đăng kiểm định k tại Trung Tâm
Đăng Kiểm Xe Giới thuộc Công ty Cổ Phần Đăng Kiểm Nam Nội
huyện O, thành phố Nội, người làm thủ tục đăng kiểm Đôn T9 - phụ
xe, ký xác nhận vào các loại giấy tờ hồ sơ đăng kiểm. Quá trình điều tra, anh T9
khai việc đăng kiểm xe nhà xe thường giao cho lái xe, phụ xe làm, do thời gian
đã lâu nên không thể nhớ được ngày 29/4/2020 D1 có đi đăng kiểm xe ô tô cùng
Thắng không.
quan CSĐT Công an tỉnh Vĩnh Phúc đã tiến hành cho Nguyễn Ngọc T
nhận dạng qua ảnh Đỗ Tiến D1T đã nhận được ra Đỗ Tiến D1; Tiến hành đối
chất giữa T với D1, kết quả: T khai vào đêm 28/4/2020 T sử dụng số điện thoại
0359.759.692 lắp trong chiếc điện thoại nhãn hiệu Nokia liên hệ tới số điện
thoại 0978.601.980 của Đỗ Tiến D1. Đến rạng sáng ngày 29/4/2020, trước thời
điểm T nhận thùng catton đựng 10 bánh ma tuý Heroine cổng chào XM, Hoà
Bình, thì T thấy có số điện thoại 0327.669.421 gọi nhỡ đến điện thoại Nokia của
T, T gọi lại thì được biết đó số điện thoại của D1, nên sau đó T đã gọi điện
thoại đến số 0327.669.421 thì thấy D1 nghe máy, T đã chỉ dn cho D1 vị trí T
đang đng chờ. Rạng sáng ngày 29/4/2020, tại khu vực cổng chào XM, Hòa
Bình D1 đi từ trên xe ô khách của D1 biển kiểm soát 02 số cuối “46”, D1
thùng carton ttrên xe ô đi xuống phía đuôi xe khách đưa cho T bảo T
cho D1 gửi, D1 đi đăng kiểm xe rồi về lấy; khi D1 đưa cho T thùng carton thì
chỉ T D1 với nhau, không ai khác và cách đầu xe của Phạm Văn H1
dừng đỗ khoảng 40-50m khi đó H1 nhìn thấy hay không thì T không biết.
T khai D1đến trang trại chăn nuôi của D2, H2 3-4 lần, trong đó có 01 lần D1
đi cùng một người bạn gái tên SuSu khu vực cầu V1, huyện V2, tỉnh Vĩnh
Phúc, còn những lần khác D1 đến một mình, không có lần nào có con gái nh đi
cùng và không có lần nào ăn cơm tại trang trại cùng T những người khác. Tuy
nhiên, Đỗ Tiến D1 không thừa nhận các nội dung T khai báo, D1 khẳng định
không quen biết T, ngày 29/4/2020 D1 không đi theo xe ô khách BKS 27B-
001.46 của nhà D1 không đi đăng kiểm xe ô tô; không giao cho T thùng carton
cha 10 bánh ma túy heroine tại cổng chào XM, Hòa Bình; không sử dụng số
điện thoại 0327.669.421 bao giờ.
24
quan CSĐT Công an tỉnh Vĩnh Phúc đã tiến hành xác minh về người
phụ nữ tên SuSu ở khu vực cầu V1, nhưng không ai tên SuSu như T khai;
tiếp tục xác minh, triệu tập Nguyễn Bá H3 - chủ thuê bao số điện thoại
0327.669.421, nhưng Hạnh không mặt tại gia đình địa phương, không
đi đâu, làm gì. Nguyễn Ngọc T cng khai nhận không quan hệ, quen biết
với Nguyễn H3; xác minh tại Tập đoàn viễn thông Quân đội (Viettel), xác
định từ trước đến nay Đỗ Tiến D1 không đăng ký số điện thoại 0327.669.421.
Ngày 22/02/2022, Nguyễn Ngọc T lại khai báo một số nội dung khác
với quá trình điều tra trước đây, cụ thể: T khẳng định Phạm Văn H1 và Đỗ Tiến
D1 là người quen biết nhau từ trước, D1 người bạn gái tên Nguyễn Thị
L4, sinh năm 2002 NM, huyện L1, tỉnh Vĩnh Phúc L4 người bạn tên
C3 cng biết về D1 H1 D1 H1 đã gặp, đi chơi với L4 C3 nhiều lần.
Đêm 28 rạng sáng ngày 29/4/2020 khi H1 đưa T sang Hoà Bình, T nói với
H1 đi sang Hoà Bình đón D1, lúc đầu H1 đưa T đến trước cổng một khu Resort
LS, tỉnh Hoà Bình đng đợi D1 khoảng 30 phút, thì H1 thấy lâu nên bảo T
điện cho D1 xem sắp đến chưa, T xem điện thoại thấy s0327.669.421 gọi
nhỡ đến số 0359.759.692 của T T sử dụng số điện thoại 0359.759.692 gọi
đến số 0327.669.421 thì thấy D1 nghe điện thoại, T hi D1 đã đi đến đâu rồi thì
D1 bảo T tìm chỗ nào sáng đng đợi D1 cho dễ nhìn thấy, T bảo H1 đi xe ô
quay lại hướng đi Hà Nội, đến một cổng chào rồi đi qua một đoạn khoảng chừng
200 mét thì dừng xe lại, T xuống đường đi vệ sinh đng lề đường khoảng
10 - 15 phút thì H1 nói với T xe ô tô của D1 vừa đi qua, T gọi điện thoại cho D1
thì D1 bảo T đi theo xe ô khách của D1, T bảo H1 lái xe đuổi theo xe D1
khoảng 500m - 600 mét thì xe ô tô khách của D1 dừng lại, H1 lái xe đến sát đuôi
xe ô của D1 cách khoảng 10 - 15 mét thì dừng lại, T mở cửa xe đi xuống thì
D1 cng ttrên xe ô của D1 đi xuống, hai tay thùng carton đến sát cửa xe
ô của H1 đưa cho T D1 nói đi đăng kiểm xe ô tô xong rồi lên sau, lúc này
khoảng 5 giờ 30 phút, trời sáng, nhìn mặt người, H1 lúc đó không nói với
D1, nhưng T nghĩ H1 có nhìn thấy D1 đưa thùng carton cho T. quan điều tra
đã làm việc với H1 D1 để làm các nội dung liên quan đến lời khai của T
nhưng H1 D1 đều khai là T khai không đúng sự thật; H1 khai không nhớ chi
tiết cụ thể được đêm 28/4 rạng sáng ngày 29/4/2020 H1 đã đưa T đi, dừng đỗ
những đoạn đường nào trên quốc lộ 6 thuộc tỉnh Hòa Bình không có việc H1
lái xe đưa T đuổi theo xe ô khách nào và không nhìn thấy ai đưa cho T thùng
catton hay đồ vật gì; D1 H1 đều giữ nguyên nội dung đã khai.
25
quan CSĐT Công an tỉnh Vĩnh Phúc đã tiến hành xác minh về Nguyễn
Thị L4 C3, xác định tại NM, huyện L1, tỉnh Vĩnh Phúc Nguyễn Thị
Thu L4 - Sinh năm 2002 và Phan Thị Hồng C3 - Sinh năm 2002. Làm việc với
L4 C3, Linh khai quen biết Nguyễn Ngọc T, nhưng không quan hệ,
quen biết với ai Đỗ Tiến D1 Phạm Văn H1. C3 thì khai bạn của L4,
nhưng không quan hệ, quen biết với T, D1, H1. Ngày 23/02/2022, quan
CSĐT đã tiến hành đối chất giữa T H1, nhưng H1 khai không biết D1, L4,
C3 không việc H1 lái xe đưa T đuổi theo xe ô khách của D1, không
nhìn thấy D1 đưa thùng carton cho T vào rạng sáng ngày 29/4/2020.
Theo tài liệu thu giữ điện tín số điện thoại 0359759692 của Nguyễn Ngọc
T, xác định: Ngày 28/4/2020 vào lúc 20 giờ 25 phút số điện thoại 0359.759.692
của T gọi đến số 0978.601.980; lúc 21 giờ 24 phút số 0963.799.311 gọi đến số
0359.759.692 của T lúc 23 giờ 20 phút số 0978.601.980 gọi đến số
0359759692, thời điểm đó cột sóng số điện thoại 0359.759.692 của T đều thể
hiện tại thôn HC, NS, huyện L4, tỉnh Vĩnh Phúc. Ngày 29/4/2020 từ 05 giờ
08 phút đến 05 giờ 32 phút, (là khoảng thời gian T khai nhận thùng catton đựng
10 bánh ma tuý heroine) có 04 cuộc gọi đi từ số 0359.759.692 của T đến số điện
thoại 0327.669.421, trong đó 03 cuộc gọi từ 05 giờ 08 phút đến 05 giờ 29
phút cột sóng số điện thoại của T thể hiện tại vị trí thôn NL, HS, huyện L5,
tỉnh Hoà Bình, trùng với địa điểm Phạm Văn H1 đã xác định trong quá trình
điều tra, 01 cuộc gọi lúc 05 giờ 32 phút cột sóng thể hiện tại số 76 t5 khu
Chiến Thắng, thị trấn XM, huyện M6, thành phố Nội cách vị trí thôn NL,
HS, huyện L5, tỉnh Hoà Bình khoảng 02km. Đến 05 giờ 55 phút có số điện thoại
0345.030.658 gọi đến s0359.759.692 của T, thì cột sóng số điện thoại của T
thể hiện tại khu Công nghệ cao Hoà Lạc, huyện T11, thành phố Nội, cách
ngã thị trấn XM, huyện M6, thành phố Nội khoảng 12-14 km. Trong tài
liệu giám định k thuật số điện tử đối với chiếc điện thoại Nokia của T và rút list
số điện thoại 0359759692 của T không cuộc gọi nhỡ nào tsố 0327.669.421
T khai là số của D1.
Xác minh tại Hợp tác xã vận tải hành khách hàng hoá và dịch vụ thành phố
ĐP, tỉnh Điện Biên về hành trình đi, dừng, đỗ của 02 xe ô khách BKS 27B-
001.28 27B-001.46 của nhà xe DN2 vào ngày 28/4/2020 29/4/2020 được
lưu trong hệ thống giám sát hành trình đối với các xe ô khách thuộc Hợp tác
xác quản lý, xác định sáng ngày 29/4/2020, cả hai xe ô tô trên không dừng đỗ tại
vị trí thôn NL, HS, huyện L5, tỉnh Hoà Bình và số 76 tổ 5 khu CTT, thị trấn
26
XM, huyện M6, thành phố Hà Nội như vị trí Phạm Văn H1 đã xác định và các v
trí cột sóng số điện thoại 0359.759.692 của T đã thể hiện trong khoảng thời gian
từ 05 giờ 08 phút đến 05 giờ 32 phút ngày 29/4/2020.
Xác minh tại trạm thu phí đường bộ trên đường quốc lộ 6 thuộc tiểu khu 4,
thị trấn L5, huyện L5, tỉnh Hoà Bình cách vị trí cổng chào thôn NL, HS,
huyện L5, tỉnh Hoà Bình khoảng 05 km, xác định: Xe ô tô BKS 19C-113.48 của
Phạm Văn H1 có 01 lần đi qua trạm thu phí vào lúc 04 giờ 54
phút 39 giây ngày
29/4/2020 tại làn thu phí số 03 hướng đi từ thành phố Hoà Bình đi Nội,
không thấy hình ảnh đi qua trạm thu phí hướng từ Nội đi thành phố Hoà
Bình; Xe ô BKS 27B-001.46 ngy 29/4/2020 đi qua trạm thu ph 02 ln,
gm: Ln 1 vo c 05 giờ 46 phút 25 giây hưng đi thnh phố Ho Bnh đi H
Nội tại ln thu phsố 03; Ln 2 voc 21 giờ 17
pt 48 giây hưng H Nội đi
HoBnh; Xe ô BKS 27B-001.28 c 01 ln đi qua trạm thu ph vo lúc 21
giờ 08 phút 53 giây ngy 29/4/2020 tại ln thu ph số 01 hưng H Nội đi
thnh phố Ho Bnh. Xc minh tại trạm thu ph Ho Lạc, Ho Bnh (đường
t KCN HoLạc, T11, H Nội đi Ho Bnh) trong ngy 28 v 29/4/2020, cc
xe ô BKS 19C-113.48, BKS 27B-001.46 v BKS 27B-001.28 không đi qua
trạm thu ph.
Xác minh về khu Resort trên dọc đường quốc lộ 6 tthị trấn XM lên thành
phố Hoà Bình theo lời khai của Nguyễn Ngọc T, xác định tại xóm Km, xã Lâm
Sơn, huyện L5, tỉnh Hoà Bình 01 khu Resort IVORY, cách trạm thu phí
đường bộ trên đường quốc lộ 6 thuộc Tiểu khu 4, thị trấn L5, huyện L5, tỉnh
Hoà Bình khoảng 08 km và cách cổng chào thôn NL, xã HS, huyện L5, tỉnh Hoà
Bình khoảng 13 km. Khu IVORY Resort nằm phía bên phải dọc đường Quốc lộ
6 theo hướng đi từ thành phố Hoà Bình đi Hà Ni.
Quá trình điều tra, nhiều lần yêu cầu Nguyễn Ngọc T cung cấp mật khẩu
mở khmàn hình chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Sam Sung bên trong
lắp sim điện thoại s0986365666 thu gicủa T ngày 29/4/2020 các căn c
xác định ĐTiến D1 người đã giao cho T thùng carton cha 10 bánh ma túy
heroine sáng ngày 29/4/2020, nhưng bị can T vn khai o không nhớ mật
khẩu mở khoá màn nh chiếc điện thoại di động đó và ngày 28, 29/4/2020 T
không sử dụng chiếc điện thoại đó đliên hvới ai, ngoài các chng cT đã
cung cấp cho quan điều tra vđối tượng Đỗ Tiến D1 thì T không còn tài
liệu, chng c khác. quan CSĐT Công an tỉnh Vĩnh Phúc đã trưng cầu
giám định kthuật số điện tử tại phòng K thuật hình sự Công an tỉnh nh
27
Phúc Viện khoa học hình sự - Bộ Công an đối với chiếc điện thoại di động
trên của T, nhưng không mở được mật khẩu khoá màn nh, nên không thu
thập được bất kthông tin, tài liệu nào. Tuy nhiên, theo tài kiệu giám định k
thuật sđiện tử đối với chiếc điện thoại di động nhãn hiệu IPhone và tài liệu
rút list số điện thoại 0866.058.062 lắp trong chiếc điện thoại trên của Phạm
Văn H1 do quan viễn thông cung cấp thì lúc 01h09 01h34 ngày
29/4/2020 trong lịch sử cuộc gọi vn thể hiện 02 cuộc gọi t s điện thoại
0986.365.666 của T đến số điện thoại trên của H1 và H1 khai đây c cuộc
gọi của T liên lạc nhờ H1 đi xe ô lên thị trấn L1 để đón T đưa đi Hoà Bình.
Do vậy cần tiếp tục tạm giữ chiếc điện thoại y của T đphục vụ điều tra, xử
sau.
Đối với Đỗ Tiến D1, quá trình điều tra không thành khẩn khai báo, lời khai
của D1 còn nhiều mâu thun với các tài liệu chng c quan điều tra đã thu
thập được. Căn c các tài liệu chng c thu thập được cùng kết luận giám định
đường vân giám định âm thanh căn c xác định Đỗ Tiến D1 Nguyễn
Ngọc T mối quan hquen biết với nhau; Đỗ Tiến D1 người sử dụng số
điện thoại 0978.601.980 chiều ngày 27/10/2021, D1 đã liên lạc điện thoại,
nói chuyện với Nguyễn Thị T2 mẹ đ T (cụ thể cuộc nói chuyện nêu trong
Kết luận giám định số 9189/C09-P6); trước khi Nguyễn Ngọc T nhận thùng
carton cha 10 bánh ma túy heroine bị phát hiện bắt quả tang ngày 29/4/2020,
Đỗ Tiến D1 người đã tác động vào thùng catton trên; ngày 04/5/2020 Đỗ
Tiến D1 có đưa cho chị Hoàng Thị Bích N3 200.000.000 đồng nhờ chuyển
khoản cho gia đình Nguyễn Thị T2, nhưng chưa làm được mc đích
chuyển tiền của D1, do D1 không thừa nhận việc chuyển tiền chưa chng
c khác chng minh D1 chuyển 200.000.000 đồng cho T2 để lo cho T
D1 người đưa thùng carton cha 10 bánh ma túy heroine cho T nên D1 có
trách nhiệm lo cho T và cng chưa có đủ căn c để chng minh khoảng 5 giờ 30
phút ngày 29/4/2020, tại cng chào XM, thuộc huyện M6, thành phố Hà Ni, Đỗ
Tiến D1 trực tiếp đưa thùng carton cha 10 bánh ma túy heroine cho T đvận
chuyển đem vVĩnh Phúc. Quá trình điều tra lời khai của Nguyễn Ngọc T về
thời gian, địa điểm nhận thùng carton cha ma túy; phương tiện và số điện thoại
của D1 sử dụng để liên lạc, giao ma túy cho T còn nhiều mâu thun, không phù
hợp với các tài liệu, chng c quan điều tra thu thập được. Ngoài lời khai
của T về việc D1 người đưa thùng carton cha 10 bánh ma túy heroine cho T
thì T không cung cấp được tài liệu chng c khác chng minh D1 chính
người giao thùng ma túy cho T; lời khai của các thành viên gia đình T về Đỗ
28
Tiến D1 còn nhiều mâu thun. Do vậy chưa đủ căn c xác định D1 đồng phạm
với T đđiều tra, xử trong cùng ván này, quan điều tra stiếp tục làm
rõ, xử lý sau.
Đối với 01 t tiền giy ghi mệnh giá 100 USD, 01 chiếc giả da màu
nâu, 400.000 đồng, 01 giấy chng minh nhân dân 02 giấy phép lái xe đều
mang tên Nguyễn Ngọc T thu giữ khi bắt quả tang, quá trình điều tra xác định
tài sản và giấy tờ cá nhân của T không liên quan đến hành vi phạm tội.
Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu vàng trắng, ốp bọc
lưng bằng nhựa, mặt trong ốp lưng 01 th sim; 01 chiếc điện thoại di động
nhãn hiệu OPPO màu đ, đen ốp lưng bằng nhựa màu trắng; 01 chiếc điện
thoại di động nhãn hiệu Nokia v màu đen; xe ô tải, BKS: 19C - 113.48; 01
xe máy nhãn hiệu Wave @, màu sơn trắng, đen, BKS: 88F1 - 502.93; 01 chiếc
giả da màu nâu, số tiền 5.550.000 đồng; 01 giấy chng minh nhân dân, 01
giấy phép lái xe đều mang tên Phạm Văn H1; 01 giấy đăng xe ô tô mang tên
Phạm Văn N1; 02 giấy chng nhận bảo hiểm tự nguyện mô tô, xe máy mang tên
Phạm Văn H1; 01 bản sao giấy đăng xe 01 giấy biên nhận thế chấp
mang tên Phạm Văn H1 đều những đồ vật, tài sản, giấy tờ thuộc sở hữu hợp
pháp của Phạm Văn H1, không liên quan đến việc vận chuyển trái phép chất ma
tuý của Nguyễn Ngọc T. Ngày 12/11/2020, quan Cảnh sát điều tra Công an
tỉnh Vĩnh Phúc đã ra Quyết định xử lý đồ vật, tài liệu và đã trả lại toàn bộ những
đồ vật, tài sản, giấy tờ trên cho Phạm Văn H1, H1 đã nhận lại tài sản cùng giấy
tờ cá nhân và không có đề nghị gì.
Đối với chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Sam sung màu đen (đã c, đã
qua sử dụng) do chị Nguyễn Thị Lan P1 giao nộp ngày 01/11/2021 cho Hội
đồng xét xử Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc, quá trình điều tra xác định tài
sản hợp pháp của bà Nguyễn Thị T2, không liên quan đến hành vi phạm tội ca
Nguyễn Ngọc T.
Tại bản án nh sự thẩm s58/2022/HS-ST ngày 26 tháng 9 m 2022
của Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc đã quyết định: Tuyên bbị cáo Nguyễn
Ngọc T phạm tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”.
Căn c điểm b khoản 4 Điều 250; Điều 40; điểm h khoản 1 Điều 52;
khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 xphạt: Nguyễn Ngọc T tử hình.
Tiếp tục tạm giam bị cáo Nguyễn Ngọc T để đảm bảo thi hành án.
29
Ngoài ra, a án cấp thẩm n quyết định về hình phạt bổ sung, xử
vật chng, án phí thông báo quyền kháng cáo theo quy định.
Ny 01/8 /2022, bị cáo Nguyễn Ngọc T đơn kháng cáo đề nghị hủy
án sơ thẩm.
Tại phiên toà:
- Bị cáo Nguyễn Ngọc T trình bày: Có quen biết Đỗ Tiến D1 sinh năm
1979 tổ 5, phường T5, thành phố ĐP, tối ngày 28/04/2020 D1 dùng số điện
thoại 0978601980 gọi bảo bị cáo H1 sang cổng chào tỉnh Hòa Bình đón
D1 về tỉnh Vĩnh Phúc chơi dịp lễ 30/04, sau đó bị cáoH1 sang Hòa Bình gặp
được D1 nhưng D1 thay đổi ý định không đi về Vĩnh Phúc chơi, đi đăng
kiểm xe ô tại Nội, gửi bị cáo H1 một thùng carton được dán kín,
hẹn đăng kiểm xe ô tô xong s quay lên lấy lại sau và đi chơi. Bị cáo và H1 quay
về đến cầu V2 thì cảnh sát giao thông đang kiểm tra xe ô . Bcáo bảo H1
dừng xe để hi anh D1 về thùng carton trên thì cảnh sát giao thông cùng tổ trinh
sát tới kiểm tra xe ô của H1, trước khi kiểm tra bị cáo có xin tổ trinh sát được
gọi anh D1 lên để cùng mở thùng carton trên nhưng không được sự đồng ý của
điều tra viên Phạm Văn H1, khi kiểm tra thấy bên trong 10 bánh chữ nhật,
nghi ma túy bị cáo được cán bộ trong tổ trinh sát đề ngh giải thích thùng
carton đang di chuyển trên đường vận chuyển đi đâu? của ai? cho ai? tiền
công bao nhiêu? những câu hi tương tự, lúc đó bị cáo không biết giải thích
thế nào vì anh D1 người nhận mbị cáo là mẹ, bị cáo coi như anh trai ruột,
anh D1 tiền, quan hệ hiểu biết nên bị cáo đã ôm thùng carton đó vào bản
thân, trả lời bừa những câu hi của tổ trinh sát nên bị cơ quan công an khởi tố về
tội vận chuyển trái phép chất ma túy. Đến ngày 27/10/2021 ngày 01/11/2021
tại phiên tòa xét xử thẩm, bcáo đã khai ra sự thật thùng carton đó của anh
D1, chỉ ra dấu vết đường vân số 04 khi giám định là của anh D1 và mẹ bị cáo đã
ghi âm được các cuộc gọi nói chuyện giữa mẹ bị cáo và D1, D1 sử dụng số điện
thoại 097.860.1980 gọi mẹ bị cáo. Mẹ bị cáo đã chuyển thành vi bằng nộp cho
Tòa án, Tòa án đã trả lại hồ điều tra bổ sung, quan cảnh sát điều tra đã
giám định được dấu vết trên đường vân trên thùng carton là của anh D1, cuộc
gọi ghi âm sự quản sử dụng số điện thoại 097.860.1980, tin nhắn anh D1
nhắn tin qua Zalo cho em gái bị cáo anh D1 chuyển cho nhà bcáo 200
triệu đồng sau khi bị cáo bắt, bị cáo cùng nhiều người đều nhận dạng qua ảnh
con người thật ca D1.
30
Phạm Văn H1 người đi cùng bị cáo liên quan đến vụ án, lời khai
của H1 có sự mâu thun, không khách quan, che giấu sự thật.
Tuy rất nhiều nhân chng nghe kể về việc nhìn thấy D1 gửi thùng
carton nhưng quan điều tra chưa làm đến cùng. Nhiều chi tiết trong vụ án
chưa được làm rõ, chưa làm được mục đích D1 gửi thùng carton cha ma túy
cho bị cáo để làm gì, tại sao gửi cho nhà bị cáo 200 triệu đồng, Hội đồng xét xử
cấp sơ thẩm chưa công bằng khách quan, không triệu tập đầy đủ người liên quan
đến vụ án.
chủ quan nên bị cáo đã vận chuyển ma túy không đáng phải nhận
bản án thình. Bị cáo khai thêm (tại phiên tòa phúc thẩm) nguồn gốc ma túy
của Hờ A C4, sinh năm 1995 ở tỉnh Điện Biên.
Đề nghị Hội đồng xét xử hủy toàn bbản án thẩm để điều tra xét xử
lại đúng người, đúng tội, không để lọt người có tội là D1.
- Người có quyền lợi nghĩa vụ và ln quan bà Nguyễn Th T2 cho rng: Các
quan tiến hành điều tra đã không xác minh làm những nội dung liên
quan đến vụ án, b lọt tội phạm, không khởi tố truy cu trách nhiệm hình sự đối
với D1 là chủ hàng ma túy, chủ u trong vụ. Một số tình tiết chưa được làm
, nhiều mâu thun trong lời khai của T, H1 D1. Trong vụ án này bị cáo T
chỉ là do nhẹ dạ, thiếu hiểu biết nghe lời k xấu dụ dỗ lôi kéo. Tuy nhiên quá tnh
giải quyết vụ án rất nhiều tình tiết khuất tất chưa được làm rõ, các quan
tiến hành tố tụngn cốnh b qua nhiều tình tiết quan trọng.
- Quan điểm ca đại din Vin kiểm sát: Mặc quá trình điu tra, truy
tố, xét xử b cáo T không nhận ma túy của mình, tại phiên tòa phúc thẩm, b
cáo cho rằng b cáo vận chuyển 10 bánh có khối lượng 3,514 kg Heroin và bị
quan điều tra bt qu tang Tòa án cấp thẩm tuyên b cáo phạm ti Vn
chuyển trái phép chất ma túy là không oan. Tuy nhiên, qua các tài liu, chng c
trong hồ v án, một s tài liu mi do luật đương s khác cung cấp,
kết qu phn hi cho thy vic thu thập, đánh giá chng c còn chưa đầy đủ,
phiến diện và có du hiu b lt ti phm.
quan điều tra chưa điều tra làm do tại sao trên thùng hàng không
ghi gửi cho bị cáo T nhà xe D1 N2 lại chuyển cho bị cáo T? Đồng thời, trên
thùng hàng ghi dòng chữ “Người nhận Hòa Bình 0362117946” nhưng cơ
quan điều tra chưa trưng cầu giám định ai là người viết dòng chữ trên như đề
nghị của bị cáo là điều tra chưa đầy đủ.
31
Các cơ quan tiến hành tố tụng cấp sơ thẩm đều nhận định chưa chng minh
được mục đích chuyển tiền của D1. Tuy nhiên, tại kết luận giám định số 9154
ngày 20/12/2021 của Viện khoa học hình s Bộ công an đã kết luận ngày
27/11/2021 T2 D1 nói chuyện điện thoại với nhau...nên căn c xác
định T2 nói với D1 D1 đưa ma túy cho T nên T bị bắt yêu cầu chuyển
tiền để lo cho D1.
- Về lịch trình di chuyển của 03 xe ô BKS 19C-11348; BKS 27B-00146
BKS 27B-00128. Tại kết luận điều tra, cáo trạng xác định: Ngày 29/4/2020,
xe BKS 19C 113 48 có 01 lần đi qua trạm thu phí L5 vào lúc 4h54’39”; Xe BKS
27B-00146 đi qua Trạm thu phí L5 - Hòa Bình 02 lần; xe ô BKS 27B-00128
đi qua trạm thu phí L5 - Hòa Bình 01 lần vào lúc 21h08’53”, hướng đi Nội -
Hòa Bình. Tuy nhiên, vi bằng số 2715 ngày 23/5/2022 cho thấy ngày 29/4/2020,
xe ô BKS 27B-00128 đi qua trạm thu phí 02 lần: lần 1 lúc 5H14’27” chiều
Hòa Bình - Nội; lần 2 lúc 21h17 chiều Nội - a Bình nhưng a án cấp
thẩm không trả hồ điều tra bổ sung, chưa thu thập tài liệu chng c về sự
liên quan của i xe, phụ xe BKS 27B-00128 Ngô Văn C2, Hoàng Trung T10
để giải quyết khách quan, toàn diện vụ án.
- Tại phiên tòa thẩm ngày 20/7/2022, bị cáo T khai trước khi bị bắt, bị
cáo T mở thùng carton thấy các bánh hình chữ nhật nghi là ma túy. Bị cáo T bảo
vt đi nhưng H1 bảo gọi cho D1 đồng thời đưa cho bị cáo T 01 túi vải màu hồng
bảo bị cáo T đút các bánh hình chữ nhật vào đó rồi cho lại vào thùng carton.
H1 đưa cuộn băng dính để T dán thùng carton lại như c thì bị công an bắt.
Tuy quan điều tra đã trưng cầu giám định đối với 01 bao xác rắn màu
hồng, 01 túi vải màu hồng in hàng chữ Bistishunter tại kết luận giám định
số 162 ngày 14/01/2021 của Phòng k thuật hình sự công an tỉnh Vĩnh phúc kết
luận “Trên mu vật gửi giám định không phát hiện dấu vết đường vân đủ yếu tố
giám định. Không tiến hành giám định so sánh do không dấu vết đường vân
đủ yếu tố giám định nhưng lời khai của b cáo T tình tiết mới thuộc
trường hợp nghi ngờ về kết quả giám định theo quy định tại Điều 211 Bộ luật tố
tụng hình sự nên cần phải trưng cầu quan giám định cao hơn để thực hiện.
nhưng Tòa án cấp thẩm không trả hồ điều tra bổ sung không thực hiện
đúng quy định tại điểm c khoản 6 Điều 326 của Bộ luật tố tụng hình sự.
Từ những phân tích nêu trên thấy các quan tiến hành tố tụng cấp
thẩm còn vi phạm thủ tục tố tụng thu thập đánh giá chng c nên dấu
hiệu b lọt tội phạm.
32
Tại phiên tòa hôm nay, Bị cáo T còn khai nguồn gốc ma túy của Hờ A
C4, sinh năm 1995 tỉnh Điện Biên, bị cáo nhận dạng được C4. Đây tình
tiết mới trong vụ án. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, đánh giá theo quy định
của pháp luật.
Đề nghị Hội đồng xét xử Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội: Căn c điểm
c, khoản 1 Điều 355; khoản 1 Điều 358 B lut t tụng hình s, tuyên Hủy bản
án hình sự sơ thẩm số 58 ngày 20/7/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc
để điều tra, xét xử lại.
- Luật Nguyn Trung T3 đ ngh Hội đồng xét xử xem xét: Trong quá
trình điều tra T2 giao np file ghi âm cuộc nói chuyện gia D1 T2 v
việc gia đình D1 chuyn tin cho T; dấu vân tay ca D1 trên thùng carton; việc
chị D2, anh H2, T2, cháu Hồ A2 nhận dạng được anh D1 qua ảnh phù hợp
với lời khai của bị cáo T về việc anh D1 thường xuyên về trang trại của gia đình
T chơi, ăn cơm chng t D1 mối quan hệ thân thiết với T gia đình T,
không phải không quen biết như lời D1 khai. Lời khai của những lái xe, phụ
xe của nhà xe D1 N2 thể hiện D1 người sử dụng số điện thoại 09780611980
phù hợp vi chng c file ghi âm bà T2 np th hin cuộc nói chuyện t s đin
thoi của T2 vi s đin thoại 09780611980 phù hp vi s vic tối ngày
28/4/2020, D1 dùng số điện thoại 09780611980 liên hệ vi T; ngoài ra lời khai
ca anh H1 sự mâu thun với nhau, mâu thun vi li khai ca T, nhng
người nhà của T những người làm chng khác về việc nhìn thấy người đàn
ông đưa thùng carton cho T rạng sáng ngày 29/4/2020, vậy anh H1 mt
nhân chng quan trng trong v án này, anh H1 ngoài mối quan h anh em bn
với T thì còn quan h quen biết vi D1, li khai ca H1 cùng lời khai ca
các nhân chng khác cùng vi vi bằng của chị D2 cung cấp, xác minh tại trạm
thu phí có đủ căn c để khẳng định D1 là người đưa thùng carton cho T trong có
10 bánh heroin vào rạng sáng ngày 29/4/2020. B cáo T cung cấp thông tin cho
các quan tiến hành tố tụng tỉnh Sơn La về các đối tượng trong vụ án Thị
N4 cùng đồng phạm mua bán trái phép chất ma túy, ngoài ra T ông nội
Nguyễn Văn C5 người công với cách mạng được Nhà nước tặng thưởng
Huân chương kháng chiến hng ba nên đề nghị áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo
quy định tại điểm s, t khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Trong vụ án này dấu
hiệu đồng phạm với T về việc vận chuyển trái phép chất ma túy nhưng chưa
được làm , đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 280 B lut
33
t tụng hình s trả hồ điều tra bổ sung, giám định ADN dấu vân tay của
anh Phạm Văn H1 có trong túi xác rắn chiếc túi Bitishunter.
B cáo đề ngh Hội đồng xét xử xem xét khách quan, không đ b lt ti
phạm và trả h sơ điều tra b sung cho giám định gen ca Phạm Văn H1.
NHẬN ĐỊNH CA TÒA ÁN:
Trên cơ s ni dung v án, căn c vào các tài liệu có trong hồ vụ án đã
đưc tranh tng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] V hành vi, quyết định t tng của quan điều tra Công an tnh
Vĩnh Phúc, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc, Kiểm sát viên
trong quá trình điu tra, truy t đã thực hiện đúng v thm quyền, trình tự, th
tục quy định ca B lut t tụng Hình sự.
[2] V việc trước khi khai mạc phiên tòa Nguyn Th T2 đơn xin
hoãn phiên tòa với do tình trng sc khe không tốt. Tuy nhiên đây phiên
tòa được triu tp ln th hai, hơn nữa trong h sơ cng có nhiều li khai của bà
T2 do đó Hội đồng xét xử vn tiến hành xét x. Trong quá trình xét x thì bà T2
đã mặt trả li những câu hi ca Hội đồng xét x theo đúng quy định ca
pháp luật.
[3] V ni dung: Ti phiên tòa hôm nay b cáo khai nhận s ma túy trên là
ca Đỗ Tiến D1 gi cho b cáo, ngay từ ban đầu b cáo không biết là gì, sau khi
đi đến gn cu V2 thì bị cáo mở ra mi biết ma y anh H1 người cng
biết s ma túy trên nên anh H1 phi chịu trách nhiệm v hình s cùng b cáo.
Tuy nhiên căn c vào Biên bn bắt người phm ti qu tang, li khai ca b cáo
trong quá trình điều tra, căn c vào các tài liệu chng c đã được thu thập
trong h kết qu tranh tng thm tra chng c tại phiên toà, nên đủ căn
c để chng minh và kết lun:
Khoảng 6 giờ 30 phút ngày 29/4/2020, tại Km 4 + 873, đường quc l X
(đầu cầu V1) thuộc thôn BT, Đ1, huyện V2, tỉnh Vĩnh Phúc, T công tác của
Phòng cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh nh Phúc phối hợp với
Phòng cảnh sát giao thông Công an tỉnh Vĩnh Phúc đang làm nhiệm vụ thì nhận
được tin báo của quần chúng nhânn về việc xe ô tô tải BKS: 19C - 113.48 đi từ
hướng cầu V2 vào địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc đang vận chuyển trái phép chất ma túy.
Tổ công tác đã tiến hành kiểm tra xe ô tải nhãn hiệu Hyundai, u sơn trắng
BKS: 19C - 113.48 do anh Phạm n H1 điều khiển đi trên quốc lộ X, phát hiện,
bắt quả tang, thu gicủa Nguyễn Ngọc T 01 thùng giấy carton kích thước (34
x 23,5 x 22) cm, bên trong có 10 bánh chất bộtu trắng, có kích thước đều bằng
nhau (16 x10 x 2,5) cm, qua giám định 10 bánh chất bột màu trắng chất ma
34
túy, loại Heroine, tổng khối lượng 3,514 kg (Ba phy năm mười bn
kilogam).
[4] Xét kháng cáo của b cáo: Xét tính chất v án là đặc biệt nghiêm trọng,
hành vi phạm ti ca b cáo Nguyn Ngc T nguy hiểm cho hội, số lượng
ma túy là loại Heroine, có tổng khối lượng là 3,514 kg.
Khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm cng đã xem xét về
tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo cụ thể như sau:
Về tình tiết tặng nặng trách nhiệm hình sự: Tại Bản án số 29/2012/HSST
ngày 09/3/2012 của Tòa án nhân dân thành phố V đã xử phạt Nguyễn Ngọc T 08
năm 06 tháng về tội “Mua bán trái phép chất ma túychưa được xóa án tích
nay bị cáo lại tiếp tục phạm tội nên lần phạm tội này bị áp dụng tình tiết ng nặng
trách nhiệm hình sự “Tái phạm nguy hiểmtheo điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ
luật hình sự.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra, bị cáo đã
cung cấp cho quan điều tra Công an tỉnh Sơn La về thông tin của hai đối
tượng Nguyễn Văn L5 Lương Thị N5 người mua ma túy trong vụ án
Thị N4 cùng đồng phạm phạm tội mua bán trái phép chất ma túy, do quan
Công an tỉnh Sơn La khởi tố để căn c kết thúc điều tra vụ án Thị N4
được quan Công an tỉnh Sơn La Công văn đề nghị áp dụng tình tiết giảm
nhẹ cho bị cáo, gia đình bị cáo có ông nội công với cách mạng được tặng
Huân chương kháng chiến nên xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo theo
khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Quá trình điều tra tại phiên tòa, bcáo không thành khẩn khai báo. V
việc bị cáo khai biết Nguyễn Văn L5 Lương Thị N5 lẩn trốn để quan điều
tra công an tỉnh Lạng Sơn kết thúc điều tra vụ án ch không phải là phát hiện tội
phạm nên không căn c để áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo điểm s,t khoản 1
Điều 51 của Bộ luật hình sự.
Xét tính chất mc độ hành vi phạm tội, tình tiết tăng nặng, giảm nhtrách
nhiệm hình sự, nhân thân số lượng vận chuyển ma túy của bị cáo đặc biệt
nghiêm trọng do vậy Tòa án cấp sơ thẩm căn c điểm b khoản 4 Điều 250; Điều
40; điểm h khoản 1 Điều 52; khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 xử
phạt: Nguyễn Ngọc T tử hình về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy
căn c đúng với tính chất hành vi phạm tội của bị cáo.
[5] Về việc bị cáo cho rằng còn b lọt Nguyễn Văn D1 Văn D1, Đỗ
Tiến D1), Hội đồng xét xử thấy như sau:
Tại phiên tòa ngày 27/10/2021 và ngày 01/11/2021, bị cáo Nguyễn Ngọc T
khai số ma túy trên của Nguyễn Văn D1 thành phố ĐP. Luật bào chữa
35
cho bị cáo cung cấp cho Hội đồng xét xbản vi bằng lập tại Văn phòng thừa
phát lại B 01 USB, theo luật đó cuộc nói chuyện điện thoại giữa
Nguyễn Thị T2 (SĐT 0339.393.592) mẹ bị cáo cung cấp với số điện thoại
0978.061.980 của Đỗ Văn D1, sinh năm 1979 trú tại: Tổ 5 phường T5, thành
phố ĐP, tỉnh Điện Biên. Hội đồng xét xử sơ thẩm thấy dấu hiệu vụ án
đồng phạm khác nên đã quyết định trả hồ để điều tra bổ sung. quan điều
tra đã tiến hành xác minh tại phường T5, thành phố ĐP xác định tại tổ 5 cng
như cả phường T5, thành phố ĐP không ai Đỗ Văn D1 - sinh năm 1979,
chngười tên Đỗ Tiến D1 - sinh ngày 08/6/1979, hộ khẩu thường trú: Bản
Thành Công, xã S4, thành phố LC, tỉnh Lai Châu, có vợ tên là Hoàng Bích N2 -
sinh năm 1980, hiện hai vợ chồng đang ở số nhà 18, tổ 5, phường T5, thành phố
ĐP, chủ doanh nghiệp vận tải DN2. Quá trình điều tra Đỗ Tiến D1 cng
không thừa nhận và có lời khai mâu thun với lời khai của T; luật sư đề nghị Hội
đồng xem xét căn c vào các tài liệu như các file ghi âm gia D1 và T2 v
việc gia đình D1 chuyn tin cho T; dấu vân tay của D1 trên thùng carton; biên
bản nhận dạng, lời khai của anh H2, vi bằng của chị D2 cung cấp; xác minh tại
trạm thu phí đ xác định D1 đưa ma túy cho T. Tuy nhiên tại cơ quan điều tra T
khai nhận vận chuyển cho người nam giới tên S1 từ tỉnh Hoà Bình đem đến
huyện M1, thành phố Nội để hưởng tiền công, sau đó tại phiên tòa ngày
27/10 và 01/11/2021 bị cáo khai số hàng trên là của Nguyễn Văn D1.
Ngày 01/11/2021 Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh phúc đã quyết định trả hồ
sơ số 06/2021/HSST- để điều tra những nội dung mà bị cáo và bà T2 đã khai
o tại phiên tòa.
Tại bản kết luận điều tra bổ sung số 20/BKL–CSMT ngày 04/3/2022
quan cành sát điều tra Côn an tỉnh Vinh Phúc Kết luận:...căn c xác định
Đỗ Tiến D1 Nguyễn Ngọc T mối quan hệ quen biết với nhau; D1 là người
sử dụng sđiện thoại 0978.601.980 và chiều ngày 27/10/2021, D1 đã liên lạc
điện thoại, nói chuyện với bà Nguyễn ThT2 mẹ đ T, D1 người đã tác
động vào thùng carton; ngày 04/5/2020 D1 đưa cho chị Hoàng Thị Bích N3
200.000.000 đồng nhờ chuyển khoản cho gia đình Nguyễn Thị T2, nhưng
chưa làm được mục đích chuyển tiền của D1, do D1 không thừa nhận việc
chuyển tiền và chưa chng c khác chng minh D1 chuyển 200.000.000
đồng cho bà T2 để lo cho T D1 người đưa thùng carton cha 10 bánh ma
túy heroine cho T nên D1 trách nhiệm lo cho T cng chưa có đủ căn c để
chng minh khoảng 5 giờ 30 phút ngày 29/4/2020, tại cổng chào XM, thuộc
huyện M6, thành phố Nội, Đỗ Tiến D1 trực tiếp đưa thùng carton cha 10
bánh ma túy heroine cho T để vận chuyển đem về Vĩnh Phúc. Quá trình điều tra
lời khai của Nguyễn Ngọc T vthời gian, địa điểm nhận thùng carton cha ma
túy; phương tiện và số điện thoại của D1 sử dụng để liên lạc, giao ma túy cho T
36
còn nhiều mâu thun, không phù hợp với các tài liệu, chng c Cơ quan điều tra
thu thập được.
Ngoài lời khai của T về việc D1 người đưa thùng carton cha 10 bánh
ma túy heroine cho T thì T không cung cấp được tài liệu chng c khác
chng minh D1 chính người giao thùng ma túy cho T; lời khai của các thành
viên gia đình T về Đỗ Tiến D1 còn nhiều mâu thun.
Tại phiên tòa thẩm cng như tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, bị cáo
khai không thống nhất lúc thì cho rằng khi D1 gửi hàng không kiểm tra nên
không biết hàng gì, lúc thì lại khai khi đi đến gn cu V2 thì bị cáo mở
thùng hàng ra mi biết ma túy. Cơ quan điều tra chưa chng minh được D1
giao ma túy cho T. Do chưa đủ căn c xác định D1 đồng phạm với T nên Hội
đồng xét xử kiến ngh Cơ quan điều tra tiếp tục điều tra làm rõ xử lý Đỗ Tiến D1
xác minh làm lịch trình di chuyển của xe ô BKS 27B-00128 ngày
29/4/2020, đi qua trạm thu phí mấy lần cả chiều đi và chiều về có ý nghĩa và giá
trị chng minh vai trò phạm tội của Đỗ Tiến D1 hay không.
Tại phiên tòa hôm nay, bcáo T còn khai nguồn gốc ma túy là của Hờ A
C4, sinh năm 1995 tỉnh Điện Biên, bị cáo nhận dạng được Câu. Đây là lời
khai mới của bị cáo tại phiên tòa. Tuy nhiên n c vào các tài liệu, lời khai của
bị cáo tại quan điều tra bị cáo cng không khai báo về vấn đề đối tượng này
do đó không có căn c để xem xét.
Đối với Phạm Văn H1, quá trình điều tra H1 khai nhận mối quan hệ
quen biết với T, tối ngày 28/4/2020, T gọi điện thoại nh H1 đêm cùng ngày đến
thị trấn L1 đón T rồi đi tỉnh Hòa Bình để đón bạn, khi đi T không bàn bạc, tha
thuận hay nói cho H1 biết việc T đến tỉnh Hòa Bình để vận chuyển trái phép
chất ma y và cng không cho H khoản tiền gì. Nguồn gốc 10 bánh ma túy ai
đưa cho T và đưa khi nào thì H không nhìn thấy. Tối ngày 29/4/2020, H1 đến
trang trại của vợ chồng chị D2 nói chuyện với gia đình T về việc sáng cùng ngày
T bị bắt về hành vi vận chuyển trái phép chất ma túy, H1 không nói với gia đình
T H1 nhìn thấy Đỗ Tiến D1 đưa thùng carton bên trong cha 10 bánh ma
túy heroine cng không mối quan hệ quen biết với Đỗ Tiến D1, chưa gặp
D1 bao giờ cng không ăn cơm cùng D1 lần nào. Việc các thành viên gia
đình T nói H1 biết D1, đi ăn cơm cùng D1 một số lần, trong đó T, vợ
chồng D2 H1 cháu A2 không đúng. Qua kiểm tra các tin nhắn, cuộc gọi đi
đến theo kết luận giám định rút list điện thoại của H1 thì không phát hiện
dữ liệu gì về việc H có bàn bạc với T để vận chuyển trái phép chất ma túy. Ngày
22/02/2022, quan điều tra đã tiến hành đối chất giữa T2, chị D2, anh H2,
cháu A2 với Phạm Văn H1, nhưng các bên đều giữ nguyên lời khai trong quá
trình điều tra đều cam đoan nội dung khai báo đúng; cùng ngày quan
37
điều tra đã cho H1 nhận dạng đối chất với Đỗ Tiến D1 nhưng H1 D1 đều
khai nhận không có quan hquen biết nhau, chưa gặp nhau bao giờ.
Quá trình điều tra, truy tố trước đây Nguyễn Ngọc T cng khai nhận H1
không liên quan đến việc T vận chuyển trái pháp chất ma túy. Tại phiên
tòa hôm nay bị cáo T cho rằng H1biết số ma y trên nên H1 phải chịu trách
nhiệm hình sự cùng bị cáo, luật bào chữa cho bị cáo bị cáo đều đề nghị
Hội đồng xét xử trả hồ điều tra bổ sung giám định ADN của anh Phạm
Văn H1 trong mu vật là 01 túi vải màu hồng có in hàng chữ “Bitishunter.
Xét đnghị của Luật và bị cáo; Hội đồng xét xử nhận thấy trong quá
trình điều tra ngày 07/01/2021, quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Vĩnh
Phúc ra quyết định trưng cầu Phòng K thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Phúc
giám định dấu vết đường vân đối với 01 áo mưa màu ghi xám, 01 bao xác rắn
màu hồng, 01 túi vải màu hồng in hàng chữ Bitishunter”, 01 túi nilon màu
đen 02 túi nilon sáng màu để trong thùng giấy carton (mu vật được niêm
phong hiệu A2). Tại Bản kết luận giám định số 162/KLGĐ ngày 14/01/2021
của Phòng k thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Phúc, kết luận: “Trên mu vật gửi
giám định không phát hiện dấu vết đường vân đủ yếu tố giám định. Không tiến
hành giám định so sánh do không dấu vết đường vân đủ yếu tố giám định
(BL: 97-101). Do vậy, quan điều tra xác định H1 không đồng phạm với T,
Hội đồng xét xử không căn c đtrả hồ điều tra bổ sung nên yêu cầu của
Luật sư và bị cáo không được Hội đồng xét xử chấp nhận.
Từ những phân tích trên Hội đồng xét x không chấp nhận toàn bộ nội
dung kháng cáo của bị cáo Nguyễn Ngọc T đnghị của đại diện Viện kiểm
sát tại phiên tòa. Giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm.
[8] Về án pdo kháng cáo của bị cáo không được chấp nhận nên phải
chịu theo quy định của pháp luật.
các l trên, căn c vào Điều 355, Điều 356 Bộ luật Ttụng hình sự,
QUYẾT ĐỊNH
1. Bác kháng cáo của bị cáo, ginguyên quyết định tại bản án hình sự
thẩm s58/2022/HS-ST ngày 26 tháng 9 m 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh
Vĩnh Phúc.
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Ngọc T phạm tội Vận chuyển trái phép chất ma
túy.
Căn c điểm b khoản 4 Điều 250; Điều 40; điểm h khoản 1 Điều 52;
khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.
Xử phạt: Nguyễn Ngọc T tử hình. Tiếp tục tạm giam bị cáo Nguyễn Ngọc
T để đảm bảo thi hành án.
38
Căn c khoản 5 Điều 250 bộ luật hình sự phạt bị cáo Nguyễn Ngọc T
20.000.000đ (Hai mươi triệu đồng) để sung qu Nhà nước.
2. Về xử lý vật chng: Căn c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106
Bộ luật Tố tụng hình sự.
- Tịch thu tiêu hủy 3,512 kg ma túy, loại heroine cùng toàn bộ bao i
được niêm phong trong cùng một bao gói giấy “Mu trả”; 01 thùng carton kích
thước (34x23,5x22) cm, một mặt của thùng dán tờ giấy ô li kích thước (23,5x16)
cm, trên tờ giấy ghi chữ “Người nhận Hòa Bình 0362117946” hoàn lại sau giám
định; 01 chiếc áo mưa màu ghi xám, 01 bao xác rắn màu hồng, 01 túi vải màu
hồng có in hàng chữ “Bitishunter”, 01 túi nilon màu đen và 02 túi nilonng màu.
- Tịch thu 01 điện thoại Nokia màu đen đã c của Nguyễn Ngọc T để bán
sung qu Nhà nước.
- Trả lại cho Nguyễn Ngọc T các tài sản, đồ vật gồm: 01 chiếc điện thoại
di động nhãn hiệu Sam sung v màu xanh đen đã qua sử dụng trong ốp lưng
điện thoại 100 USD; 01 chiếc giả da màu nâu, 400.000 đồng; 01 chng
minh nhân dân và 02 giấy phép lái xe đều mang tên Nguyễn Ngọc T, nhưng tiếp
tục tạm giữ chiếc điện thoại Sam sung để phục vụ điều tra, tạm giữ 100 USD
số tiền 400.000 đồng để đảm bảo thi hành án.
- Tiếp tục thực hiện Lệnh phong ta tài khoản số 01 ngày 05/4/2021 của
quan CSĐT Công an tỉnh nh Phúc đối với 22.167.908 đồng trong tài
khoản 2807205127338 mang tên Nguyễn Ngọc T m tại Ngân hàng nông
nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam Chi nhánh huyện TD để đảm bảo thi
hành án. (Theo biên bản bàn giao vật chng ngày 28 tháng 6 năm 2021 giữa Công
an tỉnh Vĩnh Phúc với Cục Thi hành án dân sự tỉnh Vĩnh Phúc).
- Trlại cho Nguyễn Thị T2 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Sam sung
màu đen đã c (Theo biên bản n giao vật chng ngày 04 tháng 4 năm 2022 giữa
ng an tỉnh nh Pc với Cục Thi nh án n sự tỉnh nh Phúc).
- Xác nhận quan điều tra đã thu giữ trả lại cho Phạm Văn H1 gồm:
01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu vàng trắng, ốp bọc lưng bằng
nhựa; 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu đ, đen có ốp lưng bằng nhựa
màu trắng; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia v màu đen; 01 xe ô
tải, BKS: 19C - 113.48; 01 xe máy nhãn hiệu Wave @, màu sơn trắng, đen,
BKS: 88F1 - 502.93; 01 chiếc giả da màu nâu, số tiền 5.550.000 đồng; 01
giấy chng minh nhân dân, 01 giấy phép lái xe đều mang tên Phạm Văn H1; 01
giấy đăng xe ô mang tên Phạm Văn N1; 02 giấy chng nhận bảo hiểm tự
nguyện , xe máy mang tên Phạm Văn H1; 01 bản sao giấy đăng ký xe mô
tô và 01 giấy biên nhận thế chấp mang tên Phạm Văn H1 là hợp pháp.
39
3. Về án phí: Căn c Nghị quyết số 326/NQ-UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mc thu, miễn, giảm,
thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Bị cáo Nguyễn Ngọc T phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng)
tiền án phí hình sự phúc thẩm.
Trong thời hạn 07 ngày ktừ ngày bản án hiệu lực pháp luật, người bị
kết án được gửi đơn xin ân giảm án t hình lên Chủ tịch Nước cộng hòa xã hội
ch nghĩa Vit Nam.
Kiến nghị quan cảnh sát điều tra tiếp tục điều tra làm rõ xlý đối với
Đỗ Tiến D1.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- TAND Tối cao
- VKSND cấp cao tại Hà Nội;
- VKSND tỉnh Vĩnh Phúc;
- Cục THADS tỉnh Vĩnh Phúc;
-Trại tạm giam CA Vĩnh Phúc;
- Bị cáo (qua trại);
- người cqlnv liên quan (theo đ/c)
- Người bào chữa;
- Lưu: VT, HCTP hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚCTHẨM
THẨM PHÁN-CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Bùi Xuân Trọng
Tải về
Bản án 460/2023/HS-PT Bản án 460/2023/HS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án 460/2023/HS-PT Bản án 460/2023/HS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất