Bản án số 460/2023/HS-PT ngày 19/06/2023 của TAND cấp cao về tội vận chuyển trái phép chất ma túy
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng tội danh
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án 460/2023/HS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án 460/2023/HS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 460/2023/HS-PT
| Tên Bản án: | Bản án số 460/2023/HS-PT ngày 19/06/2023 của TAND cấp cao về tội vận chuyển trái phép chất ma túy |
|---|---|
| Tội danh: | 250.Tội vận chuyển trái phép chất ma túy (Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015) |
| Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
| Tòa án xét xử: | TAND cấp cao |
| Số hiệu: | 460/2023/HS-PT |
| Loại văn bản: | Bản án |
| Ngày ban hành: | 19/06/2023 |
| Lĩnh vực: | Hình sự |
| Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Thông tin về vụ án: | Nguyễn Ngọc T tội vận chuyển trái phép chất ma túy |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI HÀ NỘI
Bản án số: 460/2023/HS-PT
Ngày: 19/6/2023
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập- Tự do- Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Bùi Xuân Trọng;
Các Thẩm phán: Ông Điều Văn Hằng;
Ông Phùng Hải Hiệp.
- Thư ký phiên tòa: Bà Hoàng Thị Nhật Phương, Thư ký Tòa án nhân
nhân dân cấp cao tại Hà Nội.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội tham gia phiên tòa:
Ông Nguyễn Văn Tuyến, Kiểm sát viên cao cấp.
Ngày 19 tháng 6 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc, xét
xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 887/2019/TLPT- HS ngày
26/9/2023 đối với bị cáo Nguyễn Ngọc T do có kháng cáo của các bị cáo đối
với bản án hình sự sơ thẩm số 58/2022/HS-ST ngày 26 tháng 9 năm 2022 của
Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc.
* Bị cáo có kháng cáo:
Nguyễn Ngọc T, sinh ngày 07/7/1982; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú:
Phường HH, thành phố V, tỉnh Vĩnh Phúc; nơi cư trú: Phố C, phường HH, thành
phố V, tỉnh Vĩnh Phúc; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: Lớp 9/12; dân
tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông
Nguyễn Ngọc T1 và bà Nguyễn Thị T2; có vợ Bùi Thị M (Đã ly hôn tháng
08/2018) và 01 con.
Tiền án: 01, tại Bản án số: 29/2012/HSST ngày 09/3/2012 Tòa án nhân
dân thành phố V, tỉnh Vĩnh Phúc xử phạt Nguyễn Ngọc T 08 năm 06 tháng tù về
tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Ngày 29/01/2019 chấp hành xong hình
phạt tù trở về địa phương; tiền sự: Không.
Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 29/4/2020 đến nay, hiện đang bị
tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Vĩnh Phúc (Có mặt).
2
* Người bào chữa cho bị cáo:
- Ông Nguyễn Văn H - Luật sư Công ty Luật TNHH KP, thuộc Đoàn luật
sư tỉnh Vĩnh Phúc (Vắng mặt, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).
Địa chỉ: Số 3, phố QGL, khu dân cư tự xây thuộc khối cơ quan tỉnh ủy,
phường Đ, thành phố V, tỉnh Vĩnh Phúc.
- Ông Nguyễn Minh L - Luật sư Công ty Luật TNHH L thuộc Đoàn luật sư
thành phố Hà Nội (Vắng mặt).
- Ông Nguyễn Trung T3, ông Trần Văn T4 – Công ty luật TNHH T34 thuộc
Đoàn luật sư thành phố Hà Nội; địa chỉ: số 31 NX, phường HĐ, quận X, thành
phố Hà Nội (Ông T3 có mặt, ông T4 vắng mặt).
- Ông Hoàng Tuấn A, Ông Thiệu Quang S - Luật sư Công ty Luật TNHH
Th thuộc Đoàn luật sư thành phố Hà Nội; địa chỉ: số 360 K, phường NK, quận
B, thành phố Hà Nội (Có mặt).
* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án:
- Anh Phạm Văn H1, sinh năm 1983; nơi cư trú: Thôn C1, xã ĐC, huyện Y,
tỉnh Vĩnh Phúc (Vắng mặt).
- Bà Nguyễn Thị T2, sinh năm 1963; nơi cư trú: Phố C, phường HH, thành
phố V, tỉnh Vĩnh Phúc (Có mặt).
- Anh Đỗ Tiến D1, sinh năm 1979, nơi cư trú: Tổ 5, phường T5, thành phố
ĐP, tỉnh Điện Biên (Vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung
vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 6 giờ 30 phút ngày 29/4/2020, Tổ công tác của Phòng cảnh sát
điều tra tội phạm về ma túy - Công an tỉnh Vĩnh Phúc phối hợp với Phòng cảnh
sát giao thông Công an tỉnh Vĩnh Phúc đang làm nhiệm vụ tại Km 4 + 873,
đường quốc lộ X (đầu cầu V1) thuộc thôn BT, xã Đ1, huyện V2, tỉnh Vĩnh Phúc
thì nhận được tin báo của quần chúng nhân dân báo tin có xe ô tô tải màu trắng,
BKS 19C-113.48 đi từ hướng cầu V2 trên quốc lộ X vào địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc
đang vận chuyển trái phép chất ma túy. Tổ công tác tiến hành xác minh nguồn
tin, phát hiện xe ô tô tải nhãn hiệu Hyundai, màu sơn trắng BKS 19C-113.48
đang đi đến đầu cầu V2, đã yêu cầu dừng xe kiểm tra, trên ca bin xe ô tô lúc này
có 02 người, trong đó người điều khiển xe ô tô là Phạm Văn H1, sinh năm 1983,
trú tại: Thôn C1, xã ĐC, huyện Y, tỉnh Vĩnh Phúc và người ngồi ở ghế phụ là
3
Nguyễn Ngọc T, sinh ngày 07/7/1982, trú tại: Phố C, phường HH, thành phố V,
tỉnh Vĩnh Phúc, phát hiện tại vị trí để chân phụ lái nơi T ngồi 01 thùng giấy
carton có kích thước (34 x 23,5 x 22) cm, được đóng, dán kín bên ngoài bằng
băng dính màu trắng, một mặt của hộp giấy carton có dán 01 tờ giấy trắng k ô
ly kích thước (23,5 x 16) cm có ghi hàng chữ “Người nhn Hoà Bnh
0362.117.946”, bên trong hộp giấy có 01 chiếc áo mưa màu ghi xám và 01 bao
xác rắn màu hồng để hở, bên trong đựng 01 túi vải màu hồng có in hàng chữ
“Bitishunter” được buộc túm, bên trong túi vải có 01 bọc túi nilon bằng hai
chiếc túi nilon màu đen và sáng màu, lồng vào nhau, bên trong bọc túi nilon có
10 vật hình khối hộp có kích thước đều bằng nhau (16 x10 x 2,5) cm, bên trong
10 khối hộp này là chất bột màu trắng được ép thành bánh, ngoài được bọc bằng
nhiều lớp nilon và giấy màu vàng, màu xanh và sáng màu. T tự khai nhận 10 vật
hình khối hộp cha chất bột màu trắng được ép thành bánh là ma túy heroine
của T nhận vận chuyển cho người nam giới tên S1 từ tỉnh Hoà Bình đem đến
huyện M1, thành phố Hà Nội để hưởng tiền công là 20.000.000 đồng (Hai mươi
triu đng). Tổ công tác tiến hành thu giữ và niêm phong 10 khối hộp cha chất
bột màu trắng theo đúng quy định, ký hiệu A1; 01 chiếc áo mưa màu ghi xám,
01 bao xác rắn màu hồng, 01 túi vải màu hồng có in hàng chữ “Bitishunter”, 01
túi nilon màu đen và 02 túi nilon sáng màu để trong thùng giấy carton nêu trên
đã được tách riêng và đóng gói niêm phong trong một hộp giấy theo đúng quy
định, ký hiệu A2; 01 v thùng giấy carton nêu trên được niêm phong trong một
hộp giấy theo quy định, ký hiệu A3. Ngoài ra còn thu giữ trong cabin xe ô tô
gồm 05 chiếc điện thoại di động, trong đó của Phạm Văn H1 có 03 chiếc, gồm:
01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone, v màu vàng trắng, có ốp bọc
lưng bằng nhựa, trong ốp lưng có 01 th sim, được niêm phong ký hiệu A4; 01
chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO, v màu đ, đen có ốp lưng bằng nhựa
màu trắng, được niêm phong ký hiệu A5 và 01 chiếc điện thoại di động nhãn
hiệu Nokia, v màu đen, được niêm phong ký hiệu A7; của Nguyễn Ngọc T có
02 chiếc điện thoại, gồm: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Sam Sung, v
màu xanh, đen, có ốp lưng bằng nhựa sáng màu, bên trong ốp lưng có 01 tờ tiền
giấy ghi mệnh giá 100 USD, được niêm phong ký hiệu A6 và 01 chiếc điện
thoại di động nhãn hiệu Nokia, v màu đen, được niêm phong ký hiệu A8; thu
giữ tại thùng xe ô tô 01 xe máy nhãn hiệu Wave @, màu sơn trắng, đen, BKS
88F1-502.93 của H1; Thu giữ trong túi quần sau bên phải của T đang mặc 01
chiếc ví giả da màu nâu, bên trong có 400.000 đồng, 01 giấy chng minh nhân
dân và 02 giấy phép lái xe đều mang tên Nguyễn Ngọc T; Thu giữ trong túi quần
4
sau bên phải của Phạm Văn H1 đang mặc 01 chiếc ví giả da màu nâu, bên trong
ví có 5.550.000đồng, 01 giấy chng minh nhân dân, 01 giấy phép lái xe đều
mang tên Phạm Văn H1, 01 giấy đăng ký xe ô tô mang tên Phạm Văn N1, 02
giấy chng nhận bảo hiểm tự nguyện mô tô, xe máy mang tên Phạm Văn H1, 01
bản sao giấy đăng ký xe mô tô và 01 giấy biên nhận thế chấp mang tên Phạm
Văn H1 và tạm giữ xe ô tô BKS: 19C- 113.48. Tổ công tác tiến hành lập biên
bản bắt người phạm tội quả tang đối với Nguyễn Ngọc T, thu giữ vật chng, đồ
vật nêu trên cùng xe ô tô BKS: 19C- 113.48 của Phạm Văn H1 rồi đưa các đối
tượng về trụ sở làm việc.
Cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Vĩnh Phúc đã ra lệnh
khám xét khẩn cấp chỗ ở của Nguyễn Ngọc T tại Phố Cả, phường HH, thành
phố V, tỉnh Vĩnh Phúc. Kết quả khám xét không thu giữ đồ vật, tài sản, tài liệu
gì.
Ngày 29/04/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Vĩnh Phúc đã ra
Quyết định trưng cầu Phòng K thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Phúc giám
định chất ma tuý đối với mu vật gồm 10 vật hình khối hộp cha chất bột màu
trắng nghi vấn là chất ma tuý Heroine thu giữ của Nguyễn Ngọc T, được niêm
phong ký hiệu A1. Tại Bản kết luận giám định số 1019 ngày 06/5/2020 của
Phòng K thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Phúc, kết luận:
“Cht bt màu trng được p thành bánh trong 10 khi hp của mu A1
gi giám định là cht ma tu ln tp cht, loi Heroine. Khi lượng mu gi
giám định là 3,514 kg (Ba phy năm mt bn kilogam, không k bao b). Hàm
lượng cht ma tu Heroine có trong 3,514 kg mu gi giám định là 74,266 %.
Hoàn lại mu vật sau giám định gồm 3,512kg (Ba phy năm mt hai
kilogam) mu chất bột màu trắng và toàn bộ bao gói được niêm phong trong
cùng một bao gói giấy “MẪU TRẢ” trên giáp lai có chữ ký của người tham gia
đóng gói, niêm phong và hình dấu tròn đ của Phòng k thuật hình sự Công an
tỉnh Vĩnh Phúc”.
Ngày 01/5/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Vĩnh Phúc ra
Quyết định trưng cầu Phòng K thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Phúc giám
định k thuật số điện tử đối với 05 chiếc điện thoại di động thu giữ của Nguyễn
Ngọc T và Phạm Văn H1 để xác định: Số lượng các sim điện thoại được lắp
trong các điện thoại trên, số thuê bao của các sim điện thoại và khôi phục, trích
xuất dữ liệu tin nhắn SMS, lịch sử cuộc gọi, tin nhắn Zalo, Facebook trong các
5
điện thoại trên. Tại Kết luận giám định số 1089/KLGĐ ngày 14/5/2020 của
Phòng k thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Phúc kết luận:
“Khôi phục, trích xut được dữ liu trên các mu vt gi giám định qua
phân tích dữ liu thy:
- Mu vt k hiu A4 có lp 02 thẻ sim di dng có s thuê bao:
+84329183664 (ứng với sim đ sau p lưng đin thoi) và +84866058062.
Trong đin thoi có 250 cuc gọi trong lịch s cuc gọi; 13 tin nhn SMS; 2378
tin nhn ứng dụng Zalo từ ngày 20/4/2020 đến ngày 29/4/2020;
- Mu vt k hiu A5 có lp 02 thẻ sim di đng có s thuê bao
+84984411909 và +84972174931. Trong đin thoi có 58 cuc gọi trong lịch
s cuc gọi, 14 tin nhn, 22 cuc gọi trong lịch s cuc gọi ứng dụng Zalo, 529
tin nhn ứng dụng Zalo từ ngày 20/4/2020 đến ngày 29/4/2020.
- Mu k hiu A6 có lp 02 sim di đng có s thuê bao: +84986365666 và
+84965085085.
- Mu k hiu A7 không có lp thẻ sim, không có dữ liu lịch s cuc gọi
và tin nhn từ ngày 20/4/2020 đến ngày 29/4/2020.
- Mu k hiu A8 có lp 01 thẻ sim di đng có s thuê bao +84359759692.
Trong đin thoi có 01 cuc gọi trong lịch s cuc gọi, 02 tin nhn từ ngày
20/4/2020 đến ngày 29/4/2020.
Toàn b dữ liu tin nhn và lịch s cuc gọi nêu trên được in trên bn in
dữ liu kèm theo kết lun giám định. Toàn b tin nhn và lịch s cuc gọi khôi
phục và trích xut được trên các mu vt gi giám định được sao lưu ra 01 đĩa
DVD kèm theo kết lun giám định.
Từ chi giám định mt phần với ni dung trưng cầu: Khôi phục, trích xut dữ
liu tin nhn, lịch s cuc gọi, tin nhn Zalo, Facebook đi với đin thoi di đng
nhãn hiu Sam sung, màu xanh (mu k hiu A6) do ni dung yêu cầu vượt quá kh
năng chuyên môn của giám định viên (do đin thoi được khóa bo mt màn hnh,
không kết ni được với các thiết bị, phần mềm trích xut dữ liu hin có)”.
Cơ quan điều tra đã tiến hành kiểm tra, rà soát toàn bộ dữ liệu tin nhắn và
lịch sử cuộc gọi kèm theo Kết luận giám định số 1089/KLGĐ ngày 14/5/2020
của Phòng k thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Phúc không phát hiện dữ liệu gì
liên quan. Cơ quan điều tra đã nhiều lần yêu cầu Nguyễn Ngọc T cung cấp mật
khẩu mở khóa mình hình chiếc điện thoại Sam Sung v màu xanh, đen thu giữ
6
của T, nhưng T khai nhận không xác định được mật khẩu mở khoá màn hình
chiếc điện thoại này hiện nay như thế nào vì trước ngày 29/04/2020 T để điện
thoại này ở nhà thì có mấy người cháu của T đến chơi, không rõ ai đã đặt lại mật
khẩu khoá màn hình điện thoại của T, do vậy T không mở được khóa mình hình
điện thoại này.
Ngày 04/06/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Vĩnh Phúc ra
Quyết định trưng cầu giám định bổ sung, trưng cầu Viện khoa học hình sự - Bộ
Công an giám định k thuật số điện tử đối với chiếc điện thoại di động nhãn
hiệu Sam Sung thu giữ của Nguyễn Ngọc T, được niêm phong trong mu ký
hiệu A6. Tại bản Kết luận giám định số 3505/C09-P6 ngày 08/7/2020 của Viện
khoa học hình sự - Bộ Công an kết luận: “Không m được khoá màn hnh máy
đin thoi nhãn hiu Sam sung gi giám định; Không khôi phục và trích xut
được dữ liu đin t lưu giữ trong máy đin thoi Samsung gi giám định”.
Ngày 04/05/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Vĩnh Phúc ra
các quyết định trưng cầu Viện khoa học hình sự - Bộ Công an để giám định dấu
vết sinh học (Gen) và giám định dấu vết đường vân đối với 01 thùng giấy carton
có kích thước (34 x 23,5 x 22) cm, một mặt của thùng giấy carton có dán 01 tờ
giấy trắng k ô ly kích thước (23,5 x 16) cm có ghi hàng chữ “Người nhn Hoà
Bnh 0362117946” (mu vật được niêm phong ký hiệu A3).
Tại Kết luận giám định số 2514/C09-TT3 ngày 08/5/2020 của Viện khoa
học hình sự Bộ Công an kết luận: “Trên hp giy carton gi giám định có bám
dính tế bào người có kiu gen trng với kiu gen của Nguyn Ngọc T”.
Tại Kết luận giám định số 2515/C09-P3 ngày 12/5/2020 của Viện khoa học
hình sự Bộ Công an kết luận:
“1. Trên lớp băng dính dán ngoài thng carton kích thước (34 x 23,5 x 22)
cm phát hin 04 du vết đường vân đủ yếu t giám định (k hiu từ s 01 đến s
04). Trong đó du vết từ s 01 đến s 03 phát hin trên mặt dính của băng dính,
du vết s 04 phát hin trên mặt ngoài băng dính.
2. Du vết s 01, s 02 và s 03 với các du vân tay in ô ngón trỏ trái,
cái phi và giữa phi trong chỉ bn ghi tên Nguyn Ngọc T – sinh năm 1982,
NĐKTT: Ph C, phường HH, thành ph V, tỉnh Vĩnh Phúc là du vân tay của
cng mt người.
7
3. Du vết s 04 với các du vân tay in trong chỉ bn ghi tên Nguyn Ngọc
T – sinh năm 1982, NĐKTT: Ph C, phường HH, thành ph V, tỉnh Vĩnh Phúc
không phi du vân tay của cng mt người.
4. Trên tờ giy ghi chữ “Người nhn Hoà Bnh 0362117946” phát hin
thy mt s du vết đường vân, các du vết này không đủ yếu t giám định”.
Ngày 07/01/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Vĩnh Phúc ra
quyết định trưng cầu Phòng K thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Phúc giám định
dấu vết đường vân đối với 01 áo mưa màu ghi xám, 01 bao xác rắn màu hồng,
01 túi vải màu hồng có in hàng chữ “Bitishunter”, 01 túi nilon màu đen và 02 túi
nilon sáng màu để trong thùng giấy carton (mu vật được niêm phong ký hiệu
A2). Tại Bản kết luận giám định số 162/KLGĐ ngày 14/01/2021 của Phòng k
thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Phúc, kết luận: “Trên mu vt gi giám định
không phát hin du vết đường vân đủ yếu t giám định. Không tiến hành giám
định so sánh do không có du vết đường vân đủ yếu t giám định” (BL: 97-101).
Ngày 22/5/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Vĩnh Phúc đã ra
lệnh thu giữ thư tín, điện tín đối với 08 số điện thoại được lắp trong 05 chiếc
điện thoại thu giữ của Nguyễn Ngọc T, Phạm Văn H1 và số điện thoại được ghi
trên thùng giấy carton đựng 10 bánh ma tuý Heroine mà Nguyễn Ngọc T vận
chuyển bị bắt quả tang ngày 29/04/2020, để xác định chủ thuê bao và lịch sử
cuộc gọi, nội dung tin nhắn của các số thuê bao trên. Ngày 01/6/2020, Tập đoàn
viễn thông Quân đội đã cung cấp thông tin chủ thuê bao, lịch sử cuộc gọi đi, đến
của các số điện thoại trên từ 0 giờ 0 phút ngày 20/4/2020 đến 0 giờ 0 phút ngày
30/4/2020; không thu giữ được nội dung tin nhắn nào. Kết quả thu giữ điện tín
xác định các cuộc gọi đi đến của số điện thoại 0965.085.085 và 0986.365.666
lắp trong máy điện thoại Sam Sung của Nguyễn Ngọc T và 03 số điện thoại lắp
trong máy của Phạm Văn H1 không phát hiện có số điện thoại nào liên quan đến
việc vận chuyển ma túy; số điện thoại 0359.759.692 của T từ 20 giờ 25 phút
ngày 28/4/2020 đến 5 giờ 55 phút 03 giây ngày 29/4/2020 có 05 cuộc gọi đi
(trong đó có 04 cuộc gọi đến số điện thoại 0327.669.421; 01 cuộc gọi đến số
điện thoại 0978.601.980) và 03 cuộc gọi đến (số điện thoại 0978.601.980 gọi 01
lần; số điện thoại 0963.379.311 gọi 01 lần và số điện thoại 0345.030.658 gọi 01
lần); số điện thoại 0362.117.946 (ghi trên bìa thùng bìa carton đựng 10 bánh ma
túy), chủ thuê bao là Lò Thị U - sinh năm: 1963, trú tại: Phường M3, thành phố
ĐP, tỉnh Điện Biên, không phát sinh cuộc gọi đi, đến nào. Cơ quan điều tra đã
tiến hành cho Nguyễn Ngọc T xem danh sách lịch sử cuộc gọi của số điện thoại
8
0359.759.692 của T thì T xác định số điện thoại 0327.669.421 là của người tên
S1 sử dụng liên lạc với T thuê vận chuyển 10 bánh ma tuý heroine.
Cơ quan điều tra tiến hành triệu tập, làm việc với Lò Thị U là chủ thuê bao
số điện thoại 0362.117.946, U khai báo từ trước đến nay không sử dụng số điện
thoại 0362.117.946, U không biết, không có quan hệ gì với Nguyễn Ngọc T và
người đàn ông tên S1 ở tỉnh Hoà Bình, không liên quan gì đến việc ngày
29/4/2020 T vận chuyển trái phép chất ma tuý. Nguyễn Ngọc T cng khai nhận
không có quan hệ, quen biết gì với Lò Thị U.
Ngày 04/8/2020, Cơ quan điều tra đã ra lệnh thu giữ điện tín đối với 04 số
điện thoại liên lạc với T tối ngày 28/4/2020 và rạng sáng ngày 29/4/2020, gồm:
0978.601.980, 0327.669.421, 0963.379.311 và 0345.030.658. Ngày 17/8/2020,
Tập đoàn công nghiệp viễn thông Quân đội đã cung cấp thông tin chủ thuê bao
của 04 số điện thoại trên và tại thời điểm lấy số liệu trên hệ thống không tìm
thấy danh sách các cuộc gọi đi, đến, nội dung tin nhắn của 04 số điện thoại nêu
trên từ 0 giờ 0 phút ngày 20/4/2020 đến 0 giờ 0 phút ngày 30/4/2020. Kết quả
xác minh chủ thuê bao xác định: Số điện thoại 0978.601.980, chủ thuê bao là
Hoàng Bích N2 – sinh ngày 20/7/1980, trú tại: CN, S2, Lai Châu; số điện thoại
0963.379.311 chủ thuê bao là Hoàng Bích N2 – sinh ngày 20/7/1980, trú tại: CC,
S2, Lai Châu; số điện thoại 0327.669.421, chủ thuê bao là Nguyễn Bá H3 – sinh
ngày 08/11/1988, trú tại: NK, L, Nghệ An và số điện thoại 0345.030.658, chủ
thuê bao là Võ Đình T7 – sinh ngày 22/10/1982, trú tại: PV, xã R1, M4, Bình
Phước.
Cơ quan điều tra đã tiến hành triệu tập, xác minh về Nguyễn Bá H3 - sinh
năm 1988, trú tại: Xã NK, huyện L, tỉnh Nghệ An (chủ thuê bao số điện thoại
0327.669.421), xác định: Tại xã NK có đối tượng tên Nguyễn Bá H3 - sinh năm
1988, hiện không có mặt tại gia đình và địa phương, H3 đi đâu, làm gì địa
phương và gia đình không rõ nên Cơ quan điều tra không triệu tập, làm việc
được với H3. Nguyễn Ngọc T khai nhận không có quan hệ, quen biết gì với
Nguyễn Bá H3. Xác minh về số chng minh nhân dân mang tên Nguyễn Bá H3
xác định số chng minh thư sử dụng đăng ký thuê bao số điện thoại
0327.669.421 là 180584003, nhưng số chng minh thư nhân dân Công an tỉnh
Nghệ An cấp cho Nguyễn Bá H3 là 186584903. Do vậy không có căn c để điều
tra, xử lý đối với H3.
Cơ quan điều tra đã tiến hành triệu tập, xác minh đối với Võ Đình T7 (Chủ
thuê bao số điện thoại 0345.030.658, gọi cho Nguyễn Ngọc T vào lúc 5 giờ 55
9
phút 03 giây ngày 29/4/2020). Anh Võ Đình T7 khai từ trước đến nay không sử
dụng số điện thoại 0345.030.658, số chng minh thư nhân dân của T7 là
285518068, còn số chng minh thư đang ký số thuê bao điện thoại trên là
285518968, thì từ trước đến nay T7 không được cấp số chng minh thư trên;
anh T7 không có quan hệ quen biết gì với Nguyễn Ngọc T, rạng sáng ngày
29/4/2020 anh T7 không liên lạc gì với T. Do vậy không có căn c xác định anh
T7 có liên quan đến việc T vận chuyển trái phép chất ma túy.
Cơ quan điều tra đã tiến hành triệu tập, xác minh đối với Hoàng Bích N2
(Chủ thuê bao 02 số điện thoại 0978.601.980 và 0963.379.311 liên lạc với
Nguyễn Ngọc T tối ngày 28/4/2020), xác định: Tại xã CN, huyện S2, tỉnh Lai
Châu có người tên Hoàng Bích N2 – sinh ngày 20/7/1980, đến năm 2013, N2
bán hết nhà cửa chuyển đi nơi khác sinh sống, khi chuyển đi không lên xã làm
thủ tục chuyển khẩu, hiện tại không biết N2 và gia đình sinh sống tại đâu. Quá
trình điều tra, Nguyễn Ngọc T khai nhận không biết N2 là ai, tối ngày
28/4/2020, hai số điện thoại trên gọi đến cho T, T nghe thì không thấy nói gì rồi
tắt máy, do vậy không có căn c xác định N2 liên quan đến việc T vận chuyển
trái phép chất ma túy.
Ngày 17/12/2020, Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Vĩnh Phúc có Văn bản đề
nghị Ngân hàng Nhà nước – Chi nhánh tỉnh Vĩnh Phúc cung cấp thông tin về
các tài khoản ngân hàng mang tên Nguyễn Ngọc T và kèm theo sao kê tài
khoản, xác định: Nguyễn Ngọc T có mở 03 tài khoản gồm: Tài khoản 53243053
mở tại Ngân hàng Việt Nam Thịnh Vượng, mở ngày 10/8/2013, đóng ngày
11/9/2017, số dư tài khoản 0 đồng; Tài khoản 028744040001, mở tại Ngân hàng
Bưu điện Liên Việt ngày 15/3/2019, số dư tài khoản đến ngày 23/12/2020 là
55.134 đồng và tài khoản số 2807205127338 mở tại Ngân hàng nông nghiệp và
phát triển nông thôn Việt Nam – Chi nhánh huyện TD, mở ngày 13/5/2019, số
dư tài khoản đến ngày 24/12/2020 là 22.167.908 đồng. Quá trình điều tra xác
định không có giao dịch chuyển tiền nào liên quan đến việc Nguyễn Ngọc T vận
chuyển trái phép chất ma tuý cho đối tượng tên S1 hoặc đối tượng nào khác.
Ngày 05/4/2021, Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Vĩnh Phúc ra Lệnh phong ta tài
khoản số 01, phong ta số tiền 22.167.908 đồng trong tài khoản 2807205127338
mang tên Nguyễn Ngọc T mở tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông
thôn Việt Nam – Chi nhánh huyện TD.
Ngày 29/01/2021, Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Vĩnh Phúc đề nghị Ngân
hàng nông nghiệp và phát triển nông nghiệp Việt Nam - Chi nhánh tỉnh Vĩnh
10
Phúc cung cấp sao kê tài khoản số 8912205084099 mang tên Hoàng Bích N2.
Ngày 02/02/2021, Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông nghiệp Việt Nam
– Chi nhánh tỉnh Vĩnh Phúc cung cấp sao kê tài khoản số 8912205084099 mang
tên Hoàng Bích N2, xác định các lần giao dịch chuyển tiền từ Nguyễn Ngọc T
đến Hoàng Bích N2 và ngược lại như sao kê tài khoản của Nguyễn Ngọc T nêu
trên. Ngoài ra, ngày 07/4/2020, Nguyễn Ngọc T nộp vào tài khoản của N2
150.000.000đ. Như vậy là từ ngày 30/12/2019 đến ngày 11/4/2020, Nguyễn
Ngọc T chuyển vào tài khoản của Hoàng Bích N2 là 560.000.000 đồng.
Đối với việc chuyển tiền giữa tài khoản của Nguyễn Ngọc T và Hoàng Bích
N2, Nguyễn Ngọc T khai nhận không có mối quan hệ quen biết với N2, việc T
chuyển tiền vào tài khoản của N2 là do trước đây T có vay tiền của anh Nguyễn
D1 S3 - sinh năm 1979, ĐKTT: Thôn H4, xã NM, huyện L1 sau đó T trả tiền S3
thì S3 bảo T chuyển vào tài khoản của N2 cho S3 để S3 trả nợ nên T chuyển, T
không biết S và N2 có quan hệ với nhau như thế nào; Hoàng Bích N2 khai
không quen biết, không có quan hệ gì với Nguyễn Ngọc T và những người khác
liên quan đến việc chuyển tiền qua tài khoản ngân hàng của T và N2. Tài khoản
ngân hàng của N2 được niêm yết công khai trên xe ô tô để khách thanh toán tiền
vé xe và làm dịch vụ chuyển, rút tiền cho khách hàng có nhu cầu. Cơ quan điều
tra xác minh về Nguyễn D1 S3, xác định S3 đã chết ngày 05/4/2020, nên Cơ
quan CSĐT Công an tỉnh Vĩnh Phúc không điều tra, xác minh làm rõ được.
Quá trình điều tra, truy tố, Nguyễn Ngọc T khai nhận rõ về hành vi vận
chuyển trái phép chất ma túy để hưởng tiền công là 20.000.000 đồng như nêu
trên và khai về nguồn gốc 10 bánh ma túy heroine như sau: Tối ngày
28/04/2020, khi T đang đi chơi tại thị trấn L1, huyện L1 thì nhận được điện
thoại của người nam giới tên S1 ở Hòa Bình gọi từ số điện thoại 0327.669.421
đến số điện thoại 0359.759.692 của T, S1 nói là có chuyến hàng ma tuý muốn
đem từ Hòa Bình đến huyện M1, thành phố Hà Nội, nếu T đi vận chuyển được
thì đêm nay lên Hoà Bình để nhận ma tuý, xong việc S1 s trả cho T là
20.000.000 đồng. T đồng ý và hi địa điểm nhận hàng thì S1 nói c lên cổng
chào đầu tỉnh Hòa Bình đợi ở đó, s có người đem hàng đến. Sau đó T gọi điện
thoại nhờ Phạm Văn H1 đến thị trấn L1 đón T rồi đi tỉnh Hoà Bình đón bạn.
Khoảng 02 giờ ngày 29/04/2020, anh H1 điều khiển xe ô tô tải BKS: 19C -
113.48 đón T rồi T chỉ dn anh H1 điều khiển xe ô tô chở T đi đến tỉnh Hoà
Bình. Khi đi gần đến cổng chào XM, tỉnh Hoà Bình thì T bảo H1 dừng xe để T
xuống đón bạn, sau đó T xuống xe đi cách vị trí xe anh H1đỗ khoảng 40 mét thì
11
dừng lại đng ở ven đường đợi S1 đem ma tuý đến. Khoảng hơn 04 giờ sáng
cùng ngày thì có một xe tô khách (T không để ý biển kiểm soát xe ô tô như thế
nào) đi theo chiều đường từ Hòa Bình đi Hà Nội qua chỗ T đng khoảng 30m
đến 40m thì dừng lại rồi có một ai đó trong xe ô tô khách (T không xác định
được là nam hay nữ) ném xuống ven đường phía bên T đng 01 thùng giấy
carton rồi xe ô tô đó đi tiếp. T xác định đó là thùng đựng ma tuý mà S1 giao cho
T để vận chuyển, T đến ôm thùng giấy carton đó đem vào để ở vị trí để chân bên
ghế phụ xe ô tô của H1 rồi T lên xe ngồi ở ghế phụ thì lúc này S1 gọi điện thoại
cho T bảo T đem thùng carton đựng ma túy đó đến huyện M1, thành phố Hà Nội
s có một phụ nữ liên hệ với T ra nhận thùng ma tuý đó, xong việc S1 s thanh
toán cho T 20.000.000 đồng. Sau đó T bảo H1 điều khiển xe ô tô chở T quay về
đi theo đường đi cầu V2 rồi T ngồi trên xe ngủ. Khi qua cầu V2, T giật mình
tỉnh dậy thì nhìn thấy phía trước có Tổ công tác của Công an tỉnh Vĩnh Phúc
đang kiểm tra nên T bảo H1dừng xe vào rìa đường thì cùng lúc này Tổ công tác
của Phòng cảnh sát ma túy và Phòng cảnh sát giao thông Công an tỉnh Vĩnh
Phúc yêu cầu H1 dừng xe kiểm tra, phát hiện T đang vận chuyển trái phép 10
bánh ma túy heroine.
Tuy nhiên, tại các phiên tòa ngày 27/10/2021 và ngày 01/11/2021, Nguyễn
Ngọc T lại khai nhận: Nội dung bản Cáo trạng đại diện Viện kiểm sát nhân dân
tỉnh Vĩnh Phúc công bố tại phiên tòa ngày 27/10/2021 là đúng với diễn biến
hành vi phạm tội của T như T đã khai nhận trong quá trình điều tra, truy tố vụ
án, nhưng đó không phải sự thật. Thực tế là tối ngày 28/4/2020, Nguyễn Văn D1
- sinh năm 1979, trú tại: Tổ 5, phường T5, tỉnh Điện Biên là anh quen biết xã hội
với T1, gọi điện thoại cho T bảo T đến cổng chào Hòa Bình đón D1, sau đó T
nhờ Phạm Văn H1 điều khiển xe ô tô chở T đi đón D1. Rạng sáng ngày
29/4/2020, tại cổng chào vào tỉnh Hòa Bình, D1 đưa cho T thùng carton, không
nói bên trong cha gì và nói nhờ T cầm giúp, D1 đến Hà Nội đăng kiểm xe ô tô
xong s quay lên gặp T lấy nên T định đem thùng carton này về nhà cất. Khi đi
đến đầu cầu V2, thuộc thôn Bảo Trưng, xã Phú Đa, huyện Vĩnh Tường, tỉnh
Vĩnh Phúc thì bị Công an tỉnh Vĩnh Phúc kiểm tra và thu giữ của T thùng carton
trên, phát hiện bên trong có 10 bánh heroine, do D1 là người có địa vị và mối
quan hệ lớn, hơn nữa T nghĩ với lượng ma túy như vậy thì T chỉ đi tù khoảng 5
năm 7 năm là về, T nhận tội vận chuyển ma túy thay cho D1 thì D1 s lo cho
con gái của T cng như gia đình T và cung cấp tiền thăm nuôi T nên T đã không
khai ra nguồn gốc thùng carton là của D1 mà T tự nghĩ ra một người tên S1 rồi
khai với cơ quan điều tra là nhận vận chuyển ma túy cho S1 đem đến huyện M1
12
giao cho phụ nữ không rõ tên tuổi để lấy tiền công là 20.000.000đ, thực tế người
tên S1 và người phụ nữ tại huyện M1 là không có thật, do tự T nghĩ ra. Nay T
được biết quá trình T bị bắt giam, D1 không thăm nuôi T cng như hỗ trợ tiền để
chăm sóc người thân của T nên nay Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc xét xử, T
xin khai nhận ra sự thật là thùng carton là của Nguyễn Văn D1 và D1 là chủ
doanh nghiệp vận tải DN2 ở thành phố ĐP, số điện thoại của D1 sử dụng là
0978.601.980 và sáng ngày 29/4/2020, D1 đi trên xe ô tô khách giường nằm của
nhà D1 tuyến Điện Biên – Hà Nội, xe ô tô màu đ, biển kiểm soát xe có hai số
cuối là 46 đến gặp T tại khu vực cổng chào XM, tỉnh Hoà Bình.
Cng tại phiên tòa ngày 01/11/2021, luật sư Nguyễn Trung T3 bào chữa
cho bị cáo T cung cấp cho Hội đồng xét xử và Kiểm sát viên bản Vi bằng số
4081/2021/VB-TPLBĐ ngày 30/10/2021 lập tại Văn phòng thừa phát lại B – địa
chỉ: Số 61 phố Phan Kế Bính, phường Cống Vị, quận B, thành phố Hà Nội và 01
USB, theo luật sư đó là tài liệu của bà Nguyễn Thị T2 – mẹ bị cáo T cung cấp,
trong đó có nội dung cuộc nói chuyện qua điện thoại giữa bà T2 (SĐT:
033.939.3592) với số điện thoại 0978.601.980 của Đỗ Văn D1 – sinh năm 1979,
trú tại: Tổ 5, phường T5, thành phố ĐP, tỉnh Điện Biên vào hồi từ 15 giờ 06 phút
đến 15 giờ 27 phút ngày 27/10/2021, về việc bà T2 nói với D1 là T con bà đã
nhận hết tội thay D1, D1 phải có trách nhiệm hỗ trợ tiền cho bà T2 để lo cho T thì
D1 nói trước đây đã chuyển cho bà T2 200.000.000đ thông qua số điện thoại của
D2 con gái bà T2, hơn nữa D1 không phải là chủ hàng mà chỉ là người cầm thuê
thì bà T2 yêu cầu D1 phải chuyển thêm tiền vì án của T là tử hình nhưng D1 nói
hiện không có tiền, gia đình hiện khó khăn. Tại phiên tòa ngày 01/11/2021, chị
Nguyễn Thị Lan P1 là con gái bà T2 đã tự nguyện giao nộp cho Hội đồng xét xử
01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Sam sung màu đen, theo bà T2 và Phương
khai đó là chiếc điện thoại bà T2 sử dụng liên lạc với D1 ngày 27/10/2021 và ghi
âm lại cuộc nói chuyện với D1. Bị cáo T, luật sư bào chữa cho bị cáo T đề nghị
Hội đồng xét xử trả hồ sơ để làm rõ vai trò của Đỗ Văn D1.
Căn c lời khai của Nguyễn Ngọc T cùng tài liệu chng c mà luật sư bào
chữa cho bị cáo và bà Nguyễn Thị T2 cung cấp tại phiên tòa, Hội đồng xét xử
xác định đó là các tình tiết mới của vụ án, cần điều tra làm rõ có hay không đồng
phạm khác trong vụ án. Hội đồng xét xử đã trả hồ sơ cho Viện kiểm sát nhân
dân tỉnh Vĩnh Phúc để trả hồ sơ cho Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Vĩnh Phúc
làm rõ.
13
Tại các Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung số 06/QĐ-VKS-P1 ngày
29/11/2021 và Quyết định trả hồ để điều tra bổ sung số 02/QĐ-VKS-P1 ngày
06/01/2022 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc đã trả hồ sơ cho Cơ
quan CSĐT Công an tỉnh Vĩnh Phúc yêu cầu điều tra làm rõ ngày 29/4/2020 Đỗ
Tiến D1 - sinh ngày 08/6/1979, hộ khẩu thường trú: Bản TC, xã S4, thành phố
LC, tỉnh Lai Châu; chỗ ở: Tổ 5, phường T5, thành phố ĐP, tỉnh Điện Biên có
giao cho Nguyễn Ngọc T thùng carton bên trong cha 10 bánh ma túy heroine
để vận chuyển từ cổng chào Hòa Bình về Vĩnh Phúc bị phát hiện và bắt quả tang
không. Kết quả điều tra đã xác định được như sau:
Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh tại phường T5, thành phố ĐP xác
định tại tổ 5 cng như cả phường T5, thành phố ĐP không có ai là Đỗ Văn D1 -
sinh năm 1979, chỉ có người tên Đỗ Tiến D1 - sinh ngày 08/6/1979, hộ khẩu
thường trú: Bản Thành Công, xã S4, thành phố LC, tỉnh Lai Châu, có vợ tên là
Hoàng Bích N2 - sinh năm 1980, hiện hai vợ chồng đang ở số nhà 18, tổ 5,
phường T5, thành phố ĐP, là chủ doanh nghiệp vận tải DN2.
Xác minh tại Ban quản lý bến xe thành phố ĐP và Hợp tác xã vận chuyển
khách hàng hóa và dịch vụ thành phố ĐP, tỉnh Điện Biên xác định: Năm 2018,
vợ chồng Đỗ Tiến D1 có góp vốn vào Hợp tác xã vận chuyển khách hàng hóa và
dịch vụ thành phố ĐP 02 xe ô tô nhãn hiệu Huyn dai, trọng tải 39 giường là xe ô
tô BKS 27B-001.28 và xe ô tô BKS 27B-001.46, Hợp tác xã vận tải bố trí 02 xe
ô tô này chạy tuyến Điện Biên - bến xe Yên Nghĩa, Hà Nội. Lái xe xe ô tô BKS
27B-001.46 là Trịnh Tuấn D3 - sinh năm 1983, trú tại: BNC, phường NT, thành
phố ĐP, tỉnh Điện Biên, Lò Văn L2 - sinh năm 1982, trú tại: Xã CD, huyện G1,
tỉnh Điện Biên và phụ xe là Lê Đôn T9 – sinh năm 1989, trú tại: Xã QV, huyện
L3, tỉnh Nghệ An; Lái xe và phụ xe ô tô BKS 27B-001.28 là Ngô Văn C2 – sinh
năm 1986, trú tại: Tổ 4, phường TT, thành phố ĐP, tỉnh Điện Biên và Hoàng
Trung T10 – sinh năm 1988, trú tại: Tổ 5, phường MT, thành phố ĐP, tỉnh Điện
Biên.
Ngày 29/11/2021, Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Vĩnh Phúc đã ra Quyết
định trưng cầu Phòng K thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Phúc giám định k
thuật số điện tử đối với chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Sam sung màu đen
của bà Nguyễn Thị T2. Tại Kết luận giám định số 3203/KLGĐ ngày 10/12/2021
của Phòng K thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Phúc kết luận: “Trích xut được
dữ liu trong mu vt gi giám định, qua phân tích dữ liu theo yêu cầu giám
định thy có:
14
- Danh sách 107 s đin thoi trong danh b đin thoi, 72 cuc gọi trong
lịch s cuc gọi và 144 tin nhn trong ứng dụng Zalo. Toàn b dữ liu này được
in trong bn in dư liu giám định;
- 452 MB dữ liu là tp tin âm thanh, tp tin hnh nh và video được sao
lưu vào 01 đĩa DVD” (thu được dữ liu về các bn ghi âm cuc gọi giữa các s
đin thoi 0978601980 và 0339393592).
Ngày 29/11/2021, Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Vĩnh Phúc đã ra lệnh thu
giữ thư tín, điện tín tại Tập đoàn Công Nghiệp Viễn Thông Quân đội (Viettel)
đối với 02 số điện thoại 0978601980 và 0339393592, thời gian từ ngày
27/4/2020 đến ngày 30/6/2020 và từ ngày 01/9/2021 đến ngày 22/11/2021. Kết
quả, ngày 13/12/2021, Tập đoàn Công Nghiệp Viễn Thông Quân đội (Viettel)
cung cấp list điện thoại của 02 số điện thoại trên từ ngày 01/9/2021 đến ngày
22/11/2021, xác định ngày 27/10/2021 có các cuộc gọi giữa 02 số điện thoại
0978.601.980 và 0339.393.592 với nhau, trong đó có các cuộc gọi trùng khớp về
thời gian như trong bản vi bằng của bà Nguyễn Thị T2 cung cấp và kết luận
giám định k thuật số điện tử đối việc chiếc điện thoại bà T2 cung cấp, nhưng
không thu giữ được nội dung tin nhắn nào.
Ngày 29/11/2021, Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Vĩnh Phúc đã ra Quyết
định trưng cầu giám định bổ sung Viện khoa học hình sự - Bộ Công an giám
định đối với các dấu vết đường vân thu giữ được trên thùng giấy carton đựng 10
bánh ma tuý heroine của Nguyễn Ngọc T vận chuyển trái phép ngày 29/4/2020
với dấu vết đường vân của Đỗ Tiến D1 và của các lái xe, phụ xe ô tô BKS 27B -
001.46 (gồm Trịnh Tuấn D3, Lò Văn L2 và Lê Đôn T9); Hoàng Bích N2 và
Phạm Văn H1. Tại Bản kết luận giám định số 8727 ngày 09/12/2021 của Viện
khoa học hình sự - Bộ Công an, kết luận: “Du vết đường vân k hiu s 4 ghi
trong Kết lun giám định s 2515/C09-P3 ngày 12/5/2020 của Vin khoa học
hnh sự B Công an với du vân tay in ô ngón giữa trái trên chỉ bn ghi tên
Đỗ Tiến D1 – sinh năm 1979, h khẩu thường trú: S4, thành ph LC, tỉnh Lai
Châu gi giám định là cng mt người” (không tm thy du vân tay của T9,
D3, L2, H1 và N2).
Ngày 18/12/2021, Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Vĩnh Phúc đã ra Quyết
định trưng cầu Viện khoa học hình sự - Bộ Công an giám định âm thanh xác
định tiếng nói của Đỗ Tiến D1, Nguyễn Thị T2 trong các cuộc gọi ghi âm trong
chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Sam Sung của bà T2. Tại Kết luận giám định
15
số 9154/C09-P6 ngày 20/12/2021 của Viện khoa học hình sự - Bộ Công an, kết
luận:
“- Tiếng nói của người đàn ông được gọi là “D1, con” và xưng là “con”
trong các tp ghi âm mu cần giám định và tiếng nói của Đỗ Tiến D1 trong mu
so sánh là của cng mt người.
- Tiếng nói của người phụ nữ được gọi là “bà”và xưng là “bà, tao” trong
các bn ghi âm mu cần giám định và tiếng nói của bà Nguyn Thị T2 trong
mu so sánh là của cng mt người”.
Ngày 20/12/2021, Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Vĩnh Phúc ra Quyết định
trưng cầu giám định bổ sung Viện khoa học hình sự - Bộ Công an, yêu cầu dịch
thành văn bản các tệp ghi âm các cuộc gọi điện thoại ngày 27/10/2021 giữa bà
Nguyễn Thị T2 và Đỗ Tiến D1. Tại Bản kết luận giám định bổ sung số
9189/C09-P6 ngày 23/12/2021 của Viện khoa học hình sự - Bộ Công an kết
luận: Nội dung tiếng nói của bà Nguyễn Thị T2, tiếng nói của Đỗ Tiến D1 trong
các tệp ghi âm đã được chuyển thành dạng văn bản (kèm theo kết luận giám
định).
Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh tại Siêu thị điện thoại Viettel ở
phường KQ, thành phố V, tỉnh Vĩnh Phúc, xác định: Ngày 04/5/2020, Nguyễn
Thái H2 có nhận số tiền 200.000.000đ từ Hoàng Thị Bích N3 - sinh năm 1977,
trú tại: Phường MT, thành phố ĐP, tỉnh Điện Biên qua 04 phiếu lĩnh tiền (mỗi
phiếu 50.000.000đ).
Tại Cơ quan điều tra, Đỗ Tiến D1 khai là không có quan hệ quen biết gì với
Nguyễn Ngọc T, Nguyễn Thị T2, Phạm Văn H1 cng như các thành viên gia
đình Nguyễn Ngọc T và không liên lạc, trao đổi hay có quan hệ làm ăn gì với T
cng như các thành viên gia đình T. Không đến trang trại chăn nuôi của ai ở
Vĩnh Phúc. Ngày 29/4/2020, D1 không đưa thùng giấy carton đựng 10 bánh ma
tuý heroine cho T, vì hôm đó D1 ở Điện Biên, không đi theo xe khách của nhà
xe DN2 xuống Hà Nội; chỉ những lần D1 đưa vợ của D1 là Hoàng Bích N2 đi
Hà Nội để khám và điều trị bệnh ung thư tuyến giáp tại Bệnh viện K Tân Triều
và Bệnh viện Ung Bướu 108 thì D1 mới đi theo xe khách; ngày 28 và 29/4/2020
không phải là lịch đi khám điều trị bệnh của vợ D1. D1 không biết vì sao lại có
dấu vết đường vân tay của D1 trên thùng giấy carton đựng 10 bánh ma tuý của T
bị bắt ngày 29/4/2020, D1 cho rằng vì D1 là nhà xe vận tải hành khách và hàng
hoá, có nhận hàng hoá của nhiều khách gửi theo xe, trong đó nếu khách gửi
16
hàng từ hôm trước khi xe chạy thì đem hàng vào nhà ở của D1 tại tổ 5, phường
T5, thành phố ĐP thì vợ chồng D1 nhận hàng hoặc nếu khách gửi tại bến xe mà
D1 có mặt tại bến thì D1 cng tham gia cùng phụ xe bê hàng hóa lên xe ô tô,
còn khách gửi hàng dọc tuyến đường xe chạy thì do lái xe hoặc phụ xe nhận nên
có thể khi D1 nhận hoặc bê hàng cho khách lên xe ô tô s để lại dấu vết đường
vân tay của D1. Việc theo dõi tiếp nhận vận chuyển hàng hóa của khách thì lái
xe có ghi chép về giao cho N2 vợ D1. Khách gửi hàng hóa thì đều dán kín, nhà
xe không kiểm tra, họ bảo đó là hàng gì thì biết hàng đó, khi gửi hàng thì khách
có cung cấp số điện thoại của người nhận và lái xe, phụ xe căn c số điện thoại
ghi trên hàng hóa để liên hệ giao hàng; căn c trọng lượng hàng hóa để thu tiền
cước vận chuyển hàng hóa. Các sổ sách theo dõi nhận hàng hóa của lái xe thì
hiện do đã lâu nên vợ D1 đã đốt hết, D1 không xác định được trong các ngày 28
và 29/4/2020 nhà xe đã nhận, trả những loại hàng hoá gì, của ai, cho ai, ở đâu và
không xác định được thùng carton có cha 10 bánh ma túy mà có dấu vân tay
của D1 là của ai và nhận khi nào. Số điện thoại 0978.601.980 là số điện thoại
của nhà xe DN2, đăng ký chủ thuê bao là Hoàng Bích N2 vợ của D1, được niêm yết
công khai trên xe ô tô BKS 27B - 001.46 và được lắp trong cùng một chiếc máy điện
thoại với một số điện thoại khác của nhà xe DN2 là 0945.188.389 và thường được các
lái, phụ xe ô tô BKS 27B - 001.46 cầm theo xe để liên hệ với khách. Khi xe về
Điện Biên mà các lái, phụ xe không cầm theo các số điện thoại trên thì D1 mới
cầm để nhận khách và nhận, trả hàng hoá. Ngày 27/10/2021, D1 không gọi điện
thoại nói chuyện với bà Nguyễn Thị T2 vì ngày đó xe ô tô khách BKS 27B -
001.46 đang ở Hà Nội, D1 không đi theo xe mà ở Điện Biên, nên D1 không thể
dùng số điện thoại trên để liên lạc, nói chuyện với ai được. Tháng 05/2020, D1
không nhờ chị Hoàng Thị Bích N3 chị gái vợ D1 chuyển số tiền 200.000.000
đồng cho gia đình T để lo việc cho T theo như lời khai của bà T2 và lời khai
của Nguyễn Thái H2 là người đã nhận tiền, cng như tài liệu xác minh tại siêu
thị điện thoại Viettel.
Tại Cơ quan điều tra, ban đầu bà Nguyễn Thị T2 khai không có quan hệ
quen biết gì với Đỗ Văn D1 (tc Đỗ Tiến D1) - sinh năm 1979, trú tại: Tổ 5,
phường T5, thành phố ĐP, tỉnh Điện Biên mà chỉ đến trưa ngày 27/10/2021, khi
chồng và các con bà T2 đi dự phiên tòa xét xử T về có kể lại là tại phiên toà sơ
thẩm ngày 27/10/2021 xét xử Nguyễn Ngọc T, T khai người đưa thùng giấy
carton đựng 10 bánh ma tuý cho T là D1 và số điện thoại của D1 là
0978.601.980, bà T2 mới nhớ ra sau khi T bị bắt một thời gian thì có người bạn
của T gọi điện thoại cho bà T2 tự giới thiệu tên là D1 ở Điện Biên hi thăm về
17
T, động viên bà T2, nói s hỗ trợ cho gia đình bà 200.000.000 đồng và bảo bà
T2 cho D1 số chng minh nhân dân của bà T2 để D1 chuyển tiền qua dịch vụ
của Tập đoàn viễn thông quân đội Viettel thì bà T2 đã cho D1 số căn cước công
dân và số điện thoại của anh Nguyễn Thái H2 - sinh năm 1985, trú tại: Thôn
Hưng Thịnh, xã H5, huyện TD, tỉnh Vĩnh Phúc là con rể của bà T2 để nhận tiền.
Ngày 04/5/2020, anh H2 đến siêu thị điện thoại Viettel nhận 200.000.000 đồng
về đưa cho bà thì bà T2 đã bảo H2 chi vào tiền thuê luật sư bào chữa cho T, mua
máy tính cho con gái T và chi thăm nuôi T trong quá trình tạm giam. Bà T2 nghĩ
D1 là người đã điện thoại trước đây cho bà T2 và chuyển cho bà T2 200.000.000
đồng chính là người đã đưa hộp carton cha 10 bánh ma túy cho T nên chiều
ngày 27/10/2021, bà T2 đã gọi điện thoại cho D1 rồi ghi âm lại. Bà T2 không
biết D1 liên quan như thế nào đến việc T vận chuyển trái phép chất ma túy bị bắt
quả tang ngày 29/4/2020.
Ngày 23/12/2021, Cơ quan điều tra đã tiến hành cho bà T2 nhận dạng Đỗ
Tiến D1 thì bà T2 và D1 đều khai nhận không biết người tham gia nhận dạng là
ai. Đến ngày 07/01/2022, bà Nguyễn Thị T2 lại có đơn đề nghị gửi Cơ quan
CSĐT Công an tỉnh Vĩnh Phúc, đề nghị cho nhận dạng và đối chất lại với Đỗ
Tiến D1, lý do sau khi được Cơ quan điều tra cho nhận dạng Đỗ Tiến D1 vào
ngày 23/12/2021, khi về nhà bà T2 nhớ ra D1 đã nhiều lần đến trang trại chăn
nuôi của vợ chồng con gái bà là Nguyễn Thị Lan D2 và Nguyễn Thái H2 ở xã
H5, huyện TD, tỉnh Vĩnh Phúc ăn cơm cùng với bà T2, T, D2, H2, Phạm Văn
H1 – người lái xe đưa T đi ngày 29/4/2020 và cháu Hồ A2 – sinh năm 2006, trú
tại: Phường T8, thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên. Bà T2 còn cung cấp thêm một
tấm ảnh chụp hình 02 cháu gái và bà T2 cho biết đó là ảnh của con gái D1 và
cháu Hồ A2 chụp cùng nhau trong một lần D1 và con gái D1 đến trang trại của
D2 chơi đã được cháu Hồ A2 chụp và lưu lại trong chiếc điện thoại di động của
cháu A2.
Ngày 20/02/2022, Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Vĩnh Phúc tiếp tục tiến
hành đối chất giữa bà Nguyễn Thị T2 và Đỗ Tiến D1. Kết quả bà T2 khai có
quan hệ quen biết với D1 vì D1 là người quen của T, D1 đã nhiều lần đến trang
trại của D2, H2 gặp T và ăn cơm cùng những người khác trong gia đình bà và
Phạm Văn H1, D1 đã nhiều lần gọi điện cho bà T2 sau khi T bị bắt để hi thăm
về T, động viên bà T2 và ha s lo cho T, D1 cng gửi cho gia đình bà T2 số
tiền 200.000.000 đồng và D1 còn đe doạ bà T2 nếu nói cho người th ba thì bà
vĩnh viễn không gặp được T. Ngoài ra, tối ngày 29/4/2020 (là ngày T bị bắt), khi
18
H1 được Cơ quan Công an cho về vì không liên quan đến vụ án thì H1có đến
trang trại của D2 H2 gặp bà và những người khác trong gia đình bà kể lại là sáng
ngày 29/4/2020, H1 nhìn thấy D1 là người đưa thùng carton cho T, sau đó H1 và
T đi về đến khu vực cầu V2 thì bị Công an kiểm tra phát hiện trong thùng carton
mà D1 đưa cho T có 10 bánh ma túy heroine. Tuy nhiên, Đỗ Tiến D1 không
thừa nhận các nội dung mà bà T2 đã khai.
Tại Cơ quan điều tra, anh Nguyễn Thái H2 đã khai nhận nội dung cung cấp
căn cước công dân của H2 cho bà T2 để nhận chuyển tiền và ngày 04/5/2020,
anh H2 đã nhận được cuộc gọi điện thoại của Tổng đài Viettel gọi đến Siêu thị
điện thoại Viettel ở gần bến xe phường Khai Quang, thành phố V, tỉnh Vĩnh
Phúc để nhận tiền 200.000.000đ, cùng ngày anh H2 đã nhận số tiền trên nhưng
không rõ cụ thể là ai đã gửi và là tiền gì. Sau khi H2 nhận được số tiền trên, H2
đã đưa cho bà T2 thì bà T2 bảo H2 đưa cho Nguyễn Thị Lan P1 con gái út của
bà T2 80.000.000đ để thuê luật sư cho T, đưa cho bà T2 10.000.000đ để mua
điện thoại di động cho con gái T học online, còn lại sử dụng vào chi phí đi lại
cho luật sư và mua đồ tiếp tế cho Nguyễn Ngọc T đến nay đã hết. Cơ quan điều
tra thông báo cho H2 biết người chuyển tiền cho H2 là chị Hoàng Thị Bích N3 –
sinh năm 1977, trú tại: Tổ 11, phường MT, thành phố ĐP, tỉnh Điện Biên thì H2
nói không có mối quan hệ quen biết gì với chị N3 và cng không vay nợ, mua
bán hàng hóa gì với chị N3. Lời khai ban đầu, H2 khai không biết, không có
quan hệ gì với ai tên là Đỗ Văn D1 hay Đỗ Tiến D1, sinh năm 1979, ở tổ 5,
phường TB, thành phố ĐP, tỉnh Điện Biên. Nhưng sau ngày 23/12/2021 (bà T2
đến Phòng cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh đối chất với D1
về), H2 đến làm việc và trình bày nhớ ra là có quen biết và đã từng ăn cơm cùng
D1. Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Vĩnh phúc đã cho Nguyễn Thái H2 nhận dạng
qua ảnh và H2 đã nhận được ra Đỗ Tiến D1, con gái D1 trong tấm ảnh do bà T2
cung cấp, nhưng H2 không biết D1 có liên quan gì đến việc T vận chuyển trái
phép chất ma túy bị bắt ngày 29/4/2020. Ngày 20/02/2022, Cơ quan CSĐT
Công an tỉnh Vĩnh Phúc tiến hành đối chất giữa Nguyễn Thái H2 và Đỗ Tiến
D1. Kết quả là anh H2 khai có quan hệ quen biết với D1 vì D1 là người quen
của T, D1 đã nhiều lần đến trang trại của vợ chồng H2 gặp T, ăn cơm cùng
những người khác trong gia đình và H1, trong đó có lần D1 cùng Phạm Văn H1,
T và vợ chồng H2 còn cùng nhau đi ăn tại một quán lẩu ở ĐC, huyện Y. Ngoài
ra, tối ngày 29/4/2020, H1 có đến trang trại chăn nuôi của vợ chồng H2 gặp bà
T2 và những người khác trong gia đình kể lại cho mọi người biết về việc T bị
19
bắt vào sáng cùng ngày và H1 nói là có nhìn thấy D1 là người đưa thùng carton
cho T. Tuy nhiên, D1 không thừa nhận các nội dung H2 khai.
Xác minh về Hoàng Thị Bích N3 - sinh năm 1977, trú tại: Phường MT,
thành phố ĐP, tỉnh Điện Biên, xác định là chị gái ruột của Hoàng Bích N2 –
sinh năm 1980, trú tại: Tổ 5, phường T5, thành phố ĐP, tỉnh Điện Biên (vợ của
Đỗ Tiến D1). Quá trình điều tra, chị N3 khai khoảng tháng 5/2020, Đỗ Tiến D1
là em rể của chị có đưa cho chị 200.000.000 đồng cùng số điện thoại của người
nhận tiền và nhờ chị N3 chuyển số tiền trên cho người nhận tiền theo số điện
thoại D1 cung cấp thì chị N3 chuyển khoản số tiền trên, chị không có mối quan
hệ gì với người nhận tiền và cng không biết mục đích D1 nhờ chuyển tiền cho
người đó. Cơ quan điều tra đã làm việc với Đỗ Tiến D1 về nội dung chị N3 khai
báo nhưng D1 không thừa nhận có việc nhờ chị N3 chuyển số tiền trên. Cơ quan
điều tra đã tiến hành đối chất giữa D1 và chị N3 nhưng cả hai đều khai không có
mâu thun gì và giữ nguyên lời khai, D1 không thừa nhận có việc nhờ chị N3
chuyển 200.000.000 đồng cho gia đình bà T2 vào ngày 04/5/2020.
Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Thị Lan D2 (em gái bị can T) khai có quen
biết và đã từng ăn cơm với Đỗ Tiến D1 tại trang trại chăn nuôi của vợ chồng D2
02 lần khi D1 đến trang trại của D2 gặp T. Cơ quan CSĐT đã tiến hành cho D2
nhận dạng D1 qua ảnh và D2 đã nhận được ra Đỗ Tiến D1, con gái D1 trong tấm
ảnh do bà T2 cung cấp. Chị D2 còn cung cấp cho Cơ quan CSĐT nội dung tin
nhắn chúc mừng năm mới qua ng dụng Zalo giữa D1 và D2 vào ngày
25/01/2020 (tc ngày 01/01/2020 âm lịch), nhưng D2 không biết D1 có liên
quan như thế nào đến việc T vận chuyển trái phép chất ma tuý bị bắt ngày
29/4/2020. Ngày 20/02/2022, Cơ quan CSĐT tiến hành đối chất giữa D2 và Đỗ
Tiến D1. Kết quả chị D2 khai có quan hệ quen biết với D1 vì D1 là người quen
của Nguyễn Ngọc T, D1 đã nhiều lần đến trang trại của D2 gặp T, ăn cơm cùng
những người khác trong gia đình chị D2 và Phạm Văn H1, trong đó có lần D1
cùng H1, T và vợ chồng D2 còn cùng nhau đi ăn tại một quán lẩu ở ĐC, huyện
Y. Tối ngày 29/4/2020, H1 có đến trang trại chăn nuôi của chị D2 gặp bà T2 và
những người khác trong gia đình chị, H1có kể lại cho mọi người biết về việc T
bị bắt vào sáng cùng ngày và H1 nói là có nhìn thấy D1 là người đưa thùng
carton cho T. Nhưng D1 không thừa nhận các nội dung D2 khai.
Tại Cơ quan điều tra, cháu Hồ A2, sinh năm 2006, trú tại: Phường T8,
thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên là cháu nuôi của bà T2 và hiện đang được bà
T2 chăm sóc, nuôi dưỡng khai là vào buổi chiều ngày 18/3/2020, D1 đi cùng
20
con gái nh gọi tên là NK (không rõ họ tên đầy đủ của NK là gì) và Phạm Văn
H1 đến trang trại chăn nuôi của vợ chồng cô D2 ở xã HT gặp chú Nguyễn Ngọc
T và ở lại ăn cơm tối, sau đó có cùng nhau đi uống nước tại một quán cafe ở khu
vực QT, phường HH, thành phố V. Cháu A2 đã chụp một số kiểu ảnh bằng máy
điện thoại di động của A2 với NK và còn lưu lại trong máy điện thoại và được
xác định những tấm ảnh đó được chụp vào ngày 18/3/2020. Cơ quan CSĐT
Công an tỉnh Vĩnh Phúc đã tiến hành cho cháu Hồ A2 nhận dạng qua ảnh đối
với Đỗ Tiến D1 thì cháu A2 đã nhận được ra Đỗ Tiến D1 và Phạm Văn H1.
Ngày 21/02/2022, Cơ quan CSĐT tiến hành đối chất giữa Hồ A2 với Đỗ Tiến
D1. Kết quả D1 khai không biết cháu A2, không thừa nhận các nội dung cháu
A2 khai báo.
Đối với Phạm Văn H1, quá trình điều tra H1 khai nhận là có mối quan hệ
quen biết với T. H1 làm nghề kinh doanh bia tại phường HH, thành phố V.
Trước khi T bị bắt, H1 thường xuyên đến trang trại của chị D2 để đi chở cây
ngô, mía, c giúp T về chăn nuôi trâu, bò và nhiều lần ăn cơm tại trang trại cùng
gia đình T. Tối ngày 28/4/2020, T gọi điện thoại nhờ H1 đêm cùng ngày đến thị
trấn L1 đón T rồi đi tỉnh Hòa Bình để đón bạn. Khi đi T không bàn bạc, tha
thuận hay nói cho H1 biết việc T đến tỉnh Hòa Bình để vận chuyển trái phép
chất ma túy và cng không cho H1 khoản tiền gì. Do nể nang T là bạn nên mặc
dù là ban đêm nhưng H1 vn đồng ý điều khiển xe ô tô đến đón T rồi đưa T đi
Hòa Bình. Khi đi qua cổng chào XM để vào tỉnh Hòa Bình, T bảo H1 dừng xe
để T xuống đợi bạn sau đó H1 đỗ xe vào rìa đường rồi ngồi trên cabin xe ngủ,
một lúc sau thấy T mở cửa xe ô tô bê hộp gì đó vào để dưới chân của ghế phụ
rồi T lên ngồi trên ghế phụ thì H1 hi T là bạn đâu thì T không nói gì mà bảo H1
quay về đường c, sau đó T ngủ. H1 điều khiển xe ô tô qua cầu V2 thì T dậy và
nhìn thấy phía trước có Công an nên bảo H1 dừng xe thì cùng lúc này Tổ công
tác của Công an tỉnh Vĩnh Phúc kiểm tra, phát hiện trong thùng carton của T có
10 bánh heroine, H1 thấy T tự khai nhận đó là 10 bánh ma túy heroine của T
nhận vận chuyển từ Hòa Bình về huyện M1 để hưởng tiền công là 20.000.000
đồng thì khi đó H1 mới biết là T nhờ H1 chở đi tỉnh Hòa Bình để T nhận vận
chuyển trái phép chất ma túy. Nguồn gốc 10 bánh ma túy đó ai đưa cho T và đưa
khi nào thì H1 không nhìn thấy. Tối ngày 29/4/2020, H1 có đến trang trại của vợ
chồng chị D2 nói chuyện với gia đình T về việc sáng cùng ngày T bị bắt về hành
vi vận chuyển trái phép chất ma túy, H1 không nói với gia đình T là H1 nhìn
thấy Đỗ Tiến D1 đưa thùng carton bên trong có cha 10 bánh ma túy heroine và
cng không có mối quan hệ quen biết với Đỗ Tiến D1, chưa gặp D1 bao giờ và
21
cng không ăn cơm cùng D1 lần nào. Việc các thành viên gia đình T nói H1 có
biết D1, có đi cơm cùng D1 một số lần, trong đó có T, vợ chồng D2 H2 và cháu
A2 là không đúng. Qua kiểm tra các tin nhắn, cuộc gọi đi đến theo kết luận giám
định và rút list điện thoại của H1 thì không phát hiện có dữ liệu gì về việc H1 có
bàn bạc với T để vận chuyển trái phép chất ma túy. Quá trình điều tra, truy tố
trước đây Nguyễn Ngọc T cng khai nhận là H1 không có liên quan gì đến việc
T vận chuyển trái pháp chất ma túy. Ngày 22/02/2022, Cơ quan điều tra đã tiến
hành đối chất giữa bà T2, chị D2, anh H2, cháu A2 với Phạm Văn H1, nhưng
các bên đều giữ nguyên lời khai trong quá trình điều tra và đều cam đoan nội
dung khai báo là đúng; cùng ngày Cơ quan điều tra đã cho H1 nhận dạng và đối
chất với Đỗ Tiến D1 nhưng H1 và D1 đều khai nhận không có quan hệ quen biết
nhau, chưa gặp nhau bao giờ. Do vậy không có căn c xác định H1 đồng phạm
với T, nên Cơ quan điều tra không đề cập xử lý đối với H1 là có căn c.
Cơ quan điều tra đã xác minh, triệu tập ghi lời khai của các lái xe, phụ xe
của nhà xe DN2 tuyến bến xe thành phố ĐP đi bến xe Yên Nghĩa, Hà Nội trong
ngày 28/4/2020 và 29/4/2020 gồm: Lái xe xe ô tô BKS 27B-001.46 là Trịnh
Tuấn D3 - sinh năm 1983, trú tại: BNC, phường NT, thành phố ĐP, tỉnh Điện
Biên, Lò Văn L2 - sinh năm 1982, trú tại: Xã CĐ, huyện G1, tỉnh Điện Biên và
Lê Đôn T9 - sinh năm 1989, trú tại: Xã QV, huyện L3, tỉnh Nghệ An; Lái xe và
phụ xe ô tô BKS 27B-001.28 là Ngô Văn C2 - sinh năm 1986, trú tại: Tổ 4,
phường TT, thành phố ĐP, tỉnh Điện Biên và Hoàng Trung T10 - sinh năm
1988, trú tại: Tổ 5, phường MT, thành phố ĐP, tỉnh Điện Biên. Các lái xe và phụ
xe đều khai trước đây thỉnh thoảng Đỗ Tiến D1 có đi theo các xe ô tô khách của
nhà xe DN2, nhưng do thời gian đã lâu, các lái, phụ xe không thể nhớ được cụ
thể vào ngày nào; số điện thoại 0978.601.980 là một trong các số điện thoại của
nhà xe DN2, được niêm yết công khai trên xe ô tô BKS: 27B - 001.46. Anh D3,
anh L3 và anh T9 đều khai nhận là số điện thoại của nhà xe D1 N2 để trên xe ô
tô cho các lái xe và phụ xe sử dụng là 0945.188.389, còn số điện thoại
0978.601.980 là do Đỗ Tiến D1 thường xuyên quản lý, sử dụng. Việc tiếp nhận
các loại hàng hoá của khách gửi thuê vận chuyển chủ yếu do các lái xe, phụ xe
tiếp nhận ở bến xe và trên dọc tuyến đường đi, còn các loại hàng hoá của khách
đem đến gửi tại nhà DN2 thì do D1, N2 tiếp nhận rồi chuyển ra xe. Việc tiếp
nhận hàng hoá gửi theo xe ô tô thì thường giao cho phụ xe làm, có ghi chép sổ
sách theo dõi do nhà xe cung cấp, nhưng không được mở hàng hóa ra để kiểm
tra bên trong mà thường chỉ nghe khách nói lại đó là hàng gì, khách gửi vận
chuyển hàng thường đóng gói dán kín hoặc buộc kín, có khách ghi rõ tên, địa chỉ
22
người gửi và người nhận trên thùng/hộp hàng hóa nhưng cng có khách chỉ ghi
số điện thoại của người nhận và địa điểm giao hàng để nhà xe liên hệ giao hàng.
Đến nay các lái xe và phụ xe đều không nhớ ngày 28/4/2020 và rạng sáng ngày
29/4/2020, có nhận thùng hàng carton nào bên trên có dán chữ “người nhận Hòa
Bình 0362.117.946”, không biết ai trả thùng hàng này và trả cho ai. Sổ sách theo
dõi nhận, trả hàng hoá cho khách kết thúc chuyến xe thì về giao cho Hoàng Bích
N2 kiểm tra sau đó N2 đưa lại cho phụ xe để hôm sau theo dõi, hết quyển thì
giao cho N2 sau đó N2 sử dụng như thế nào các lái xe, phụ xe không biết. Cơ
quan điều tra đã tiến hành cho đối chất giữa Lò Văn L2 với Đỗ Tiến D1 về các
nội dung mu thun trong lời khai, nhưng Đỗ Tiến D1 cng không thừa nhận
việc D1 thường xuyên quản lý, sử dụng số điện thoại 0978.601.980. Còn Lê
Đôn T9 và Trịnh Tuấn D3 hiện tại không còn làm việc cho nhà xe DN2 nữa,
Cơ quan điều tra đã triệu D3và T9 để đối chất với D1 nhưng D3 và T9 đều từ
chối đối chất vì cho rằng toàn bộ nội dung liên quan đến việc sử dụng số điện
thoại, quy trình tiếp nhận hàng hóa đều đã khai nhận với Cơ quan điều tra và
cam kết các nội dung khai báo là đúng sự thật.
Quá trình điều tra, Hoàng Bích N2 khai nhận không có mối quan hệ quen
biết gì với Nguyễn Ngọc T, Lê Thị M5, Nguyễn Thị T2, Nguyễn Thị Lan D2 và
Nguyễn Thái H2; ngoài kinh doanh vận tải, nhà xe D1 N2 còn kinh doanh dịch
vụ chuyển tiền, số tài khoản ngân hàng của N2 được dán trên xe ô tô khách để
khách hàng có thể chuyển tiền nên theo Cơ quan điều tra thông báo trong tài
khoản của N2 có một số lần Nguyễn Ngọc T chuyển tiền vào tài khoản là do khi
đó khách thuê nhà xe nhận tiền qua tài khoản; việc tiếp nhận hàng hóa của khách
gửi qua nhà xe D1 N2 có lập sổ sách giao cho các phụ xe theo dõi, ghi chép rồi
giao cho N2 quản lý. Khi sổ sách phụ xe ghi hết sổ giao cho N2 thì N2 đã đốt b
hết, không còn lưu giữ sổ sách gì, nên không xác định được ngày 28/4/2020 và
ngày 29/4/2020 nhà xe DN2 đã nhận, trả những loại hàng hoá gì, nhận hàng của
ai và giao cho ai, ở đâu; có nhận thùng hàng carton bên trong có cha 10 bánh
ma túy heroin hay không và cng không biết thùng hàng đó là của ai. Hai số
điện thoại 0978.601.980 và 0963.799.311 trước đây N2 đăng ký mang tên N2
nhưng số điện thoại 0978.601.980 để trên xe ô tô BKS 27B-001.46 cho lái xe và
phụ xe sử dụng liên lạc với khách; số điện thoại 0963.799.311 N2 dùng một thời
gian sau đó cách đây khoảng 02 năm N2 đã cho một phụ xe ô tô của nhà N2
dùng số điện thoại này nhưng không nhớ cho phụ xe nào.
23
Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Vĩnh Phúc đã xác minh lịch đăng kiểm của 02
xe ô tô BKS: 27B-001.46 và 27B-001.28 của nhà xe DN2 trong năm 2020 và
2021 để làm rõ nội dung Nguyễn Ngọc T khai ngày 29/4/2020 là ngày D1 có đi
theo xe ô tô khách đến Hà Nội đăng kiểm xe ô tô. Kết quả xác minh, xác định:
Ngày 29/4/2020 xe ô tô BKS: 27B-001.46 có đăng kiểm định k tại Trung Tâm
Đăng Kiểm Xe Cơ Giới thuộc Công ty Cổ Phần Đăng Kiểm Nam Hà Nội ở
huyện O, thành phố Hà Nội, người làm thủ tục đăng kiểm là Lê Đôn T9 - phụ
xe, ký xác nhận vào các loại giấy tờ hồ sơ đăng kiểm. Quá trình điều tra, anh T9
khai việc đăng kiểm xe nhà xe thường giao cho lái xe, phụ xe làm, do thời gian
đã lâu nên không thể nhớ được ngày 29/4/2020 D1 có đi đăng kiểm xe ô tô cùng
Thắng không.
Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Vĩnh Phúc đã tiến hành cho Nguyễn Ngọc T
nhận dạng qua ảnh Đỗ Tiến D1 và T đã nhận được ra Đỗ Tiến D1; Tiến hành đối
chất giữa T với D1, kết quả: T khai vào đêm 28/4/2020 T sử dụng số điện thoại
0359.759.692 lắp trong chiếc điện thoại nhãn hiệu Nokia liên hệ tới số điện
thoại 0978.601.980 của Đỗ Tiến D1. Đến rạng sáng ngày 29/4/2020, trước thời
điểm T nhận thùng catton đựng 10 bánh ma tuý Heroine ở cổng chào XM, Hoà
Bình, thì T thấy có số điện thoại 0327.669.421 gọi nhỡ đến điện thoại Nokia của
T, T gọi lại thì được biết đó là số điện thoại của D1, nên sau đó T đã gọi điện
thoại đến số 0327.669.421 thì thấy D1 nghe máy, T đã chỉ dn cho D1 vị trí T
đang đng chờ. Rạng sáng ngày 29/4/2020, tại khu vực cổng chào XM, Hòa
Bình D1 đi từ trên xe ô khách của D1 có biển kiểm soát 02 số cuối là “46”, D1
bê thùng carton từ trên xe ô tô đi xuống phía đuôi xe khách đưa cho T và bảo T
cho D1 gửi, D1 đi đăng kiểm xe rồi về lấy; khi D1 đưa cho T thùng carton thì
chỉ có T và D1 với nhau, không có ai khác và cách đầu xe của Phạm Văn H1
dừng đỗ khoảng 40-50m và khi đó H1 có nhìn thấy hay không thì T không biết.
T khai D1 có đến trang trại chăn nuôi của D2, H2 3-4 lần, trong đó có 01 lần D1
đi cùng một người bạn gái tên SuSu ở khu vực cầu V1, huyện V2, tỉnh Vĩnh
Phúc, còn những lần khác D1 đến một mình, không có lần nào có con gái nh đi
cùng và không có lần nào ăn cơm tại trang trại cùng T và những người khác. Tuy
nhiên, Đỗ Tiến D1 không thừa nhận các nội dung T khai báo, D1 khẳng định
không quen biết T, ngày 29/4/2020 D1 không đi theo xe ô tô khách BKS 27B-
001.46 của nhà D1 và không đi đăng kiểm xe ô tô; không giao cho T thùng carton
cha 10 bánh ma túy heroine tại cổng chào XM, Hòa Bình; không sử dụng số
điện thoại 0327.669.421 bao giờ.
24
Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Vĩnh Phúc đã tiến hành xác minh về người
phụ nữ có tên SuSu ở khu vực cầu V1, nhưng không có ai tên SuSu như T khai;
tiếp tục xác minh, triệu tập Nguyễn Bá H3 - chủ thuê bao số điện thoại
0327.669.421, nhưng Hạnh không có mặt tại gia đình và địa phương, không rõ
đi đâu, làm gì. Nguyễn Ngọc T cng khai nhận không có quan hệ, quen biết gì
với Nguyễn Bá H3; xác minh tại Tập đoàn viễn thông Quân đội (Viettel), xác
định từ trước đến nay Đỗ Tiến D1 không đăng ký số điện thoại 0327.669.421.
Ngày 22/02/2022, Nguyễn Ngọc T lại khai báo có một số nội dung khác
với quá trình điều tra trước đây, cụ thể: T khẳng định Phạm Văn H1 và Đỗ Tiến
D1 là người có quen biết nhau từ trước, D1 có người bạn gái tên là Nguyễn Thị
L4, sinh năm 2002 ở xã NM, huyện L1, tỉnh Vĩnh Phúc và L4 có người bạn tên
C3 cng biết về D1 và H1 vì D1 và H1 đã gặp, đi chơi với L4 và C3 nhiều lần.
Đêm 28 rạng sáng ngày 29/4/2020 khi H1 đưa T sang Hoà Bình, T có nói với
H1 đi sang Hoà Bình đón D1, lúc đầu H1 đưa T đến trước cổng một khu Resort
ở LS, tỉnh Hoà Bình đng đợi D1 khoảng 30 phút, thì H1 thấy lâu nên bảo T
điện cho D1 xem sắp đến chưa, T xem điện thoại thấy có số 0327.669.421 gọi
nhỡ đến số 0359.759.692 của T và T có sử dụng số điện thoại 0359.759.692 gọi
đến số 0327.669.421 thì thấy D1 nghe điện thoại, T hi D1 đã đi đến đâu rồi thì
D1 bảo T tìm chỗ nào sáng đng đợi D1 cho dễ nhìn thấy, T bảo H1 đi xe ô tô
quay lại hướng đi Hà Nội, đến một cổng chào rồi đi qua một đoạn khoảng chừng
200 mét thì dừng xe lại, T xuống đường đi vệ sinh và đng ở lề đường khoảng
10 - 15 phút thì H1 nói với T xe ô tô của D1 vừa đi qua, T gọi điện thoại cho D1
thì D1 bảo T đi theo xe ô tô khách của D1, T bảo H1 lái xe đuổi theo xe D1
khoảng 500m - 600 mét thì xe ô tô khách của D1 dừng lại, H1 lái xe đến sát đuôi
xe ô tô của D1 cách khoảng 10 - 15 mét thì dừng lại, T mở cửa xe đi xuống thì
D1 cng từ trên xe ô tô của D1 đi xuống, hai tay bê thùng carton đến sát cửa xe
ô tô của H1 đưa cho T và D1 nói đi đăng kiểm xe ô tô xong rồi lên sau, lúc này
khoảng 5 giờ 30 phút, trời sáng, nhìn rõ mặt người, H1 lúc đó không nói gì với
D1, nhưng T nghĩ H1 có nhìn thấy D1 đưa thùng carton cho T. Cơ quan điều tra
đã làm việc với H1 và D1 để làm rõ các nội dung liên quan đến lời khai của T
nhưng H1 và D1 đều khai là T khai không đúng sự thật; H1 khai không nhớ chi
tiết cụ thể được đêm 28/4 rạng sáng ngày 29/4/2020 H1 đã đưa T đi, dừng đỗ ở
những đoạn đường nào trên quốc lộ 6 thuộc tỉnh Hòa Bình và không có việc H1
lái xe đưa T đuổi theo xe ô tô khách nào và không nhìn thấy ai đưa cho T thùng
catton hay đồ vật gì; D1 và H1 đều giữ nguyên nội dung đã khai.
25
Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Vĩnh Phúc đã tiến hành xác minh về Nguyễn
Thị L4 và C3, xác định tại xã NM, huyện L1, tỉnh Vĩnh Phúc có Nguyễn Thị
Thu L4 - Sinh năm 2002 và Phan Thị Hồng C3 - Sinh năm 2002. Làm việc với
L4 và C3, Linh khai có quen biết Nguyễn Ngọc T, nhưng không có quan hệ,
quen biết với ai là Đỗ Tiến D1 và Phạm Văn H1. C3 thì khai là bạn của L4,
nhưng không có quan hệ, quen biết với T, D1, H1. Ngày 23/02/2022, Cơ quan
CSĐT đã tiến hành đối chất giữa T và H1, nhưng H1 khai không biết D1, L4,
C3 và không có việc H1 lái xe đưa T đuổi theo xe ô tô khách của D1, không
nhìn thấy D1 đưa thùng carton cho T vào rạng sáng ngày 29/4/2020.
Theo tài liệu thu giữ điện tín số điện thoại 0359759692 của Nguyễn Ngọc
T, xác định: Ngày 28/4/2020 vào lúc 20 giờ 25 phút số điện thoại 0359.759.692
của T gọi đến số 0978.601.980; lúc 21 giờ 24 phút số 0963.799.311 gọi đến số
0359.759.692 của T và lúc 23 giờ 20 phút số 0978.601.980 gọi đến số
0359759692, thời điểm đó cột sóng số điện thoại 0359.759.692 của T đều thể
hiện tại thôn HC, xã NS, huyện L4, tỉnh Vĩnh Phúc. Ngày 29/4/2020 từ 05 giờ
08 phút đến 05 giờ 32 phút, (là khoảng thời gian T khai nhận thùng catton đựng
10 bánh ma tuý heroine) có 04 cuộc gọi đi từ số 0359.759.692 của T đến số điện
thoại 0327.669.421, trong đó có 03 cuộc gọi từ 05 giờ 08 phút đến 05 giờ 29
phút cột sóng số điện thoại của T thể hiện tại vị trí thôn NL, xã HS, huyện L5,
tỉnh Hoà Bình, trùng với địa điểm mà Phạm Văn H1 đã xác định trong quá trình
điều tra, có 01 cuộc gọi lúc 05 giờ 32 phút cột sóng thể hiện tại số 76 tổ 5 khu
Chiến Thắng, thị trấn XM, huyện M6, thành phố Hà Nội cách vị trí thôn NL, xã
HS, huyện L5, tỉnh Hoà Bình khoảng 02km. Đến 05 giờ 55 phút có số điện thoại
0345.030.658 gọi đến số 0359.759.692 của T, thì cột sóng số điện thoại của T
thể hiện tại khu Công nghệ cao Hoà Lạc, huyện T11, thành phố Hà Nội, cách
ngã tư thị trấn XM, huyện M6, thành phố Hà Nội khoảng 12-14 km. Trong tài
liệu giám định k thuật số điện tử đối với chiếc điện thoại Nokia của T và rút list
số điện thoại 0359759692 của T không có cuộc gọi nhỡ nào từ số 0327.669.421
mà T khai là số của D1.
Xác minh tại Hợp tác xã vận tải hành khách hàng hoá và dịch vụ thành phố
ĐP, tỉnh Điện Biên về hành trình đi, dừng, đỗ của 02 xe ô tô khách BKS 27B-
001.28 và 27B-001.46 của nhà xe DN2 vào ngày 28/4/2020 và 29/4/2020 được
lưu trong hệ thống giám sát hành trình đối với các xe ô tô khách thuộc Hợp tác
xác quản lý, xác định sáng ngày 29/4/2020, cả hai xe ô tô trên không dừng đỗ tại
vị trí thôn NL, xã HS, huyện L5, tỉnh Hoà Bình và số 76 tổ 5 khu CTT, thị trấn
26
XM, huyện M6, thành phố Hà Nội như vị trí Phạm Văn H1 đã xác định và các vị
trí cột sóng số điện thoại 0359.759.692 của T đã thể hiện trong khoảng thời gian
từ 05 giờ 08 phút đến 05 giờ 32 phút ngày 29/4/2020.
Xác minh tại trạm thu phí đường bộ trên đường quốc lộ 6 thuộc tiểu khu 4,
thị trấn L5, huyện L5, tỉnh Hoà Bình cách vị trí cổng chào thôn NL, xã HS,
huyện L5, tỉnh Hoà Bình khoảng 05 km, xác định: Xe ô tô BKS 19C-113.48 của
Phạm Văn H1 có 01 lần đi qua trạm thu phí vào lúc 04 giờ 54
phút 39 giây ngày
29/4/2020 tại làn thu phí số 03 hướng đi từ thành phố Hoà Bình đi Hà Nội,
không thấy có hình ảnh đi qua trạm thu phí hướng từ Hà Nội đi thành phố Hoà
Bình; Xe ô tô BKS 27B-001.46 ngy 29/4/2020 đi qua trạm thu ph 02 ln,
gm: Ln 1 vo lúc 05 giờ 46 phút 25 giây hưng đi thnh phố Ho Bnh đi H
Nội tại ln thu ph số 03; Ln 2 vo lúc 21 giờ 17
phút 48 giây hưng H Nội đi
Ho Bnh; Xe ô tô BKS 27B-001.28 c 01 ln đi qua trạm thu ph vo lúc 21
giờ 08 phút 53 giây ngy 29/4/2020 tại ln thu ph số 01 hưng H Nội đi
thnh phố Ho Bnh. Xc minh tại trạm thu ph Ho Lạc, Ho Bnh (đường
t KCN Ho Lạc, T11, H Nội đi Ho Bnh) trong ngy 28 v 29/4/2020, cc
xe ô tô BKS 19C-113.48, BKS 27B-001.46 v BKS 27B-001.28 không đi qua
trạm thu ph.
Xác minh về khu Resort trên dọc đường quốc lộ 6 từ thị trấn XM lên thành
phố Hoà Bình theo lời khai của Nguyễn Ngọc T, xác định tại xóm Km, xã Lâm
Sơn, huyện L5, tỉnh Hoà Bình có 01 khu Resort IVORY, cách trạm thu phí
đường bộ trên đường quốc lộ 6 thuộc Tiểu khu 4, thị trấn L5, huyện L5, tỉnh
Hoà Bình khoảng 08 km và cách cổng chào thôn NL, xã HS, huyện L5, tỉnh Hoà
Bình khoảng 13 km. Khu IVORY Resort nằm phía bên phải dọc đường Quốc lộ
6 theo hướng đi từ thành phố Hoà Bình đi Hà Nội.
Quá trình điều tra, nhiều lần yêu cầu Nguyễn Ngọc T cung cấp mật khẩu
mở khoá màn hình chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Sam Sung bên trong có
lắp sim điện thoại số 0986365666 thu giữ của T ngày 29/4/2020 và các căn c
xác định Đỗ Tiến D1 là người đã giao cho T thùng carton cha 10 bánh ma túy
heroine sáng ngày 29/4/2020, nhưng bị can T vn khai báo không nhớ mật
khẩu mở khoá màn hình chiếc điện thoại di động đó và ngày 28, 29/4/2020 T
không sử dụng chiếc điện thoại đó để liên hệ với ai, ngoài các chng c T đã
cung cấp cho Cơ quan điều tra về đối tượng Đỗ Tiến D1 thì T không còn tài
liệu, chng c gì khác. Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Vĩnh Phúc đã trưng cầu
giám định k thuật số điện tử tại phòng K thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh
27
Phúc và Viện khoa học hình sự - Bộ Công an đối với chiếc điện thoại di động
trên của T, nhưng không mở được mật khẩu khoá màn hình, nên không thu
thập được bất k thông tin, tài liệu nào. Tuy nhiên, theo tài kiệu giám định k
thuật số điện tử đối với chiếc điện thoại di động nhãn hiệu IPhone và tài liệu
rút list số điện thoại 0866.058.062 lắp trong chiếc điện thoại trên của Phạm
Văn H1 do Cơ quan viễn thông cung cấp thì lúc 01h09 và 01h34 ngày
29/4/2020 trong lịch sử cuộc gọi vn thể hiện 02 cuộc gọi từ số điện thoại
0986.365.666 của T đến số điện thoại trên của H1 và H1 khai đây là các cuộc
gọi của T liên lạc nhờ H1 đi xe ô tô lên thị trấn L1 để đón T đưa đi Hoà Bình.
Do vậy cần tiếp tục tạm giữ chiếc điện thoại này của T để phục vụ điều tra, xử
lý sau.
Đối với Đỗ Tiến D1, quá trình điều tra không thành khẩn khai báo, lời khai
của D1 còn nhiều mâu thun với các tài liệu chng c Cơ quan điều tra đã thu
thập được. Căn c các tài liệu chng c thu thập được cùng kết luận giám định
đường vân và giám định âm thanh có căn c xác định Đỗ Tiến D1 và Nguyễn
Ngọc T có mối quan hệ quen biết với nhau; Đỗ Tiến D1 là người sử dụng số
điện thoại 0978.601.980 và chiều ngày 27/10/2021, D1 đã liên lạc điện thoại,
nói chuyện với bà Nguyễn Thị T2 mẹ đ T (cụ thể cuộc nói chuyện nêu trong
Kết luận giám định số 9189/C09-P6); trước khi Nguyễn Ngọc T nhận thùng
carton cha 10 bánh ma túy heroine bị phát hiện bắt quả tang ngày 29/4/2020,
Đỗ Tiến D1 là người đã có tác động vào thùng catton trên; ngày 04/5/2020 Đỗ
Tiến D1 có đưa cho chị Hoàng Thị Bích N3 200.000.000 đồng nhờ chuyển
khoản cho gia đình bà Nguyễn Thị T2, nhưng chưa làm rõ được mục đích
chuyển tiền của D1, do D1 không thừa nhận việc chuyển tiền và chưa có chng
c gì khác chng minh D1 chuyển 200.000.000 đồng cho bà T2 để lo cho T vì
D1 là người đưa thùng carton cha 10 bánh ma túy heroine cho T nên D1 có
trách nhiệm lo cho T và cng chưa có đủ căn c để chng minh khoảng 5 giờ 30
phút ngày 29/4/2020, tại cổng chào XM, thuộc huyện M6, thành phố Hà Nội, Đỗ
Tiến D1 trực tiếp đưa thùng carton cha 10 bánh ma túy heroine cho T để vận
chuyển đem về Vĩnh Phúc. Quá trình điều tra lời khai của Nguyễn Ngọc T về
thời gian, địa điểm nhận thùng carton cha ma túy; phương tiện và số điện thoại
của D1 sử dụng để liên lạc, giao ma túy cho T còn nhiều mâu thun, không phù
hợp với các tài liệu, chng c Cơ quan điều tra thu thập được. Ngoài lời khai
của T về việc D1 là người đưa thùng carton cha 10 bánh ma túy heroine cho T
thì T không cung cấp được tài liệu chng c gì khác chng minh D1 chính là
người giao thùng ma túy cho T; lời khai của các thành viên gia đình T về Đỗ
28
Tiến D1 còn nhiều mâu thun. Do vậy chưa đủ căn c xác định D1 đồng phạm
với T để điều tra, xử lý trong cùng vụ án này, Cơ quan điều tra s tiếp tục làm
rõ, xử lý sau.
Đối với 01 tờ tiền giấy ghi mệnh giá 100 USD, 01 chiếc ví giả da màu
nâu, 400.000 đồng, 01 giấy chng minh nhân dân và 02 giấy phép lái xe đều
mang tên Nguyễn Ngọc T thu giữ khi bắt quả tang, quá trình điều tra xác định là
tài sản và giấy tờ cá nhân của T không liên quan đến hành vi phạm tội.
Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu vàng trắng, có ốp bọc
lưng bằng nhựa, mặt trong ốp lưng có 01 th sim; 01 chiếc điện thoại di động
nhãn hiệu OPPO màu đ, đen có ốp lưng bằng nhựa màu trắng; 01 chiếc điện
thoại di động nhãn hiệu Nokia v màu đen; xe ô tô tải, BKS: 19C - 113.48; 01
xe máy nhãn hiệu Wave @, màu sơn trắng, đen, BKS: 88F1 - 502.93; 01 chiếc
ví giả da màu nâu, số tiền 5.550.000 đồng; 01 giấy chng minh nhân dân, 01
giấy phép lái xe đều mang tên Phạm Văn H1; 01 giấy đăng ký xe ô tô mang tên
Phạm Văn N1; 02 giấy chng nhận bảo hiểm tự nguyện mô tô, xe máy mang tên
Phạm Văn H1; 01 bản sao giấy đăng ký xe mô tô và 01 giấy biên nhận thế chấp
mang tên Phạm Văn H1 đều là những đồ vật, tài sản, giấy tờ thuộc sở hữu hợp
pháp của Phạm Văn H1, không liên quan đến việc vận chuyển trái phép chất ma
tuý của Nguyễn Ngọc T. Ngày 12/11/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an
tỉnh Vĩnh Phúc đã ra Quyết định xử lý đồ vật, tài liệu và đã trả lại toàn bộ những
đồ vật, tài sản, giấy tờ trên cho Phạm Văn H1, H1 đã nhận lại tài sản cùng giấy
tờ cá nhân và không có đề nghị gì.
Đối với chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Sam sung màu đen (đã c, đã
qua sử dụng) do chị Nguyễn Thị Lan P1 giao nộp ngày 01/11/2021 cho Hội
đồng xét xử Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc, quá trình điều tra xác định là tài
sản hợp pháp của bà Nguyễn Thị T2, không liên quan đến hành vi phạm tội của
Nguyễn Ngọc T.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số 58/2022/HS-ST ngày 26 tháng 9 năm 2022
của Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc đã quyết định: Tuyên bố bị cáo Nguyễn
Ngọc T phạm tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”.
Căn c điểm b khoản 4 Điều 250; Điều 40; điểm h khoản 1 Điều 52;
khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 xử phạt: Nguyễn Ngọc T tử hình.
Tiếp tục tạm giam bị cáo Nguyễn Ngọc T để đảm bảo thi hành án.
29
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về hình phạt bổ sung, xử
lý vật chng, án phí và thông báo quyền kháng cáo theo quy định.
Ngày 01/8 /2022, bị cáo Nguyễn Ngọc T có đơn kháng cáo đề nghị hủy
án sơ thẩm.
Tại phiên toà:
- Bị cáo Nguyễn Ngọc T trình bày: Có quen biết Đỗ Tiến D1 sinh năm
1979 ở tổ 5, phường T5, thành phố ĐP, tối ngày 28/04/2020 D1 dùng số điện
thoại 0978601980 gọi và bảo bị cáo và H1 sang cổng chào tỉnh Hòa Bình đón
D1 về tỉnh Vĩnh Phúc chơi dịp lễ 30/04, sau đó bị cáo và H1 sang Hòa Bình gặp
được D1 nhưng D1 thay đổi ý định không đi về Vĩnh Phúc chơi, mà đi đăng
kiểm xe ô tô tại Hà Nội, và có gửi bị cáo và H1 một thùng carton được dán kín,
hẹn đăng kiểm xe ô tô xong s quay lên lấy lại sau và đi chơi. Bị cáo và H1 quay
về đến cầu V2 thì có cảnh sát giao thông đang kiểm tra xe ô tô. Bị cáo bảo H1
dừng xe để hi anh D1 về thùng carton trên thì cảnh sát giao thông cùng tổ trinh
sát tới kiểm tra xe ô tô của H1, trước khi kiểm tra bị cáo có xin tổ trinh sát được
gọi anh D1 lên để cùng mở thùng carton trên nhưng không được sự đồng ý của
điều tra viên Phạm Văn H1, khi kiểm tra thấy bên trong có 10 bánh chữ nhật,
nghi là ma túy và bị cáo được cán bộ trong tổ trinh sát đề nghị giải thích thùng
carton đang di chuyển trên đường là vận chuyển đi đâu? của ai? cho ai? tiền
công bao nhiêu? và những câu hi tương tự, lúc đó bị cáo không biết giải thích
thế nào vì anh D1 là người nhận mẹ bị cáo là mẹ, bị cáo coi như anh trai ruột, và
anh D1 có tiền, có quan hệ hiểu biết nên bị cáo đã ôm thùng carton đó vào bản
thân, trả lời bừa những câu hi của tổ trinh sát nên bị cơ quan công an khởi tố về
tội vận chuyển trái phép chất ma túy. Đến ngày 27/10/2021 và ngày 01/11/2021
tại phiên tòa xét xử sơ thẩm, bị cáo đã khai ra sự thật thùng carton đó là của anh
D1, chỉ ra dấu vết đường vân số 04 khi giám định là của anh D1 và mẹ bị cáo đã
ghi âm được các cuộc gọi nói chuyện giữa mẹ bị cáo và D1, D1 sử dụng số điện
thoại 097.860.1980 gọi mẹ bị cáo. Mẹ bị cáo đã chuyển thành vi bằng nộp cho
Tòa án, Tòa án đã trả lại hồ sơ điều tra bổ sung, cơ quan cảnh sát điều tra đã
giám định được dấu vết trên đường vân ở trên thùng carton là của anh D1, cuộc
gọi ghi âm sự quản lý và sử dụng số điện thoại 097.860.1980, tin nhắn anh D1
nhắn tin qua Zalo cho em gái bị cáo và anh D1 chuyển cho nhà bị cáo là 200
triệu đồng sau khi bị cáo bắt, bị cáo cùng nhiều người đều nhận dạng qua ảnh
con người thật của D1.
30
Phạm Văn H1 là người đi cùng bị cáo có liên quan đến vụ án, lời khai
của H1 có sự mâu thun, không khách quan, che giấu sự thật.
Tuy có rất nhiều nhân chng có nghe kể về việc nhìn thấy D1 gửi thùng
carton nhưng cơ quan điều tra chưa làm rõ đến cùng. Nhiều chi tiết trong vụ án
chưa được làm rõ, chưa làm rõ được mục đích D1 gửi thùng carton cha ma túy
cho bị cáo để làm gì, tại sao gửi cho nhà bị cáo 200 triệu đồng, Hội đồng xét xử
cấp sơ thẩm chưa công bằng khách quan, không triệu tập đầy đủ người liên quan
đến vụ án.
Vì chủ quan nên bị cáo đã vận chuyển ma túy và không đáng phải nhận
bản án tử hình. Bị cáo khai thêm (tại phiên tòa phúc thẩm) nguồn gốc ma túy là
của Hờ A C4, sinh năm 1995 ở tỉnh Điện Biên.
Đề nghị Hội đồng xét xử hủy toàn bộ bản án sơ thẩm để điều tra xét xử
lại đúng người, đúng tội, không để lọt người có tội là D1.
- Người có quyền lợi nghĩa vụ và liên quan bà Nguyễn Thị T2 cho rằng: Các
cơ quan tiến hành điều tra đã không xác minh làm rõ những nội dung có liên
quan đến vụ án, b lọt tội phạm, không khởi tố truy cu trách nhiệm hình sự đối
với D1 là chủ hàng ma túy, là chủ mưu trong vụ. Một số tình tiết chưa được làm
rõ, có nhiều mâu thun trong lời khai của T, H1 và D1. Trong vụ án này bị cáo T
chỉ là do nhẹ dạ, thiếu hiểu biết nghe lời k xấu dụ dỗ lôi kéo. Tuy nhiên quá trình
giải quyết vụ án có rất nhiều tình tiết khuất tất chưa được làm rõ, và các cơ quan
tiến hành tố tụng còn cố tình b qua nhiều tình tiết quan trọng.
- Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát: Mặc dù quá trình điều tra, truy
tố, xét xử bị cáo T không nhận ma túy là của mình, tại phiên tòa phúc thẩm, bị
cáo cho rằng bị cáo vận chuyển 10 bánh có khối lượng 3,514 kg Heroin và bị cơ
quan điều tra bắt quả tang và Tòa án cấp sơ thẩm tuyên bị cáo phạm tội Vận
chuyển trái phép chất ma túy là không oan. Tuy nhiên, qua các tài liệu, chng c
có trong hồ sơ vụ án, một số tài liệu mới do luật sư và đương sự khác cung cấp,
kết quả phần hi cho thấy việc thu thập, đánh giá chng c còn chưa đầy đủ,
phiến diện và có dấu hiệu b lọt tội phạm.
Cơ quan điều tra chưa điều tra làm rõ lý do tại sao trên thùng hàng không
ghi gửi cho bị cáo T mà nhà xe D1 N2 lại chuyển cho bị cáo T? Đồng thời, trên
thùng hàng có ghi dòng chữ “Người nhận Hòa Bình 0362117946” nhưng cơ
quan điều tra chưa trưng cầu giám định ai là người viết dòng chữ trên như đề
nghị của bị cáo là điều tra chưa đầy đủ.
31
Các cơ quan tiến hành tố tụng cấp sơ thẩm đều nhận định chưa chng minh
được mục đích chuyển tiền của D1. Tuy nhiên, tại kết luận giám định số 9154
ngày 20/12/2021 của Viện khoa học hình sự Bộ công an đã kết luận ngày
27/11/2021 bà T2 và D1 có nói chuyện điện thoại với nhau...nên có căn c xác
định bà T2 nói với D1 là D1 đưa ma túy cho T nên T bị bắt và yêu cầu chuyển
tiền để lo cho D1.
- Về lịch trình di chuyển của 03 xe ô tô BKS 19C-11348; BKS 27B-00146
và BKS 27B-00128. Tại kết luận điều tra, cáo trạng xác định: Ngày 29/4/2020,
xe BKS 19C 113 48 có 01 lần đi qua trạm thu phí L5 vào lúc 4h54’39”; Xe BKS
27B-00146 đi qua Trạm thu phí L5 - Hòa Bình 02 lần; xe ô tô BKS 27B-00128
đi qua trạm thu phí L5 - Hòa Bình 01 lần vào lúc 21h08’53”, hướng đi Hà Nội -
Hòa Bình. Tuy nhiên, vi bằng số 2715 ngày 23/5/2022 cho thấy ngày 29/4/2020,
xe ô tô BKS 27B-00128 đi qua trạm thu phí 02 lần: lần 1 lúc 5H14’27” chiều
Hòa Bình - Hà Nội; lần 2 lúc 21h17 chiều Hà Nội - Hòa Bình nhưng Tòa án cấp
sơ thẩm không trả hồ sơ điều tra bổ sung, chưa thu thập tài liệu chng c về sự
liên quan của lái xe, phụ xe BKS 27B-00128 là Ngô Văn C2, Hoàng Trung T10
để giải quyết khách quan, toàn diện vụ án.
- Tại phiên tòa sơ thẩm ngày 20/7/2022, bị cáo T khai trước khi bị bắt, bị
cáo T mở thùng carton thấy các bánh hình chữ nhật nghi là ma túy. Bị cáo T bảo
vt đi nhưng H1 bảo gọi cho D1 đồng thời đưa cho bị cáo T 01 túi vải màu hồng
và bảo bị cáo T đút các bánh hình chữ nhật vào đó rồi cho lại vào thùng carton.
H1 đưa cuộn băng dính để T dán thùng carton lại như c thì bị công an bắt.
Tuy cơ quan điều tra đã trưng cầu giám định đối với 01 bao xác rắn màu
hồng, 01 túi vải màu hồng có in hàng chữ Bistishunter và tại kết luận giám định
số 162 ngày 14/01/2021 của Phòng k thuật hình sự công an tỉnh Vĩnh phúc kết
luận “Trên mu vật gửi giám định không phát hiện dấu vết đường vân đủ yếu tố
giám định. Không tiến hành giám định so sánh do không có dấu vết đường vân
đủ yếu tố giám định” nhưng lời khai của bị cáo T là tình tiết mới và thuộc
trường hợp nghi ngờ về kết quả giám định theo quy định tại Điều 211 Bộ luật tố
tụng hình sự nên cần phải trưng cầu cơ quan giám định cao hơn để thực hiện.
nhưng Tòa án cấp sơ thẩm không trả hồ sơ điều tra bổ sung là không thực hiện
đúng quy định tại điểm c khoản 6 Điều 326 của Bộ luật tố tụng hình sự.
Từ những phân tích nêu trên thấy các cơ quan tiến hành tố tụng cấp sơ
thẩm còn có vi phạm thủ tục tố tụng và thu thập đánh giá chng c nên có dấu
hiệu b lọt tội phạm.
32
Tại phiên tòa hôm nay, Bị cáo T còn khai nguồn gốc ma túy là của Hờ A
C4, sinh năm 1995 ở tỉnh Điện Biên, bị cáo có nhận dạng được C4. Đây là tình
tiết mới trong vụ án. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, đánh giá theo quy định
của pháp luật.
Đề nghị Hội đồng xét xử Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội: Căn c điểm
c, khoản 1 Điều 355; khoản 1 Điều 358 Bộ luật tố tụng hình sự, tuyên Hủy bản
án hình sự sơ thẩm số 58 ngày 20/7/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc
để điều tra, xét xử lại.
- Luật sư Nguyễn Trung T3 đề nghị Hội đồng xét xử xem xét: Trong quá
trình điều tra bà T2 giao nộp file ghi âm cuộc nói chuyện giữa D1 và bà T2 về
việc gia đình D1 chuyển tiền cho T; dấu vân tay của D1 trên thùng carton; việc
chị D2, anh H2, bà T2, cháu Hồ A2 nhận dạng được anh D1 qua ảnh phù hợp
với lời khai của bị cáo T về việc anh D1 thường xuyên về trang trại của gia đình
T chơi, ăn cơm chng t D1 có mối quan hệ thân thiết với T và gia đình T,
không phải là không quen biết như lời D1 khai. Lời khai của những lái xe, phụ
xe của nhà xe D1 N2 thể hiện D1 là người sử dụng số điện thoại 09780611980
phù hợp với chng c file ghi âm bà T2 nộp thể hiện cuộc nói chuyện từ số điện
thoại của bà T2 với số điện thoại 09780611980 và phù hợp với sự việc tối ngày
28/4/2020, D1 dùng số điện thoại 09780611980 liên hệ với T; ngoài ra lời khai
của anh H1 có sự mâu thun với nhau, mâu thun với lời khai của T, những
người nhà của T và những người làm chng khác về việc nhìn thấy người đàn
ông đưa thùng carton cho T rạng sáng ngày 29/4/2020, vì vậy anh H1 là một
nhân chng quan trọng trong vụ án này, anh H1 ngoài mối quan hệ anh em bạn
bè với T thì còn có quan hệ quen biết với D1, lời khai của H1 cùng lời khai của
các nhân chng khác cùng với vi bằng của chị D2 cung cấp, xác minh tại trạm
thu phí có đủ căn c để khẳng định D1 là người đưa thùng carton cho T trong có
10 bánh heroin vào rạng sáng ngày 29/4/2020. Bị cáo T cung cấp thông tin cho
các cơ quan tiến hành tố tụng tỉnh Sơn La về các đối tượng trong vụ án Lò Thị
N4 cùng đồng phạm mua bán trái phép chất ma túy, ngoài ra T có ông nội là
Nguyễn Văn C5 là người có công với cách mạng được Nhà nước tặng thưởng
Huân chương kháng chiến hạng ba nên đề nghị áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo
quy định tại điểm s, t khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Trong vụ án này có dấu
hiệu đồng phạm với T về việc vận chuyển trái phép chất ma túy nhưng chưa
được làm rõ, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 280 Bộ luật
33
tố tụng hình sự trả hồ sơ điều tra bổ sung, giám định ADN và dấu vân tay của
anh Phạm Văn H1 có trong túi xác rắn và chiếc túi Bitishunter.
Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét khách quan, không để b lọt tội
phạm và trả hồ sơ điều tra bổ sung cho giám định gen của Phạm Văn H1.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn c vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã
được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an tỉnh
Vĩnh Phúc, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc, Kiểm sát viên
trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ
tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự.
[2] Về việc trước khi khai mạc phiên tòa bà Nguyễn Thị T2 có đơn xin
hoãn phiên tòa với lý do tình trạng sc khe không tốt. Tuy nhiên đây là phiên
tòa được triệu tập lần th hai, hơn nữa trong hồ sơ cng có nhiều lời khai của bà
T2 do đó Hội đồng xét xử vn tiến hành xét xử. Trong quá trình xét xử thì bà T2
đã có mặt và trả lời những câu hi của Hội đồng xét xử theo đúng quy định của
pháp luật.
[3] Về nội dung: Tại phiên tòa hôm nay bị cáo khai nhận số ma túy trên là
của Đỗ Tiến D1 gửi cho bị cáo, ngay từ ban đầu bị cáo không biết là gì, sau khi
đi đến gần cầu V2 thì bị cáo mở ra mới biết là ma túy và anh H1 là người cng
biết số ma túy trên nên anh H1 phải chịu trách nhiệm về hình sự cùng bị cáo.
Tuy nhiên căn c vào Biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của bị cáo
trong quá trình điều tra, căn c vào các tài liệu chng c đã được thu thập có
trong hồ sơ và kết quả tranh tụng thẩm tra chng c tại phiên toà, nên có đủ căn
c để chng minh và kết luận:
Khoảng 6 giờ 30 phút ngày 29/4/2020, tại Km 4 + 873, đường quốc lộ X
(đầu cầu V1) thuộc thôn BT, xã Đ1, huyện V2, tỉnh Vĩnh Phúc, Tổ công tác của
Phòng cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Vĩnh Phúc phối hợp với
Phòng cảnh sát giao thông Công an tỉnh Vĩnh Phúc đang làm nhiệm vụ thì nhận
được tin báo của quần chúng nhân dân về việc xe ô tô tải BKS: 19C - 113.48 đi từ
hướng cầu V2 vào địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc đang vận chuyển trái phép chất ma túy.
Tổ công tác đã tiến hành kiểm tra xe ô tô tải nhãn hiệu Hyundai, màu sơn trắng
BKS: 19C - 113.48 do anh Phạm Văn H1 điều khiển đi trên quốc lộ X, phát hiện,
bắt quả tang, thu giữ của Nguyễn Ngọc T 01 thùng giấy carton có kích thước (34
x 23,5 x 22) cm, bên trong có 10 bánh chất bột màu trắng, có kích thước đều bằng
nhau (16 x10 x 2,5) cm, qua giám định 10 bánh chất bột màu trắng là chất ma
34
túy, loại Heroine, có tổng khối lượng là 3,514 kg (Ba phy năm mười bn
kilogam).
[4] Xét kháng cáo của bị cáo: Xét tính chất vụ án là đặc biệt nghiêm trọng,
hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Ngọc T là nguy hiểm cho xã hội, số lượng
ma túy là loại Heroine, có tổng khối lượng là 3,514 kg.
Khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm cng đã xem xét về
tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo cụ thể như sau:
Về tình tiết tặng nặng trách nhiệm hình sự: Tại Bản án số 29/2012/HSST
ngày 09/3/2012 của Tòa án nhân dân thành phố V đã xử phạt Nguyễn Ngọc T 08
năm 06 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” chưa được xóa án tích
nay bị cáo lại tiếp tục phạm tội nên lần phạm tội này bị áp dụng tình tiết tăng nặng
trách nhiệm hình sự là “Tái phạm nguy hiểm” theo điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ
luật hình sự.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra, bị cáo đã
cung cấp cho Cơ quan điều tra Công an tỉnh Sơn La về thông tin của hai đối
tượng là Nguyễn Văn L5 và Lương Thị N5 là người mua ma túy trong vụ án Lò
Thị N4 cùng đồng phạm phạm tội mua bán trái phép chất ma túy, do Cơ quan
Công an tỉnh Sơn La khởi tố để có căn c kết thúc điều tra vụ án Lò Thị N4 và
được Cơ quan Công an tỉnh Sơn La có Công văn đề nghị áp dụng tình tiết giảm
nhẹ cho bị cáo, gia đình bị cáo có ông nội có công với cách mạng được tặng
Huân chương kháng chiến nên xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo theo
khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không thành khẩn khai báo. Về
việc bị cáo khai biết Nguyễn Văn L5 và Lương Thị N5 lẩn trốn để cơ quan điều
tra công an tỉnh Lạng Sơn kết thúc điều tra vụ án ch không phải là phát hiện tội
phạm nên không có căn c để áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo điểm s,t khoản 1
Điều 51 của Bộ luật hình sự.
Xét tính chất mc độ hành vi phạm tội, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự, nhân thân và số lượng vận chuyển ma túy của bị cáo là đặc biệt
nghiêm trọng do vậy Tòa án cấp sơ thẩm căn c điểm b khoản 4 Điều 250; Điều
40; điểm h khoản 1 Điều 52; khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 xử
phạt: Nguyễn Ngọc T tử hình về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” là có
căn c đúng với tính chất hành vi phạm tội của bị cáo.
[5] Về việc bị cáo cho rằng còn b lọt Nguyễn Văn D1 (Đỗ Văn D1, Đỗ
Tiến D1), Hội đồng xét xử thấy như sau:
Tại phiên tòa ngày 27/10/2021 và ngày 01/11/2021, bị cáo Nguyễn Ngọc T
khai số ma túy trên là của Nguyễn Văn D1 ở thành phố ĐP. Luật sư bào chữa
35
cho bị cáo cung cấp cho Hội đồng xét xử bản vi bằng lập tại Văn phòng thừa
phát lại B và 01 USB, theo luật sư đó là cuộc nói chuyện điện thoại giữa bà
Nguyễn Thị T2 (SĐT 0339.393.592) mẹ bị cáo cung cấp với số điện thoại
0978.061.980 của Đỗ Văn D1, sinh năm 1979 trú tại: Tổ 5 phường T5, thành
phố ĐP, tỉnh Điện Biên. Hội đồng xét xử sơ thẩm thấy có dấu hiệu vụ án có
đồng phạm khác nên đã quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Cơ quan điều
tra đã tiến hành xác minh tại phường T5, thành phố ĐP xác định tại tổ 5 cng
như cả phường T5, thành phố ĐP không có ai là Đỗ Văn D1 - sinh năm 1979,
chỉ có người tên Đỗ Tiến D1 - sinh ngày 08/6/1979, hộ khẩu thường trú: Bản
Thành Công, xã S4, thành phố LC, tỉnh Lai Châu, có vợ tên là Hoàng Bích N2 -
sinh năm 1980, hiện hai vợ chồng đang ở số nhà 18, tổ 5, phường T5, thành phố
ĐP, là chủ doanh nghiệp vận tải DN2. Quá trình điều tra Đỗ Tiến D1 cng
không thừa nhận và có lời khai mâu thun với lời khai của T; luật sư đề nghị Hội
đồng xem xét căn c vào các tài liệu như các file ghi âm giữa D1 và bà T2 về
việc gia đình D1 chuyển tiền cho T; dấu vân tay của D1 trên thùng carton; biên
bản nhận dạng, lời khai của anh H2, vi bằng của chị D2 cung cấp; xác minh tại
trạm thu phí để xác định D1 đưa ma túy cho T. Tuy nhiên tại cơ quan điều tra T
khai nhận vận chuyển cho người nam giới tên S1 từ tỉnh Hoà Bình đem đến
huyện M1, thành phố Hà Nội để hưởng tiền công, sau đó tại phiên tòa ngày
27/10 và 01/11/2021 bị cáo khai số hàng trên là của Nguyễn Văn D1.
Ngày 01/11/2021 Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh phúc đã có quyết định trả hồ
sơ số 06/2021/HSST-QĐ để điều tra những nội dung mà bị cáo và bà T2 đã khai
báo tại phiên tòa.
Tại bản kết luận điều tra bổ sung số 20/BKL–CSMT ngày 04/3/2022 cơ
quan cành sát điều tra – Côn an tỉnh Vinh Phúc Kết luận:...có căn c xác định
Đỗ Tiến D1 và Nguyễn Ngọc T có mối quan hệ quen biết với nhau; D1 là người
sử dụng số điện thoại 0978.601.980 và chiều ngày 27/10/2021, D1 đã liên lạc
điện thoại, nói chuyện với bà Nguyễn Thị T2 mẹ đ T, D1 là người đã có tác
động vào thùng carton; ngày 04/5/2020 D1 có đưa cho chị Hoàng Thị Bích N3
200.000.000 đồng nhờ chuyển khoản cho gia đình bà Nguyễn Thị T2, nhưng
chưa làm rõ được mục đích chuyển tiền của D1, do D1 không thừa nhận việc
chuyển tiền và chưa có chng c gì khác chng minh D1 chuyển 200.000.000
đồng cho bà T2 để lo cho T vì D1 là người đưa thùng carton cha 10 bánh ma
túy heroine cho T nên D1 có trách nhiệm lo cho T và cng chưa có đủ căn c để
chng minh khoảng 5 giờ 30 phút ngày 29/4/2020, tại cổng chào XM, thuộc
huyện M6, thành phố Hà Nội, Đỗ Tiến D1 trực tiếp đưa thùng carton cha 10
bánh ma túy heroine cho T để vận chuyển đem về Vĩnh Phúc. Quá trình điều tra
lời khai của Nguyễn Ngọc T về thời gian, địa điểm nhận thùng carton cha ma
túy; phương tiện và số điện thoại của D1 sử dụng để liên lạc, giao ma túy cho T
36
còn nhiều mâu thun, không phù hợp với các tài liệu, chng c Cơ quan điều tra
thu thập được.
Ngoài lời khai của T về việc D1 là người đưa thùng carton cha 10 bánh
ma túy heroine cho T thì T không cung cấp được tài liệu chng c gì khác
chng minh D1 chính là người giao thùng ma túy cho T; lời khai của các thành
viên gia đình T về Đỗ Tiến D1 còn nhiều mâu thun.
Tại phiên tòa sơ thẩm cng như tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, bị cáo
khai không thống nhất lúc thì cho rằng khi D1 gửi hàng không kiểm tra nên
không biết là hàng gì, lúc thì lại khai là khi đi đến gần cầu V2 thì bị cáo mở
thùng hàng ra mới biết là ma túy. Cơ quan điều tra chưa chng minh được D1
giao ma túy cho T. Do chưa đủ căn c xác định D1 đồng phạm với T nên Hội
đồng xét xử kiến nghị Cơ quan điều tra tiếp tục điều tra làm rõ xử lý Đỗ Tiến D1
và xác minh làm rõ lịch trình di chuyển của xe ô tô BKS 27B-00128 ngày
29/4/2020, đi qua trạm thu phí mấy lần cả chiều đi và chiều về có ý nghĩa và giá
trị chng minh vai trò phạm tội của Đỗ Tiến D1 hay không.
Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo T còn khai nguồn gốc ma túy là của Hờ A
C4, sinh năm 1995 ở tỉnh Điện Biên, bị cáo có nhận dạng được Câu. Đây là lời
khai mới của bị cáo tại phiên tòa. Tuy nhiên căn c vào các tài liệu, lời khai của
bị cáo tại cơ quan điều tra bị cáo cng không khai báo về vấn đề đối tượng này
do đó không có căn c để xem xét.
Đối với Phạm Văn H1, quá trình điều tra H1 khai nhận là có mối quan hệ
quen biết với T, tối ngày 28/4/2020, T gọi điện thoại nhờ H1 đêm cùng ngày đến
thị trấn L1 đón T rồi đi tỉnh Hòa Bình để đón bạn, khi đi T không bàn bạc, tha
thuận hay nói cho H1 biết việc T đến tỉnh Hòa Bình để vận chuyển trái phép
chất ma túy và cng không cho H khoản tiền gì. Nguồn gốc 10 bánh ma túy ai
đưa cho T và đưa khi nào thì H không nhìn thấy. Tối ngày 29/4/2020, H1 có đến
trang trại của vợ chồng chị D2 nói chuyện với gia đình T về việc sáng cùng ngày
T bị bắt về hành vi vận chuyển trái phép chất ma túy, H1 không nói với gia đình
T là H1 nhìn thấy Đỗ Tiến D1 đưa thùng carton bên trong có cha 10 bánh ma
túy heroine và cng không có mối quan hệ quen biết với Đỗ Tiến D1, chưa gặp
D1 bao giờ và cng không ăn cơm cùng D1 lần nào. Việc các thành viên gia
đình T nói H1 có biết D1, có đi ăn cơm cùng D1 một số lần, trong đó có T, vợ
chồng D2 H1 và cháu A2 là không đúng. Qua kiểm tra các tin nhắn, cuộc gọi đi
đến theo kết luận giám định và rút list điện thoại của H1 thì không phát hiện có
dữ liệu gì về việc H có bàn bạc với T để vận chuyển trái phép chất ma túy. Ngày
22/02/2022, Cơ quan điều tra đã tiến hành đối chất giữa bà T2, chị D2, anh H2,
cháu A2 với Phạm Văn H1, nhưng các bên đều giữ nguyên lời khai trong quá
trình điều tra và đều cam đoan nội dung khai báo là đúng; cùng ngày Cơ quan
37
điều tra đã cho H1 nhận dạng và đối chất với Đỗ Tiến D1 nhưng H1 và D1 đều
khai nhận không có quan hệ quen biết nhau, chưa gặp nhau bao giờ.
Quá trình điều tra, truy tố trước đây Nguyễn Ngọc T cng khai nhận là H1
không có liên quan gì đến việc T vận chuyển trái pháp chất ma túy. Tại phiên
tòa hôm nay bị cáo T cho rằng H1có biết số ma túy trên nên H1 phải chịu trách
nhiệm hình sự cùng bị cáo, luật sư bào chữa cho bị cáo và bị cáo đều đề nghị
Hội đồng xét xử trả hồ sơ điều tra bổ sung và giám định ADN của anh Phạm
Văn H1 trong mu vật là 01 túi vải màu hồng có in hàng chữ “Bitishunter”.
Xét đề nghị của Luật sư và bị cáo; Hội đồng xét xử nhận thấy trong quá
trình điều tra ngày 07/01/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Vĩnh
Phúc ra quyết định trưng cầu Phòng K thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Phúc
giám định dấu vết đường vân đối với 01 áo mưa màu ghi xám, 01 bao xác rắn
màu hồng, 01 túi vải màu hồng có in hàng chữ “Bitishunter”, 01 túi nilon màu
đen và 02 túi nilon sáng màu để trong thùng giấy carton (mu vật được niêm
phong ký hiệu A2). Tại Bản kết luận giám định số 162/KLGĐ ngày 14/01/2021
của Phòng k thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Phúc, kết luận: “Trên mu vật gửi
giám định không phát hiện dấu vết đường vân đủ yếu tố giám định. Không tiến
hành giám định so sánh do không có dấu vết đường vân đủ yếu tố giám định”
(BL: 97-101). Do vậy, Cơ quan điều tra xác định H1 không đồng phạm với T,
Hội đồng xét xử không có căn c để trả hồ sơ điều tra bổ sung nên yêu cầu của
Luật sư và bị cáo không được Hội đồng xét xử chấp nhận.
Từ những phân tích trên Hội đồng xét xử không chấp nhận toàn bộ nội
dung kháng cáo của bị cáo Nguyễn Ngọc T và đề nghị của đại diện Viện kiểm
sát tại phiên tòa. Giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm.
[8] Về án phí do kháng cáo của bị cáo không được chấp nhận nên phải
chịu theo quy định của pháp luật.
Vì các l trên, căn c vào Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự,
QUYẾT ĐỊNH
1. Bác kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên quyết định tại bản án hình sự sơ
thẩm số 58/2022/HS-ST ngày 26 tháng 9 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh
Vĩnh Phúc.
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Ngọc T phạm tội “Vận chuyển trái phép chất ma
túy”.
Căn c điểm b khoản 4 Điều 250; Điều 40; điểm h khoản 1 Điều 52;
khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.
Xử phạt: Nguyễn Ngọc T tử hình. Tiếp tục tạm giam bị cáo Nguyễn Ngọc
T để đảm bảo thi hành án.
38
Căn c khoản 5 Điều 250 bộ luật hình sự phạt bị cáo Nguyễn Ngọc T
20.000.000đ (Hai mươi triệu đồng) để sung qu Nhà nước.
2. Về xử lý vật chng: Căn c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106
Bộ luật Tố tụng hình sự.
- Tịch thu tiêu hủy 3,512 kg ma túy, loại heroine cùng toàn bộ bao gói
được niêm phong trong cùng một bao gói giấy “Mu trả”; 01 thùng carton kích
thước (34x23,5x22) cm, một mặt của thùng dán tờ giấy ô li kích thước (23,5x16)
cm, trên tờ giấy ghi chữ “Người nhận Hòa Bình 0362117946” hoàn lại sau giám
định; 01 chiếc áo mưa màu ghi xám, 01 bao xác rắn màu hồng, 01 túi vải màu
hồng có in hàng chữ “Bitishunter”, 01 túi nilon màu đen và 02 túi nilon sáng màu.
- Tịch thu 01 điện thoại Nokia màu đen đã c của Nguyễn Ngọc T để bán
sung qu Nhà nước.
- Trả lại cho Nguyễn Ngọc T các tài sản, đồ vật gồm: 01 chiếc điện thoại
di động nhãn hiệu Sam sung v màu xanh đen đã qua sử dụng trong ốp lưng
điện thoại có 100 USD; 01 chiếc ví giả da màu nâu, 400.000 đồng; 01 chng
minh nhân dân và 02 giấy phép lái xe đều mang tên Nguyễn Ngọc T, nhưng tiếp
tục tạm giữ chiếc điện thoại Sam sung để phục vụ điều tra, tạm giữ 100 USD và
số tiền 400.000 đồng để đảm bảo thi hành án.
- Tiếp tục thực hiện Lệnh phong ta tài khoản số 01 ngày 05/4/2021 của
Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Vĩnh Phúc đối với 22.167.908 đồng trong tài
khoản 2807205127338 mang tên Nguyễn Ngọc T mở tại Ngân hàng nông
nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam – Chi nhánh huyện TD để đảm bảo thi
hành án. (Theo biên bản bàn giao vật chng ngày 28 tháng 6 năm 2021 giữa Công
an tỉnh Vĩnh Phúc với Cục Thi hành án dân sự tỉnh Vĩnh Phúc).
- Trả lại cho bà Nguyễn Thị T2 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Sam sung
màu đen đã c (Theo biên bản bàn giao vật chng ngày 04 tháng 4 năm 2022 giữa
Công an tỉnh Vĩnh Phúc với Cục Thi hành án dân sự tỉnh Vĩnh Phúc).
- Xác nhận Cơ quan điều tra đã thu giữ và trả lại cho Phạm Văn H1 gồm:
01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu vàng trắng, có ốp bọc lưng bằng
nhựa; 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu đ, đen có ốp lưng bằng nhựa
màu trắng; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia v màu đen; 01 xe ô tô
tải, BKS: 19C - 113.48; 01 xe máy nhãn hiệu Wave @, màu sơn trắng, đen,
BKS: 88F1 - 502.93; 01 chiếc ví giả da màu nâu, số tiền 5.550.000 đồng; 01
giấy chng minh nhân dân, 01 giấy phép lái xe đều mang tên Phạm Văn H1; 01
giấy đăng ký xe ô tô mang tên Phạm Văn N1; 02 giấy chng nhận bảo hiểm tự
nguyện mô tô, xe máy mang tên Phạm Văn H1; 01 bản sao giấy đăng ký xe mô
tô và 01 giấy biên nhận thế chấp mang tên Phạm Văn H1 là hợp pháp.
39
3. Về án phí: Căn c Nghị quyết số 326/NQ-UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mc thu, miễn, giảm,
thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Bị cáo Nguyễn Ngọc T phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng)
tiền án phí hình sự phúc thẩm.
Trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, người bị
kết án được gửi đơn xin ân giảm án tử hình lên Chủ tịch Nước cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam.
Kiến nghị Cơ quan cảnh sát điều tra tiếp tục điều tra làm rõ xử lý đối với
Đỗ Tiến D1.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- TAND Tối cao
- VKSND cấp cao tại Hà Nội;
- VKSND tỉnh Vĩnh Phúc;
- Cục THADS tỉnh Vĩnh Phúc;
-Trại tạm giam CA Vĩnh Phúc;
- Bị cáo (qua trại);
- người cqlnv liên quan (theo đ/c)
- Người bào chữa;
- Lưu: VT, HCTP hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚCTHẨM
THẨM PHÁN-CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Bùi Xuân Trọng
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 28/12/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 26/09/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 26/09/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 12/09/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Bản án số 18/2023/HS-ST ngày 24-08-2023 của TAND TP. Cần Thơ về tội vận chuyển trái phép chất ma túy
Ban hành: 24/08/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 22/08/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 22/06/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 20/06/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 16/06/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 13/06/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 09/06/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 30/05/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 25/05/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 22/05/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 17/05/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 28/04/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 25/04/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 05/04/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 21/03/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm