Bản án số 45/2024/HS-PT ngày 22-03-2024 của TAND tỉnh Quảng Ngãi về về tội đánh bạc
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng tội danh
- Tải về
Tải văn bản
-
45-2024-HS-PT-QUANG NGAI
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
45-2024-HS-PT-QUANG NGAI
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 45/2024/HS-PT
| Tên Bản án: | Bản án số 45/2024/HS-PT ngày 22-03-2024 của TAND tỉnh Quảng Ngãi về về tội đánh bạc |
|---|---|
| Tội danh: | 321.Tội đánh bạc (Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015) |
| Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
| Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Quảng Ngãi |
| Số hiệu: | 45/2024/HS-PT |
| Loại văn bản: | Bản án |
| Ngày ban hành: | 22/03/2024 |
| Lĩnh vực: | Hình sự |
| Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Thông tin về vụ án: | Ngô Đình T, Hàn Văn T1, Phạm Thị B phạm tội đánh bạc |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TỈNH QUẢNG NGÃI Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Bản án số: 45/2024/HS-PT
Ngày 22 - 03 - 2024
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG NGÃI
Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Bà Lê Thị Mỹ Giang.
Các thẩm phán: Ông Lê Quang Toại.
Ông Nguyễn Văn Năm
Thư ký phiên tòa: Bà Lê Thị Thảo Như – Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh
Quảng Ngãi.
Đại diện viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi tham gia phiên tòa: Bà
Nguyễn Thị Ngọc Thúy – Kiểm sát viên.
Trong ngày 22 tháng 03 năm 2024 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Sơn
Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi. Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi xét xử công khai vụ án
hình sự phúc thẩm thụ lý số: 61/2024/TLPT-HS ngày 23/02/2024 đối với các bị cáo
Ngô Đình T, Hàn Văn T1, Phạm Thị B do có kháng nghị của Viện kiểm sát nhân
dân tỉnh Quảng Ngãi đối với bản án hình sự sơ thẩm số 07/2023/HS-ST ngày
19/12/2023 của Tòa án nhân dân huyện Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi.
- Các bị cáo bị kháng nghị:
1. Ngô Đình T, sinh ngày 06 tháng 8 năm 1989 tại Quảng Ngãi.
Nơi cư trú: Thôn Đ, huyện L, tỉnh Quảng Ngãi; nghề nghiệp: Làm biển; trình
độ học vấn: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt
Nam; con ông Ngô Tấn D (chết) và bà Nguyễn Thị K; vợ: Trần Thị L và có 02 con;
tiền án, tiền sự: Không.
Nhân thân: Ngày 21/9/2011, bị Tòa án nhân dân huyện Lý Sơn xử phạt 32
tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”, bị cáo chấp hành xong và đã được xóa án
tích.
Bị cáo tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.
2. Hàn Văn T1, sinh ngày 06 tháng 8 năm 1983 tại tỉnh Quảng Ngãi.
Nơi cư trú: Thôn Đ, huyện L, tỉnh Quảng Ngãi; nghề nghiệp: Làm biển, trình
độ học vấn: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt
Nam; con ông Hàn Vũ P và bà Đỗ Thị L1; vợ: Phạm Thị T2 và có 03 con, con lớn
nhất sinh 2006, nhỏ nhất sinh năm 2011; tiền án, tiền sự: Không.
2
Bị cáo tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.
3. Phạm Thị B, sinh ngày 16 tháng 5 năm 1979 tại Quảng Ngãi.
Nơi cư trú: Thôn T, huyện L, tỉnh Quảng Ngãi; nghề nghiệp: Nội trợ; trình
độ học vấn: 07/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt
Nam; con ông Phạm Đình T3 (chết) và bà Mai Thị V (chết); có chồng: Lê Thanh
T4 (chết); có 03 người con, lớn nhất sinh năm 2002, nhỏ nhất sinh năm 2009; tiền
án, tiền sự: Không.
Nhân thân: Ngày 15/11/2021, bị Công an huyện L xử phạt vi phạm hành
chính số tiền 1.500.000 đồng về hành vi đánh bạc, bị cáo đã chấp hành xong.
Bị cáo tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
+ Anh Trương Đình H, sinh năm 1991; trú tại: Thôn Đ, huyện L, tỉnh Quảng
Ngãi (Có đơn xin vắng mặt).
- Người làm chứng:
+ Chị Phan Thị Thu Đ, sinh năm 1990 (Có đơn xin vắng mặt);
+ Anh Phạm Văn L2, sinh năm 1997 (Vắng mặt);
+ Anh Ngô Văn H1, sinh năm 1991 (Vắng mặt).
Cùng trú tại: Thôn Đ, huyện L, tỉnh Quảng Ngãi.
+ Bà Ngô Thị Yến T5, sinh năm 1975 (Vắng mặt);
+ Ông Nguyễn Minh H2, sinh năm: 1987 (Vắng mặt);
+ Ông Nguyễn Văn D1, sinh năm: 1978 (Vắng mặt).
Cùng trú tại: Thôn T, huyện L, tỉnh Quảng Ngãi.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ
án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 20 giờ 00 phút, ngày 31/01/2023, Ngô Đình T gọi điện thoại cho
Phạm Thị B để rủ B xuống cơ sở karaoke S ở thôn Đ, huyện L để hát karaoke thì B
đồng ý, nhưng chờ mãi không thấy nên T đi về nhà mình tại thôn Đ, huyện L.
Đến khoảng 21 giờ cùng ngày, Ngô Đình T lấy 01 (một) cây kéo cắt lá bài
(loại bài Tây 52 lá) thành 04 (bốn) đồng vị, chuẩn bị 01 (một) cái chén, 01 (một)
cái đĩa để làm dụng cụ xóc đĩa. Sau khi chuẩn bị xong dụng cụ để đánh bạc, Ngô
Đình T gọi điện thoại cho Ngô Thị Yến T5 đến nhà T để đánh bạc dưới hình thức
xóc đĩa; một lát sau thì có Ngô Thị Yến T5 và một số người khác (không xác định
được là ai) đến nhà T để tham gia đánh bạc. Ngô Đình T trải 01 (một) cái mền ra
nền phòng bếp của nhà T và T trực tiếp cầm cái xóc đĩa cho những người khác tiến
hành đặt cược.
3
Cách thức đánh bạc ăn thua bằng tiền bằng hình thức xóc đĩa như sau:
Bộ xóc đĩa gồm 04 đồng vị tròn (được cắt ra từ lá bài 52 lá gồm hai mặt bài)
được bỏ vào 01 cái đĩa và úp 01 cái chén lại để xóc; Chẵn được quy ước nếu xóc
mà hiện ra 02 đồng vị cùng màu và 02 đồng vị khác màu thì gọi là “chẵn”, nếu ra
03 đồng vị cùng màu và 01 đồng vị khác màu thì là “lẻ”.
Người cầm cái sẽ là người xóc đĩa cho các con bạc tiến hành đặt cược theo
hai mặt “chẵn” và “lẻ”. Quá trình đặt cược các con bạc có thể lấy tiền của con bạc
khác đang đặt cược mặt “chẵn” hoặc “lẻ” để đặt cược lại mặt khác và có thể cân
tiền hoặc thỏa thuận thắng thua với nhau. Khi các con bạc đã đặt cược xong, người
cầm cái sẽ quyết định nhận cược bao nhiêu, nhận cược ở mặt nào (có thể nhận hết
hoặc không), nếu con bạc đặt cược thắng thì người cầm cái sẽ chung đúng toàn bộ
số tiền mà con bạc đã đặt cược xuống chiếu bạc, còn thua thì người cầm cái sẽ
thắng toàn bộ số tiền mà con bạc đã đặt xuống chiếu bạc; tuy nhiên, trường hợp
người cầm cái không nhận cược thì giao lại cho các con bạc khác nhận cược nhưng
nếu không có ai nhận cược thì ván đó coi như huề tiền (không có ai dỡ chén) và trả
lại tiền cho các con bạc đã đặt được. Mỗi ván diễn ra khoảng 05 phút; tổng số tiền
mỗi ván các con bạc tham gia đặt cược thấp nhất là khoảng 3.000.000 đồng (ba
triệu đồng) và cao nhất là khoảng 4.000.000 đồng (bốn triệu đồng), không giới hạn
số người đặt cược và số tiền đặt cược.
Trong quá trình các con bạc đang đánh bạc thì có nhiều người có mặt tại nơi
đánh bạc ở nhà Ngô Đình T như: Phạm Văn L2, Nguyễn Văn D1, Nguyễn Minh
H2 và một người có tên H3 (Q – không rõ nhân thân, lai lịch) để xem đánh bạc.
Khoảng 22 giờ cùng ngày, Phạm Thị B đi đến cơ sở karaoke S nhưng không
thấy T nên đi vào nhà T để tìm T. Tại đây, B thấy trong nhà T có nhiều người đang
đánh bạc ăn thua bằng tiền bằng hình thức xóc đĩa nên cũng vào tham gia đánh bạc.
Một lúc sau, Hàn Văn T1 cũng đến nhà T để tham gia đánh bạc.
Khoảng 22 giờ 30 phút cùng ngày, Trương Đình H đến nhà Ngô Văn H1 ở
cùng thôn để gặp H1 với mục đích đưa số tiền 40.000.000 đồng (bốn mươi triệu
đồng), để sáng hôm sau H1 cùng với một số thuyền viên khác chạy tàu biển vào C
để chuẩn bị nhiên liệu và lương thực để đi biển nhưng không có H1 ở nhà. Vợ của
H1 (Bùi Thị Đ1) nói với H bên nhà Ngô Đình T có đánh bạc nên H qua nhà Ngô
Đình T (gần nhà H1) để xem đánh bạc. Đến khoảng 22 giờ 45 phút cùng ngày, H1
nghe vợ nói lại việc H đến tìm H1 nên H1 đi qua nhà Ngô Đình T để gặp H.
Đến khoảng 22 giờ 50 phút cùng ngày, trong lúc H đang đếm và giao số tiền
40.000.000 đồng (bốn mươi triệu đồng) cho H1 tại nhà T thì lực lượng C chỉ thiên
và tiến hành bắt quả tang, H thấy vậy bỏ chạy vứt số tiền 40.000.000 đồng (bốn
mươi triệu đồng) tại vị trí gần chiếu bạc; các đối tượng có mặt tại hiện trường cũng
bỏ chạy và vứt bỏ tiền tại nhiều vị trí xung quanh chiếu bạc. Lực lượng Công an
huyện đã nhặt tiền tại nhiều vị trí trong phòng bếp, xung quanh chiếu bạc bỏ vào
chung với số tiền trên chiếu bạc, tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả
tang đối với Ngô Đình T, Hàn Văn T1, Phạm Thị B, tạm giữ số tiền 54.400.000
4
đồng (năm mươi bốn triệu bốn trăm ngàn đồng) trên chiếu bạc; 6.900.000 đồng
(sáu triệu chín trăm ngàn đồng) trong hộp nhựa tại chiếu bạc và nhiều tài liệu, đồ
vật: 01 cái đĩa; 01 cái chén; 04 đồng vị; 01 cái kéo có cán màu vàng; 01 bộ bài tây
loại 52 lá bài; 05 cái ghế nhựa; 01 cái mền; 01 điện thoại di động hiệu Samsung,
màu xanh.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số 07/2023/HS-ST ngày 19/12/2023 của Tòa án
nhân dân huyện Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi quyết định:
1. Tuyên bố các bị cáo Ngô Đình T, Hàn Văn T1, Phạm Thị B phạm tội
“Đánh bạc”.
Căn cứ: Khoản 1 Điều 321, điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 17, Điều 58 và
Điều 35 Bộ luật hình sự.
Xử phạt bị cáo: Ngô Đình T 45.000.000 đồng (bốn mươi triệu đồng).
Căn cứ: Khoản 1 Điều 321, điểm i, s khoản 1, Điều 51, Điều 17, Điều 58 và
Điều 35 Bộ luật hình sự.
Xử phạt bị cáo: Hàn Văn T1 25.000.000 đồng (hai mươi lăm triệu đồng).
Căn cứ: Khoản 1 Điều 321, điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 17,
Điều 58 và Điều 35 Bộ luật hình sự.
Xử phạt bị cáo: Phạm Thị B 20.000.000 đồng (hai mươi triệu đồng)
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về xử lý vật chứng, biện pháp tư pháp, án
phí và quyền kháng cáo theo luật định.
Ngày 17/01/2024, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi ban
hành Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 64/QĐ-VKS đề nghị Tòa án nhân dân
tỉnh Quảng Ngãi xét xử phúc thẩm theo hướng: Hủy toàn bộ bản án hình sự sơ
thẩm số 07/2023/HS-ST ngày 19/12/2023 của Tòa án nhân dân huyện Lý Sơn để
điều tra lại do có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm, người phạm tội, việc điều tra chưa đầy
đủ và có vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng.
Tại phiên tòa phúc thẩm đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi
vẫn giữ nguyên nội dung kháng nghị.
Kiểm sát viên phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án:
Cấp sơ thẩm đã có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, điều tra chưa đầy
đủ dẫn đến bỏ lọt tội phạm, người phạm tội. Vi vậy, đề nghị Hội đồng xét xử áp
dụng điểm c khoản 1 Điều 355; điểm a, b, c khoản 1 Điều 358 Bộ luật tố tụng hình
sự, hủy bản án hình sự sơ thẩm và chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát nhân dân huyện
Lý Sơn để điều tra lại.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
5
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được
tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về thủ tục tố tụng: Quyết định kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân tỉnh Quảng Ngãi ban hành trong thời hạn luật định nên được xem xét theo
thủ tục phúc thẩm.
[2] Xét kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi.
[2.1] Tại hồ sơ vụ án, các tài liệu về lý lịch, nhân thân của các bị cáo có
những nội dung còn mâu thuẫn, chưa được làm rõ như: ngày tháng năm sinh của bị
cáo Hàn Văn T1 chưa được xác định chính xác; căn cứ nội dung Biên lai thu thuế,
phí, lệ phí và thu phạt vi phạm hành chính vào ngày 12/11/2021 (Bút lục 181) thì bị
cáo Phạm Thị B bị xử phạt vi phạm hành chính theo quyết định số 34 ngày
12/11/2021 nhưng không rõ về hành vi gì, ngày 15/11/2021 bị cáo Phạm Thị B bị
Công an huyện L Xử phạt hành chính theo Quyết định xử phạt vi phạm hành chính
số 28/QĐ-XPHC về hành vi đánh bạc (Bút lục 180).
[2.2] Quá trình điều tra vụ án, các tài liệu, chứng cứ thu thập trong hồ sơ vụ
án có nhiều sai sót về thời gian bắt đầu, kết thúc; trùng lặp về thời gian; sửa chữa,
gạch bỏ trong nội dung biên bản nhưng không có xác nhận của người tham gia tố
tụng; sao chép nội dung từ biên bản này sang biên bản khác không đúng với diễn
biến thực tế của sự việc… (Bút lục số 89, 102 – 103, 143, 188 – 191, 212, 232 -
233);
Cơ quan điều tra có quay phim quá trình bắt quả tang, tuy nhiên cơ quan điều
tra không tiến hành trích xuất dữ liệu di động của bị cáo T và các đối tượng được T
gọi rủ đến đánh bạc, hình ảnh trong video để đối chất, nhận dạng… làm rõ các đối
tượng tham gia đánh bạc, làm rõ các mâu thuẫn trong lời khai, lý do thay đổi lời
khai là vi phạm tố tụng và điều tra chưa đầy đủ.
[2.3] Về tội danh: Căn cứ lời khai của các bị cáo Ngô Đình T, Hàn Văn T1,
Phạm Thị B và các đối tượng khác có mặt tại hiện trường vụ án, có căn cứ xác định
bị cáo T là người gọi điện thoại rủ Phạm Thị B, Ngô Thị Yến T5 (trong đó chưa
xác định được T5 có tham gia đánh bạc hay không) đến đánh bạc; bị cáo T là người
chuẩn bị công cụ dùng vào việc phạm tội; trực tiếp xóc đĩa cho những người khác
đánh bạc; hơn 10 người tham gia đánh bạc tại nhà bị cáo T vào ngày 01/02/2023;
số tiền thu tại chiếu bạc là 54.400.000 đồng. Hành vi của bị cáo Ngô Đình T có dấu
hiệu của tội “Tổ chức đánh bạc”. Cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Ngô Đình T về tội
“Đánh bạc” là chưa có căn cứ vững chắc.
[2.4] Về áp dụng pháp luật và quyết định hình phạt: Ngày 21/9/2011 bị cáo
Ngô Đình T bị Tòa án nhân dân huyện Lý Sơn xử phạt 32 tháng tù về tội “Cố ý gây
thương tích”, bị cáo chấp hành xong và đã được xóa án tích, nhưng lần phạm tội
này của bị cáo không được xem là phạm tội lần đầu. Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng
tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít
nghiêm trọng” theo điểm i khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Ngô
Đình T là áp dụng không đúng pháp luật. Đối với bị cáo Phạm Thị B, như đã nhận
6
định tại mục [2.1] phần nhận định của bản án này, trường hợp quyết định số 34
ngày 12/11/2021 mà bị cáo B đã nộp phạt cũng xử phạt bị cáo về hành vi đánh bạc
thì cần phải xem lại Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 28/QĐ-XPHC ngày
15/11/2021 đối với bị cáo B về hành vi đánh bạc có đúng pháp luật hay không. Với
nhân thân như đã nêu thì việc quyết định hình phạt đối với bị cáo Ngô Đình T,
Phạm Thị B là chưa tương xứng.
[2.5] Đối với đối tượng Trương Đình H:
Trương Đình H là đối tượng đã bị bắt giữ, sau đó nhân cơ hội trốn thoát
(Theo các báo cáo từ bút lục 12 - 16). Tuy nhiên, trong hồ sơ vụ án lại có Biên bản
tiếp nhận người phạm tội ra tự thú ngày 02/02/2023 (Bút lục 212) là không đúng
quy định tại điểm h khoản 1 Điều 4 Bộ luật tố tụng hình sự.
Căn cứ Biên bản tiếp nhận người phạm tội ra tự thú ngày 02/02/2023 và các
bản tự khai, lấy lời khai ngày 01 - 02/02/2023, H khai nhận mình có tham gia
đánh bạc. Từ ngày 05/02/2023 về sau, H thay đổi lời khai, phủ nhận việc tham gia
đánh bạc và khai “quá trình làm việc tôi đã khai tôi chỉ đến xem và không tham gia
đánh bạc, nhưng rồi sau đó thời gian làm việc lâu quá tôi mệt mỏi và tinh thần
hoảng loạn nên tôi đã khai nhận…”, tuy nhiên việc tự thú là do đối tượng tự đến Cơ
quan điều tra khai báo, tại các biên bản ghi lời khai Điều tra viên đều hỏi về tình
trạng sức khỏe, tinh thần của H, việc khai báo của H là tự nguyện, không bị ép
buộc, mớm cung, trong tinh thần tỉnh táo, đủ điều kiện sức khỏe. Vì vậy, lời khai
của H là không có căn cứ chấp nhận;
Lời khai của Trương Đình H không thống nhất, lúc thì H khai khi đi ngang
nhà Ngô Văn H1 phải đi qua nhà Ngô Đình T, thấy nhà T có đánh bài nên qua xem;
lúc thì khai đến nhà H1 và H1 nói ở nhà T có đánh bài nên qua xem; lúc thì khai vợ
H1 nói bên nhà T có đánh bạc nên qua xem; H khai đứng xem cách sòng bạc 2m,
nhưng Phạm Văn L2 khai thấy H ngồi ở ghế nhựa trong sòng bạc và trên tay có
cầm xấp tiền 500.000 đồng nên lời khai của L2 phù hợp với các lời khai nhận của
H vào các ngày 01, 02/02/2023;
H khai khi công an đến thì H có vứt lại gần nơi đánh bạc 40.000.000 đồng
(Trong số tiền Cơ quan điều tra thu giữ) không liên quan đến hành vi đánh bạc do
sợ liên lụy và nặng tội nhưng lại khai hốt khoảng 5.000.000 đồng tại sòng bạc là
không có căn cứ chấp nhận.
[2.6] Căn cứ vào lời khai của các đối tượng Nguyễn Đình T6, Hàn Văn T1,
Phạm Thị B, Trương Đình H, Phạm Văn L2 có thể xác định ngoài Bá, T1, T6 tham
gia đánh bạc thì còn các đối tượng khác như: Phạm Văn L2, Ngô Thị Yến T5, H2,
D1, Q (H), H4 cũng tham gia đánh bạc khi Cơ quan Cảnh sát điều tra bắt quả tang
thì các đối tượng bỏ chạy. Sau đó B, T1, T6 thay đổi lời khai về việc không xác
định được các đối tượng Phạm Văn L2, Ngô Thị Yến T5, H2, D1, Q (H), H4 có
mặt tại sòng bạc nhưng có tham gia đánh bạc không thì không biết. Quá trình vây
bắt, cơ quan điều tra có ghi hình, nhưng Cơ quan điều tra chưa làm hết các biện
pháp điều tra như trích xuất dữ liệu điện thoại của bị cáo Ngô Đình T, bị cáo Phạm
7
Thị B, đối tượng Ngô Thị Yến T5; chưa trích xuất dữ liệu, hình ảnh trong video,
cho các bị cáo, các đối tượng nhận dạng, đối chất, làm rõ mâu thuẫn trong các lời
khai, lý do thay đổi lời khai để xác định đúng người phạm tội, tránh bỏ lọt tội
phạm.
[2.7] Về số tiền thu giữ tại sòng bạc: Cơ quan điều tra thu giữ số tiền
54.400.000 đồng gồm tiền trên chiếu bạc, tiền các con bạc bỏ tại chiếu bạc, tiền
vương vãi gần chiếu bạc. Cấp sơ thẩm xác định có số tiền 40.000.000 đồng của
Trương Đình H, số tiền T đánh bạc là 10.000.000 đồng, số tiền T1 đánh bạc là
2.000.000 đồng, số tiền B đánh bạc là 1.800.000 đồng (số tiền đánh bạc mà B khai
sử dụng để đánh bạc cũng thường xuyên có sự thay đổi), như vậy có 600.000 đồng
là số tiền các con bạc khác tham gia đánh bạc, vậy ai là người tham gia đánh bạc
vẫn chưa được làm rõ. Về số tiền 6.900.000 đồng thu tại hộp nhựa, các bị cáo T,
T1, B đều xác định không có tiền của mình trong hộp nhựa, các bị cáo xác định số
tiền trên là do các con bạc thắng bạc bỏ vào, có bị cáo khai quy ước bỏ 20.000-
50.000 đồng, có bị cáo khai bỏ 10% số tiền thắng cược..., tại phiên tòa phúc thẩm
bị cáo T1 thừa nhận có bỏ vào nhưng chỉ khoảng 10.000 – 20.000 đồng, cấp sơ
thẩm chưa làm rõ số tiền trên do ai là người bỏ vào; thời gian các bị cáo đánh bạc là
từ 22h đến 22h50 phút thì bị bắt quả tang, mỗi ván đánh 4 -5 phút. Như vậy, số tiền
thu giữ tại chiếu bạc phải do các đối tượng khác (ngoài 3 bị cáo) tham gia đánh bạc
nhưng cấp sơ thẩm chưa điều tra làm rõ.
Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ xác định cấp sơ thẩm
bỏ lọt tội phạm, người phạm tội và việc điều tra ở cấp sơ thẩm không đầy đủ,
những vi phạm nêu trên là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng ảnh hưởng đến quá
trình giải quyết vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận kháng nghị của Viện
kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi, hủy toàn bộ bản án hình sự sơ thẩm số
07/2023/HS-ST ngày 19/12/2023 của Tòa án nhân dân huyện Lý Sơn.
[4] Đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát là phù hợp với nhận định của Hội
đồng xét xử nên được chấp nhận.
[5] Về án phí: Do bản án sơ thẩm bị hủy để điều tra lại nên các bị cáo Ngô
Đình T, Hàn Văn T1, Phạm Thị B không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo
quy định tại Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 355; điểm a, b, c khoản 1 Điều 358 Bộ luật
tố tụng hình sự, Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ
Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ
phí Tòa án:
1. Chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi. Hủy
toàn bộ bản án hình sự sơ thẩm số 07/2023/HS-ST ngày 19/12/2023 của Tòa án
nhân dân huyện Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi.
8
2. Giao toàn bộ hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát nhân dân huyện Lý Sơn, tỉnh
Quảng Ngãi để điều tra lại theo quy định của pháp luật.
3. Bị cáo Ngô Đình T, Hàn Văn T1, Phạm Thị B không phải chịu án phí hình
sự phúc thẩm.
4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Quảng Ngãi;
- Sở Tư pháp tỉnh Quảng Ngãi;
- VKSND, TAND huyện Lý Sơn;
- Công an huyện Lý Sơn;
- Bị cáo;
- Lưu hồ sơ.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa
(Đã ký)
Lê Thị Mỹ Giang
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 10/04/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 10/04/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 03/04/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 26/03/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 26/03/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 22/03/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 14/03/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 23/02/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 21/02/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 18/01/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 11/01/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 10/01/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 22/12/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 20/12/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 19/12/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 14/12/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 30/11/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 29/11/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 21/11/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm