Bản án số 441/2025/DS-PT ngày 04/09/2025 của TAND tỉnh Đồng Nai về tranh chấp hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 441/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 441/2025/DS-PT ngày 04/09/2025 của TAND tỉnh Đồng Nai về tranh chấp hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Đồng Nai
Số hiệu: 441/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 04/09/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất; hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TNH ĐNG NAI
Số: 441/2025/DS-PT
Ngày: 04 - 9 - 2025
V/v: “Tranh chấp hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng
đất; hợp đồng tặng cho quyền
sử dụng đất”
CNG HÒA XÃ HI CH NGHĨA VIỆT NAM
Độc lp - T do - Hnh phúc
NHÂN DANH
C CNG HÒA XÃ HI CH NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Long Châu
Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Văn Thư
Ông Trần Vĩnh Yên
- Thư ký phiên tòa: Bà Trần Thị Mỹ Thuận – Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh
Đồng Nai.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai: Bà Nguyễn Hoàng Thế
Anh - Kiểm sát viên tham gia phiên tòa.
Ngày 04 tháng 9 năm 2025 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai xét
xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự phúc thẩm thụ số 174/TLPT-DS ngày
22/4/2025 về việc Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất;
hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất”. Do bản án dân sự thẩm số
156/2024/DS-ST ngày 13/9/2024 của Tòa án nhân dân huyện Long Thành (nay
Tòa án nhân dân khu vực 2 – Đồng Nai) bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa ván ra xét xử phúc thẩm số 335/2025/QĐ-PT ngày
22/7/2025 Quyết định hoãn phiên tòa số 819/2025/QĐ-PT ngày 20/8/2025
giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Nguyễn Thị L, sinh năm 1940 (đã chết).
Địa chỉ: 396/15 L, tổ C, ấp V, xã L, tỉnh Đồng Nai.
Người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của bà L:
1. Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1959.
Địa chỉ: Ấp V, xã L, tỉnh Đồng Nai.
Người đại diện theo ủy quyền của T: Ông Dương Đức V, sinh năm
1992.
Địa chỉ: Số B, khu phố B, phường T, tỉnh Đồng Nai.
2
2. Bà Nguyễn Thị S, sinh năm 1955.
Địa chỉ: 396/15 L, tổ C, ấp V, xã L, tỉnh Đồng Nai.
Người đại diện theo ủy quyền của S: Ông Nguyễn Đức Ổ, sinh năm
1989 (Theo văn bản ủy quyền ngày 07/5/2024).
Địa chỉ: Tổ C, khu phố H, phường P, tỉnh Đồng Nai.
- Bị đơn: Ông Lý Thái B, sinh năm 1991.
Địa chỉ: Số A, tổ A, ấp P, xã L, tỉnh Đồng Nai.
Người đại diện theo ủy quyền:
Vi Thị P, sinh năm 1995 (Theo Hợp đồng ủy quyền ngày 20/6/2025).
Địa chỉ: Tổ D, ấp E, phường T, tỉnh Đồng Nai.
Ông Nguyễn Năng K, sinh năm 2001 (Theo Hợp đồng ủy quyền ngày
22/7/2025).
Địa chỉ: Số A, đường N, tổ A, khu phố F, phường T, tỉnh Đồng Nai.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Phòng C tỉnh Đồng Nai.
Địa chỉ: Ấp P, xã L, tỉnh Đồng Nai.
2. Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh Đ Chi nhánh L3.
Địa chỉ: Ấp P, xã L, tỉnh Đồng Nai.
3. Bà Nguyễn Thị S, sinh năm 1955.
Địa chỉ: 396/15 L, Tổ C, ấp V, xã L, tỉnh Đồng Nai.
Người đại diện theo ủy quyền: Bà Trần Thị Ngọc Á, sinh năm 2002.
Địa chỉ: Đường D, khu tái định cư L, ấp B, xã L, tỉnh Đồng Nai.
4. Ông Huỳnh Thanh T1, sinh năm 1978.
5. Bà Huỳnh Thanh H, sinh năm 1985.
6. Bà Huỳnh Thanh N, sinh năm 1993.
7. Cháu Trần Huỳnh Anh T2, sinh năm 2009.
Người đại diện hợp pháp cháu T2: Bà Huỳnh Thanh H, sinh năm 1985.
Cùng địa chỉ: 3 L, Tổ C, ấp V, xã L, tỉnh Đồng Nai.
- Người kháng cáo: Ông Lý Thái B Bị đơn.
(Ông , ông K và bà P có mặt tại phiên tòa)
NỘI DUNG VỤ ÁN
- Tại đơn khởi kiện đề ngày 03 tháng 12 năm 2018, các đơn sửa đổi bổ
sung đơn khởi kiện của Nguyễn Thị L các lời khai trong quá trình giải
quyết vụ án cũng như tại phiên tòa ông Dương Đức V Người đại diện theo ủy
quyền của Nguyễn Thị T Người kế thừa quyền nghĩa vụ của Nguyễn
Thị L và trình bày:
3
Nguyễn Thị L chủ sở hữu phần đất diện tích 157,7m
2
thuộc thửa số
129, tờ bản đồ số 59, thị trấn L, huyện L, tỉnh Đồng Nai được Văn phòng
đăng đất đai tỉnh Đ thừa ủy quyền của Giám đốc sở Tài nguyên môi
trường tỉnh Đ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CO 148094 ngày
02/7/2018. Trên đất bà L có 01 căn nhà, diện tích khoảng 75m
2
.
Ngày 01/6/1970, L hạ sinh một trai tại bệnh viện G, tuy nhiên do
hoàn cảnh khó khăn đất nước còn chiến tranh nên L cùng con trai thất lạc
nhau từ đó cho đến nay. L chỉ biết con của bà đã được một gia đình người
Úc nhận nuôi đưa về Úc sinh sống. Cho nên với tâm thế người mẹ xa con,
L luôn tìm cách thu thập thông tin cũng như hy vọng tìm gặp lại con trai
mình khi tuổi đã già.
Năm 2017, qua sự giới thiệu của bạn bè, L quen biết được ông Thái
B theo lời ông B nói thì ông là du học sinh từ Úc về, nhiều mối quan hệ
với các người Úc gốc Việt nên hứa sẽ giúp bà L tìm lại con trai. Vì lẽ đó, có một
khoảng thời gian bà L sinh sống tại nhà của ông B và thường phải ký các giấy tờ
mà ông B đưa cho.
Đến tháng 03/2018, ông B biết được việc giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất đang bị thất lạc nên nói L để ông B đi làm lại giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất thay cho L. Trong qtrình tiến hành, ông B thường hay đưa
L các giấy tờ liên quan nên không biết rằng trong đó các giấy tờ chuyển
nhượng cho ông B.
L xác định hợp đồng chuyển nhượng đất thửa số 129, tờ bản đồ số 59
thị trấn L được Phòng công chứng số 4 tỉnh C chứng thực ngày 11/7/2018 là chữ
của L nhưng khi L cũng không biết đó hợp đồng chuyển nhượng
L già tưởng cho ông B đi làm lại giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất. Phía nguyên đơn không đồng ý với kết quả giám định của Phân viện khoa
học hình sự Bộ C1 tại thành phố Hồ Chí Minh về nội dung “Tôi Đã nhận đủ số
tiền 2.500.000.000 đồng” tại văn bản thỏa thuận và cam kết ngày 19/4/2018, tuy
nhiên bà L cũng không yêu cầu giám định lại. Văn bản thỏa thuận cam kết
ngày 19/4/2018 chữ vân tay của L nhưng ông B kêu L để làm
lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Đại diện ông B cho rằng L đã nhận
đủ số tiền 2.500.000.000 đồng tại nhà L do ông B giao với mệnh giá 500.000
đồng không đúng. Giấy chứng nhận quyền sdụng đất của bà L bị thất lạc
nên L nhờ ông B đi làm lại giấy chứng quyền sử dụng đất cho L. Việc
ghi giá tiền chuyển nhượng đất trên hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
xác nhận của Phòng C tỉnh Đồng Nai nthế nào L không biết L
không chuyển nhượng thửa đất 129, tờ bản đồ s59 thị trấn L, huyện L, tỉnh
4
Đồng Nai cho ông B. Lời khai của ông B không thống nhất từ đó khẳng định
sự lừa dối trong việc ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất thửa số
129, tờ bản đồ số 59 thị trấn L, tỉnh Đồng Nai.
Đối với Nguyễn Thị S em ruột của bà Nguyễn Thị L, do bà S có hoàn
cảnh khó khăn nên vào năm 2014, S xin L cho nhờ, mỗi tháng S
trả cho bà L 500.000 đồng, bà L đồng ý nhưng chưa định ngày tháng năm nào sẽ
cho S dọn đến ở. Tuy nhiên, sau đó S tự ý đến nhà L để dọn dẹp, chặt
cây cối để xây nhà, đồng thời do công việc hằng ngày của bà L là bán vé số đi từ
sáng sớm đến chiều tối, tuổi cũng đã cao, sức khỏe không tốt thường hay bệnh
nên L cũng không hỏi bà S về việc tự ý xây dựng căn nhà trên đất bà L nữa.
Từ khi xây dựng nhà xong cho đến nay S không trả số tiền 500.000
đồng/tháng cho bà L nữa.
L xác định không việc tặng cho trên, đối với tgiấy tay ghi nhận
việc tặng cho quyền sử dụng đất không phải chữ ký và chữ viết của L bà L
không làm giấy tay tặng cho S, tuy nhiên L cũng không yêu cầu giám
định chữ viết chữ tại tờ giấy tay ngày 01/10/2014. L cho rằng giấy tay
ngày 01/10/2014 là giả nên bà L yêu cầu hủy và yêu cầu bà S trả lại diện tích đất
L sẽ thanh toán lại S phần xây dựng thêm theo chứng thư thẩm
định giá.
Nay bà Nguyễn Thị T thay đổi một phần yêu cầu khởi kiện trước đây của
Nguyễn Thị L cụ thể như sau:
1. Yêu cầu tuyên hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa
Nguyễn Thị L với ông Thái B đã được công chứng số 11679/2018, quyển số
20/2018 TP/CC SCC/HĐGĐ ngày 11/7/2018 tại Phòng C tỉnh Đồng Nai. T
không yêu cầu giải quyết hậu quả hợp đồng L không nhận tiền từ ông
B. Đồng thời yêu cầu tuyên hủy nội dung cập nhật biến động ngày 23/7/2018
mang tên ông Thái B tại trang 3 trên giấy chứng nhận quyền sdụng đất để
trả lại quyền sở hữu cho L đối với diện tích thửa đất nói trên theo quy định
pháp luật.
2. Hủy văn bản thỏa thuận và cam kết ngày 19/4/2018 giữa bà Lông
Thái B.
Đối với yêu cầu khởi kiện bsung về việc yêu cầu hủy hợp đồng tặng cho
quyền sử dụng đất ngày 01/10/2014 giữa bà Nguyễn Thị L với bà Nguyễn Thị S
và yêu cầu buộc bà Nguyễn Thị S, ông Huỳnh Thanh T1, bà Huỳnh Thanh H, bà
Huỳnh Thanh N phải trả lại diện tích đất cho L diện tích 48,4m
2
L sẽ
thanh toán cho S giá trị theo nhà theo kết quả định giá thì bà Nguyễn Thị T
xin rút lại.
5
T đồng ý với bản đồ hiện trạng thửa đất chứng thư thẩm định giá
không yêu cầu đo đạc, thẩm định lại. Đnghị Hội đồng xét xử căn cứ vào bản
vẽ và chứng thư thẩm định giá hiện có để giải quyết vụ án.
- Ông Nguyễn Đức đại diện theo ủy quyền cho Nguyễn Thị S Người
kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của bà Nguyễn Thị L trình bày:
Nguyên Nguyễn Thị L chủ sử dụng hợp pháp nhà đất thuộc thửa đất
số 129, tờ bản đồ 59, diện tích 157,7m
2
tại thị trấn L, huyện L, tỉnh Đồng Nai.
Năm 2004 L được Ủy ban nhân dân huyện L cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất. Đến ngày 02/7/2018 thì được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Đ cấp
lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Ngày 01/10/2014, L tặng cho em gái mình Nguyễn Thị S một
phần diện tích đất 48,4m
2
, hai bên lập bằng văn bản nhưng không công
chứng, chứng thực tại quan, tổ chức thẩm quyền. S gia đình đã xây
dựng căn nhà cấp 4, mái che kiên cố sinh sống từ tháng 10/2014 đến nay.
Ngày 19/4/2018, ông B L đến Văn phòng Luật Yên L1 nhờ
vấn và soạn thảo văn bản thỏa thuận cam kết về việc chuyển nhượng quyền
sử dụng đất. Luật Vũ Thị Kim T3 người tiếp nhận và trực tiếp tư vấn, soạn
thảo văn bản này cho các bên. Do thời điểm này Giấy chứng nhận thửa đất của
L đã bị mất nên các bên lập biên bản thỏa thuận trước để đảm bảo việc
chuyển nhượng. Giá chuyển nhượng hai bên thỏa thuận 2.500.000.000 đồng,
hình thức thanh toán: Chuyển khoản qua ngân hàng.
Ngày 11/7/2018, các bên Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
đối với thửa đất nêu trên tại Phòng C tỉnh Đồng Nai. Ngày 23/7/2018 ông
Thái B đã hoàn tất thủ tục đăng biến động đối với thửa đất trên tại trang 3
mang tên mình. Tuy nhiên, các bên không tiến hành giao nhận nhà đất nhà
đất vẫn do L quản lý, sử dụng. Hiện nay, sau khi L chết thì nhà đất do gia
đình bà S quản lý, sử dụng.
Tuy nhiên, sau khi phía bị đơn đã được cập nhật biến động sang tên tại
trang 3, nhưng không thực hiện nghĩa vụ thanh toán tiền cho L vi phạm
nghiêm trọng hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất văn bản thỏa
thuận cam kết ngày 19/4/2018 các bên đã thỏa thuận. Điều này đã xâm
phạm nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của L. Do đó L buộc
phải khởi kiện và khởi kiện bổ sung ông B ra Tòa án yêu cầu Tòa án giải quyết.
Quá trình giải quyết vụ án đến ngày 07/7/2023 bà L chết. Sau đó, Tòa án đã
đưa Nguyễn Thị T Nguyễn Thị S vào tham gia tố tụng với cách là
người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của bà L trong vụ án.
6
Tại phiên tòa hôm nay, Nguyễn Thị S với cách người kế thừa
quyền nghĩa vụ tố tụng của nguyên đơn xin thay đổi xác nhận lại yêu cầu
khởi kiện của nguyên đơn như sau:
1. Yêu cầu Tòa án tuyên hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
giữa Nguyễn Thị L và ông Thái B đối với thửa đất số 129, tờ bản đồ 59,
diện tích 157,7m
2
tại thị trấn L, huyện L, tỉnh Đồng Nai được Phòng C tỉnh
Đồng Nai công chứng số 11679/2018, quyển số 20/2018 TP/CC-SCC/HĐGD
ngày 11/7/2018. Đồng thời tuyên hủy nội dung cập nhật biến động ngày
23/7/2018 mang tên ông Thái B tại trang 3 trên giấy chứng nhận QSD đất để
trả lại quyền sở hữu cho L đối với diện tích thửa đất nói trên theo quy định
pháp luật.
2. Yêu cầu Tòa án tuyên hủy văn bản thỏa thuận cam kết ngày
19/4/2018 giữa bà Nguyễn Thị L và ông Lý Thái B.
Xin rút lại các yêu cầu khởi kiện sau đây:
- Tuyên hủy hợp đồng tặng cho QSD đất ngày 01/10/2014 giữa Nguyễn
Thị L với bà Nguyễn Thị S.
- Buộc Nguyễn Thị S, ông Huỳnh Thanh T1, Huỳnh Thanh H,
Huỳnh Thanh N phải trả lại diện tích 48,4m
2
cho L. Đối với căn nhà phần
mái che bà L sẽ thanh toán cho S giá trị theo kết quả định giá.
Nguyễn Thị S không đồng ý với toàn bộ yêu cầu phản tố của bị đơn ông
Thái B. S đồng ý với bản đồ hiện trạng thửa đất chứng thư thẩm định
giá không yêu cầu đo đạc, thẩm định lại. Đnghị Hội đồng xét xử căn cứ vào
bản vẽ và chứng thư thẩm định giá hiện có để giải quyết vụ án.
- Bị đơn ông Thái B do ông Tuấn N1 đại diện theo ủy quyền trình
bày:
Ngày 19/4/2018 tại Văn phòng L4 giữa ông Thái B với Nguyễn Thị
L thực hiện văn bản thỏa thuận cam kết về việc chuyển nhượng quyền sử
dụng đất diện tích 157,7m
2
tại thửa số 129, tờ bản đồ số 59 thị trấn L, huyện L,
tỉnh Đồng Nai với giá 2.500.000.000 đồng. Số tiền trên được thanh toán tại
nhà bà Nguyễn Thị L bằng tiền mặt một lần với mệnh giá toàn 500.000 đồng
(năm trăm nghìn đồng). Việc thanh toán được L ghi vào một trong các văn
bản thỏa thuận cam kết về việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày
19/4/2018.
Sau khi thanh toán tiền cho L xong do không tìm được giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất bản chính nên L phải tiến hành làm thủ tục đxin cấp lại
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Khi được nhà nước cấp lại giấy chứng nhận
7
quyền sử dụng đất thì ông B và L cùng nhau đến Phòng C thực hiện việc
hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng vào ngày 11/7/2018. Hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất ghi giá chuyển nhượng 50.000.000 đồng nhằm
mục đích tránh nộp thuế chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Trước đây ông B khai giữa ông L không việc chuyển nhượng hay
thỏa thuận giá cả mua bán gì mà bà L tặng cho ông B vì khi ký hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất nhà, ông B hứa với bà L nói tặng cho ch
không phải chuyển nhượng để nhằm mục đích các anh chị em L không đòi
tiền bà L.
Đối với các yêu cầu khởi kiện hiện nay của phía nguyên đơn thì ông B có ý
kiến như sau:
1. Nguyên đơn yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
giữa bà L với ông Thái B đã được công chứng số 11679/2018, quyển s
20/2018 TP/CC SCC/HĐGĐ ngày 11/7/2018 của Phòng C tỉnh Đồng Nai
hủy nội dung điều chỉnh giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, ông B không đồng
ý. Ông B không yêu cầu Tòa án giải quyết hậu quả hợp đồng.
2. Đối với yêu cầu hủy văn bản thỏa thuận và cam kết ngày 19/4/2018 giữa
bà L và ông Lý Thái B, ông B không đồng ý.
Đối với việc nguyên đơn xin rút lại yêu cầu khởi kiện về việc hủy hợp đồng
tặng cho quyền sử dụng đất ngày 01/10/2014 giữa L với Nguyễn Thị S
yêu cầu buộc Nguyễn Thị S, ông Huỳnh Thanh T1, Huỳnh Thanh H,
Huỳnh Thanh N phải trả lại diện tích đất cho L diện tích 48,4m
2
đất L
sẽ thanh toán cho bà S giá trị nhà theo kết quả định giá, ông B không có ý kiến.
Nay ông B yêu cầu phản tố như sau:
1. Yêu cầu người kế thừa quyền nghĩa vụ tố tụng của Nguyễn Thị L
Nguyễn Thị T trách nhiệm bàn giao diện tích 157,7m
2
thửa đất số 129,
tờ bản đồ số 59 thị trấn L, huyện L, tỉnh Đồng Nai cùng tài sản gắn liền với đất
là căn nhà cấp 4 cho ông Lý Thái B.
2. Yêu cầu bà Nguyễn Thị S, ông Huỳnh Thanh T1, Huỳnh Thanh H,
Huỳnh Thanh N, cháu Trần Huỳnh Anh T2 di chuyển nơi khác bàn giao diện
tích 157,7m
2
thửa số 129, tờ bản đồ số 59 thị trấn L căn nhà gắn liền với thửa
đất trên cho ông Bảo quản L2, sử dụng.
3. Đối với căn nhà mái che của bà Nguyễn Thị S ông B sẽ tiếp tục được
quyền sở hữu, sử dụng. Đồng thời, ông B sẽ thanh toán lại cho S số tiền
76.645.000 đồng theo kết quả chứng thư thẩm định giá do ng ty cổ phần T5
thực hiện.
8
Phía bđơn đồng ý với bản đồ hiện trạng thửa đất chứng thư thẩm định
giá không yêu cầu đo đạc, thẩm định lại. Đnghị Hội đồng xét xử căn cứ vào
bản vẽ và chứng thư thẩm định giá hiện có để giải quyết vụ án.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Nguyễn Thị S do Trần Thị Ngọc Á đại diện theo ủy quyền trình
bày:
Nguyễn Thị S với cách người quyền lợi, nghĩa vliên quan
yêu cầu độc lập như sau: Yêu cầu Tòa án công nhận hợp đồng tặng cho quyền
sử dụng đất ngày 01/10/2014 giữa Nguyễn Thị L bà Nguyễn Thị S diện
tích 48,4m
2
thuộc một phần thửa đất số 129, tờ bản đồ 59, diện tích 157,7m
2
tại
thị trấn L, huyện L, tỉnh Đồng Nai.
2. Văn phòng đăng đất đai tỉnh Đ Chi nhánh L3 trình bày tại văn bản
số 390/CV-VPĐKĐĐ.TTLT ngày 04/7/2019:
Ngày 28/4/2004 Nguyễn Thị L được Ủy ban nhân dân huyện L cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số X 293323 thửa đất số 129, tờ bản đồ số 59 thị
trấn L, huyện L diện tích 160,5m
2
. Ngày 10/4/2018 L làm đơn cớ mất giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số X 293323 trình báo công an thị trấn L. Ngày
13/6/2018, L đơn đề nghị cấp lại giấy chứng nhận quyền sdụng đất.
Ngày 16/6/2018, Ủy ban nhân dân thị trấn L xác nhận vào đơn đề nghị cấp lại
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà L.
Ngày 22, 23/6/2018, Văn phòng Đ Chi nhánh L3 thẩm tra hồ sơ, lập tờ
trình, xác nhận hồ đủ điều kiện hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trình
Văn phòng đăng đất đai tỉnh Đ. Ngày 02/7/2018, Văn phòng đăng đất đai
tỉnh Đ thừa ủy quyền của Giám đốc Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh Đ ban
hành Quyết định số 1066/2018/-STNMT về việc hủy giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất số X 293323 ngày 28/4/2004 đồng thời cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất số CO 148094 thuộc thửa đất số 129, tờ bản đồ số 59 diện tích
157,7m
2
ghi tên Nguyễn Thị L.
Ngày 11/7/2018, Nguyễn Thị L hợp đồng chuyển nhượng quyền s
dụng đất cho ông Thái B thửa đất số 129, tờ bản đồ số 59 do Phòng C tỉnh
Đồng Nai chứng thực số 11679/2018, quyển số 20/2018TP/CC-SCC/HĐGD.
Ngày 12/7/2018 ông Bùi Thanh H1 nhận ủy quyền của ông Lý Thái B nộp hồ sơ
chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại bộ phận tiếp nhận và trả kết quả huyện L.
Ngày 23/7/2018, Văn phòng Đ chi nhánh L3 thẩm tra việc chuyển nhượng
quyền sử dụng đất của bà Nguyễn Thị L sang cho ông Lý Thái B đúng quy định.
9
Đồng thời cập nhật biến động trang 3 (ba) trên giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất số CO 148094 ghi tên ông Lý Thái B.
Qua soát hồ đăng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, quyền sở
hữu nhà tài sản khác gắn liền với đất số CO 148094 thuộc thửa đất số 129,
tờ bản đồ số 59 tại thị trấn L do Văn phòng Đ chi nhánh L3 thực hiện đảm bảo
đúng trình tự quy định pháp luật đất đai.
Văn phòng Đ chi nhánh L3 xin vắng mặt trong toàn bộ quá trình giải quyết
vụ án.
3. Phòng C, tỉnh Đồng Nai trình bày tại văn bản số 112/CV-
VPĐKĐĐ.TTLT ngày 13/7/2019:
- Theo hồ sơ lưu trữ tại đơn vị thể hiện ngày 11/7/2018 bà Nguyễn Thị L
yêu cầu Phòng C chứng nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối
với thửa số 129, tờ bản đồ số 59 tại thị trấn L, huyện L, tỉnh Đồng Nai. Các bên
tham gia hợp đồng đã tự nguyện thỏa thuận giao kết hợp đồng, tại thời điểm
công chứng các bên giao kết hợp đồng có năng lực hành vi dân sự theo quy định
pháp luật, cuối bản hợp đồng các bên đều có ghi tôi đã đọc và đồng ý. Việc công
chứng hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất nêu trên đã đảm bảo đúng
trình tự, thủ tục theo quy định của Luật công chứng có hiệu lực thi hành từ ngày
01/01/2014.
Phòng C xin vắng mặt trong toàn bộ quá trình giải quyết vụ án.
4. Bà Huỳnh Thanh N trình bày tại bản tự khai ngày 02/01/2020:
Ngày 01/10/2014 mẹ Nguyễn Thị S đã được Nguyễn Thị L cho
miếng đất dài 07m, rộng 07m cuối đất của L 1m đường đi. Ktừ đó
gia đình bà chuyển đến sống tại đó đến nay. hoàn toàn đồng ý với ý kiến của
S không vấn đề thêm. Do bận ng việc nên bà xin vắng mặt trong
toàn bộ quá trình giải quyết vụ án.
5. Bà Huỳnh Thanh H trình bày tại bản tự khai ngày 02/01/2020:
Ngày 01/10/2014 mẹ Nguyễn Thị S đã được Nguyễn Thị L cho
miếng đất dài 07m, rộng 07m cuối đất của L 1m đường đi. Ktừ đó
gia đình bà chuyển đến sống tại đó đến nay. hoàn toàn đồng ý với ý kiến của
S không vấn đề thêm. Hiện nay cùng con gái Trần Huỳnh Anh
T2, sinh năm 2009 đang sống chung với bà S.
Do bận công việc nên bà xin vắng mặt trong toàn bộ quá trình giải quyết vụ
án.
6. Ông Huỳnh Thanh T1 trình bày tại biên bản lấy lời khai ngày 04/3/2020:
10
Ông con trai ruột của Nguyễn Thị S, ông không biết về việc tặng
cho đất giữa L S. Ông chỉ biết từ năm 2014 ông cùng mẹ dọn về Tổ C,
ấp V đến nay. Ông hoàn toàn đồng ý với ý kiến của mẹ ông không ý
kiến gì thêm. Ông xin được vắng mặt trong toàn bộ quá trình giải quyết vụ án.
- Người làm chứng bà Vũ Thị Kim T3 trình bày:
Vào ngày 19/4/2018 bà Nguyễn Thị L, ông Lý Thái B và bà Thái Thị Ngọc
T4 (mẹ ông B) đến Văn phòng luật Yên L1 do làm trưởng văn phòng
để yêu cầu lập văn bản thỏa thuận cam kết về việc chuyển nhượng quyền sử
dụng đất diện ch 160,5 m
2
thuộc thửa đất số 129, tờ bản đồ số 59 thị trấn L,
huyện L. Thời điểm đó hỏi do nhờ làm chứng thì các bên cho biết do L
bị thất lạc bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, đang trong quá trình
xin cấp lại tại quan Nhà nước nên muốn nhờ Luật làm chứng cho việc
chuyển nhượng để các bên yên tâm, khi nào cấp lại giấy chứng nhận quyền s
dụng đất mới thì các bên sẽ tiến hành hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất tại Phòng công chứng theo quy định để làm thủ tục sang tên.
L trình bày bà không chồng con, sợ sau này anh em tranh chấp nên
muốn chuyển nhượng để lấy tiền dưỡng già. Tại thời điểm này, do thấy L
lớn tuổi lại không người thân nên đã hỏi đi hỏi lại việc L về việc
chuyển nhượng căn nhà duy nhất này thì sau này bà sẽ đâu thì L nói rằng
ông B sẽ giúp đỡ bà, cho bà ở nhờ. Ông B trình bày bà L ý định tặng cho nhà
đất cho ông nhưng ông không muốn nhận thỏa thuận nhận chuyển nhượng
với giá 2.500.000.000 đồng. Vào thời điểm lập văn bản thỏa thuận bà là người
đề nghị cách thức thanh toán cho hai bên ông B hỗ trợ L mở tài khoản để
chuyển tiền qua Ngân hàng, lập sổ tiết kiệm cho bà L vì bà đã lớn tuổi không thể
giao tiền mặt được. Tại thời điểm ngày 19/4/2018 xác định sau khi văn
bản thỏa thuận cam kết thì các bên chưa tiến hành giao nhận bất kỳ một số
tiền nào, L chỉ tên điểm chỉ vào văn bản chứ không viết thêm nội dung
nào khác. Sau thời điểm đó đến nay cũng không chứng kiến việc ông B giao
cho bà L bất kỳ số tiền nào khác.
Tại bản án dân sự thẩm số 195/2024/DS-ST ngày 25/11/2024 của Tòa
án nhân dân huyện Long Thành căn cứ các Điều 116, 117, 119, 122, 124, 131,
398, 500, 501, 502 Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 689, 722, 723, 725 Bộ luật
Dân sự năm 2005; Điều 167, 168, 188 Luật đất đai năm 2013; Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
11
- Về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Đình chỉ xét xử đối với một phần
yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Nguyễn Thị L về việc yêu cầu Hủy hợp
đồng tặng cho quyền sử dụng đất ngày 01/10/2014 giữa bà Nguyễn Thị L với bà
Nguyễn Thị S yêu cầu buộc Nguyễn Thị S, ông Huỳnh Thanh T1,
Huỳnh Thanh H, Huỳnh Thanh N phải trả lại diện tích đất cho L diện tích
đất 48,4m
2
.
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện về việc “Tranh chấp hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất của nguyên đơn Nguyễn Thị L với bị
đơn ông Lý Thái B.
- Tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất công chứng số
11679/2018, quyển số 20/2018 TP/CC SCC/HĐGĐ ngày 11/7/2018 của
Phòng C, tỉnh Đồng Nai giữa bà Nguyễn Thị L với ông Lý Thái B là vô hiệu.
- Hủy nội dung cập nhật biến động ngày 23/7/2018 của Văn phòng đăng ký
đất đai tỉnh Đ Chi nhánh L3 về việc chuyển nhượng cho ông Thái B, sinh
năm 1991, CMND số 272533938, địa chỉ Tổ A, khu P, thị trấn L, huyện L, tỉnh
Đồng Nai theo hồ sơ số 004465.CN002. Mã vạch 2636818002089.
Nguyễn Thị T, Nguyễn Thị S trách nhiệm liên hệ với cơ quan nhà
nước thẩm quyền để điều chỉnh lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo
quy định của pháp luật.
Khi yêu cầu của Nguyễn Thị T, Nguyễn Thị S, quan quản lý
Nhà nước về đất đai có trách nhiệm điều chỉnh lại nội dung giấy chứng nhận đất
(Giấy chứng nhận số CO 148094, do Văn phòng đăng đất đai tỉnh Đ thừa
ủy quyền của Giám đốc Sở Tài nguyên và môi trường tỉnh Đ cấp ngày
02/7/2018 cho bà Nguyễn Thị L Văn phòng đăng ký đất đai huyện L cập nhật
biến động tại trang 3 cho ông Lý Thái B) theo quyết định của bản án này.
- Về yêu cầu phản tố: Không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn ông Lý
Thái B về việc yêu cầu người kế thừa quyền nghĩa vụ tố tụng của Nguyễn
Thị L là bà Nguyễn Thị T có trách nhiệm bàn giao diện tích 157,7m
2
thửa đất số
129, tờ bản đồ số 59, thị trấn L, huyện L, tỉnh Đồng Nai cùng tài sản gắn liền
với đất là căn nhà cấp 4 cho ông Lý Thái B.
Không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn ông Thái B về việc yêu
cầu Nguyễn Thị S, ông Huỳnh Thanh T1, Huỳnh Thanh H, Huỳnh
Thanh N, cháu Trần Huỳnh Anh T2 di chuyển nơi khác bàn giao diện tích
157,7m
2
thửa số 129, tờ bản đồ số 59, thị trấn L và căn nhà gắn liền với thửa đất
trên cho ông Bảo quản L2, sử dụng.
- Về yêu cầu khởi kiện độc lập:
12
Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện độc lập của người quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan Nguyễn Thị S về việc yêu cầu công nhận Hợp đồng tặng cho
QSD đất ngày 01/10/2014 giữa Nguyễn Thị L Nguyễn Thị S diện tích
48,4 m
2
thuộc một phần thửa đất số 129, tờ bản đồ 59 tại thị trấn L, huyện L,
tỉnh Đồng Nai.
Ngoài ra bản án còn tuyên ván phí, chi phí tố tụng, quyền kháng cáo của
các đương sự.
- Ngày 25/11/2025, bị đơn ông Lý Thái B có đơn kháng cáo bản án sơ thẩm
đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm sửa toàn bộ bản án thẩm, yêu cầu người kế
thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của Nguyễn Thị L Nguyễn Thị T
trách nhiệm bàn giao diện tích 157,7m
2
thửa đất số 129, tờ bản đồ số 59 thị trấn
L, huyện L, tỉnh Đồng Nai cùng tài sản gắn liền với đất là căn nhà cấp 4 tại thửa
đất cho ông Lý Thái B.
Yêu cầu Nguyễn Thị S, ông Huỳnh Thanh T1, Huỳnh Thanh H,
Huỳnh Thanh N, cháu Trần Huỳnh Anh T2 di chuyển nơi khác bàn giao diện
tích 157,7m
2
thửa số 129, tờ bản đồ số 59 thị trấn L căn nhà gắn liền với thửa
đất trên cho ông B.
Đối với căn nhà có mái che của bà Nguyễn Thị S, ông Lý Thái B sẽ tiếp tục
được quyền sở hữu, sử dụng. Đồng thời ông B sẽ tự nguyện thanh toán lại cho
bà S số tiền 76.654.000 đồng theo kết quả chứng cứ thẩm định giá do Công ty cổ
phần T5 thực hiện.
- Phát biểu của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai:
Thẩm phán Hội đồng xét xử phúc thẩm đã tuân thủ đúng quy định của
pháp luật từ khi thụ đến khi xét xử tại phiên tòa hôm nay, các đương sự
tham gia phiên tòa thực hiện đầy đủ quyền nghĩa vụ của mình theo qui định
của pháp luật.
Về đề xuất giải quyết vụ án: Ngày 28/4/2004, Nguyễn Thị L được Ủy
ban nhân dân huyện L cấp giấy chứng nhận quyền sdụng đất số X 293323 đối
với thửa số 129, tbản đồ số 59, thị trấn L, huyện L diện tích 160,5m
2
. Ngày
10/4/2018, L làm đơn cớ mất giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trình báo
Công an thị trấn L. Ngày 02/7/2018, Văn phòng đăng đất đai tỉnh Đ thừa ủy
quyền của Giám đốc Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh Đ ban hành Quyết định
số 1066/2018/QĐ-STNMT về việc hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số X
293323 ngày 28/4/2004 đồng thời cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số
CO 148094 thuộc thửa đất số 129, tờ bản đồ số 59 diện tích 157,7m
2
cho
Nguyễn Thị L.
13
Ngày 11/7/2018, Nguyễn Thị L hợp đồng chuyển nhượng quyền s
dụng đất cho ông Lý Thái B thửa số 129, tờ bản đồ số 59 do Phòng C tỉnh Đồng
Nai chứng thực số 11679/2018, quyển số 20/2018TP/CC-SCC/HĐGD, giá
chuyển nhượng 50.000.000 đồng.
Trước khi Hợp đồng chuyển nhượng, L và ông B Văn bản thỏa
thuận ngày 19/4/2018 tại Văn phòng luật Yên L1 do bà Thị Kim T3 làm
Trưởng Văn phòng, trong Văn bản các bên thỏa thuận Nguyễn Thị L cam kết
chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông Thái B, giá trị chuyển nhượng
quyền sử dụng đất căn nhà 2.500.000.000 đồng, hình thức thanh toán là
chuyển khoản ngân hàng để đảm bảo cho bà L đã già, sự chứng kiến
của Trưởng văn phòng luật sư Yên L1.
Hợp đồng chuyển nhượng quyền sdụng đất ngày 11/7/2018 giữa L
ông B, về hình thức được Phòng C tỉnh Đồng Nai chứng thực đúng quy định; Về
chủ thể kết giao dịch đầy đủ năng lực trách nhiệm dân sự, không ai b
quan nhà nước thẩm quyền tuyên bố hạn chế hoặc mất năng lực trách nhiệm
dân sự.
Về nội dung của hợp đồng, cam kết giá chuyển nhượng 2.500.000.000
đồng nhưng hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ký ngày 11/7/2018 thể
hiện giá chuyển nhượng là 50.000.000 đồng. Bị đơn ông B cho rằng việc ghi giá
chuyển nhượng trong hợp đồng thấp hơn so với giá thỏa thuận chuyển nhượng
nhằm mục đích tránh nộp thuế chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Về việc giao nhận tiền, ông B xác định sau khi ký thỏa thuận ngày
19/4/2018 ông đã thanh toán đầy đủ số tiền 2.500.000.000 đồng bằng tiền mặt
tại nhà của bà Nguyễn Thị L, ngày cụ thể thì ông không nhớ rõ, bà L đã nhận đủ
tiền ghi vào văn bản thỏa thuận ngày 19/4/2018 với nội dung đã nhận đủ số
tiền 2.500.000.000 đồng. Tuy nhiên, nguyên đơn không thừa nhận lời khai của
bị đơn và xác định bà L không nhận được bất cứ khoản tiền nào từ ông B.
Ông B khẳng định giao tiền sau 3 - 4 ngày kể từ ngày 19/4/2018 nhưng
không nhớ cụ thể ngày nào, tiền được giao trực tiếp cho L tại nhà chứng
minh bằng việc cung cấp cho Tòa án trong Văn bản thỏa thuận bà L có ghi dòng
chữ “Tôi đã nhận đủ số tiền 2.500.000.000 đồng” xác định tại Kết luận giám
định chviết nội dung “Tôi đã nhận đsố tiền 2.500.000.000 đồng” dưới mục
“Bên A” trên tài liệu hiệu A so với ch viết dùng làm mẫu so sánh đứng tên
Nguyễn Thị L trên các tài liệu ký hiệu từ M1 đến M4 do cùng một người viết
ra.
Tuy nhiên, tại biên bản đối chất ngày 15/7/2022 bị đơn lại khẳng định giao
tiền cùng ngày sau khi Văn bản thỏa thuận tại Văn phòng L4. Như vậy, lời
14
khai của bị đơn về việc giao tiền không sự thống nhất, số tiền 2.500.000.000
đồng là một số tiền lớn, bị đơn là người còn trẻ mà không nhớ cụ thể, không lập
biên bản giao nhận, không yêu cầu người làm chứng để xác minh cho việc giao
tiền của nh có tính minh bạch, rõ ràng, tránh những rủi ro cho mình. Ngoài ra
tại Điều 2 hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất về giá các bên chỉ ghi
nhận 50.000.000 đồng, điều này cho thấy các bên đã có sự giả tạo về giá chuyển
nhượng để tránh nghĩa vụ nộp thuế đối với Nhà nước.
Về thực chất của việc chuyển nhượng, quá trình tham gia tố tụng (trước khi
chết) nguyên đơn khẳng định không có việc chuyển nhượng còn bị đơn cho rằng
L đã chuyển nhượng. Tại bản tự khai ngày 01/10/2019 bị đơn tự viết và gửi
cho Tòa án khẳng định “chưa bao giờ thỏa thuận giá cả với L”; “bà L tặng
cho tôi chứ không thỏa thuận chuyển nhượng như L trình bày”; “giữa tôi
L không việc chuyển nhượng giao tiền” “mục đích làm như vậy để
tránh việc làm khó của anh em L đối với bà L”. Như vậy, thể nhận định
bản chất của việc chuyển nhượng không thật, vì vậy cũng không chứng
cứ để xác định việc bị đơn có giao tiền chuyển nhượng cho nguyên đơn.
Theo quy định tại Điều 3 của hợp đồng thỏa thuận việc chuyển giao đất
phải thực hiện ngay sau hợp đồng chuyển nhượng, nhưng khi bà L không
giao nhà đất thì ông B cũng không ý kiến nên việc kết hợp đồng chỉ
mang tính hình thức. Tại phiên tòa hôm nay, đại diện theo ủy quyền của ông B
cho rằng, ông B nhận chuyển nhượng nhưng chưa nhận nhà đất mục đích để
cho L nhờ nhưng phía ông B không giấy tờ chứng minh việc cho L
nhờ, thực tế thì nhà, đất tranh chấp vẫn do bà L các em, cháu sinh sống, quản
lý, sử dụng.
Như vậy, hợp đồng chuyển nhượng ngày 11/7/2018 giữa L ông B
không thật, kết đúng vhình thức nhưng không việc giao đất,
nhận tiền, các bên không thực hiện quyền và nghĩa vụ trong hợp đồng. Tòa án
cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, không chấp nhận yêu
cầu phản tố của bị đơn là có căn cứ.
Tại phiên tòa phúc thẩm, ông B không còn tài liệu, chứng cứ để
chứng minh, nên không sở xem xét. Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp
nhận kháng cáo của ông Thái B. Áp dụng khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng
dân sự, giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 195/2024/DS-ST ngày 25/11/2024
của Tòa án nhân dân huyện Long Thành.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ trong hồ vụ án được thẩm
tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa.
15
[1] Về thủ tục tố tụng: Ông Thái B kháng cáo nộp tạm ứng án phí
phúc thẩm trong hạn luật định, nên được xem xét theo trình tự phúc thẩm.
[1.1] Về quan h pháp luật cách đương sự: Cấp thẩm xác định
nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đúng quy định.
[2] Về nội dung: Người kế thừa quyền nghĩa vụ tố tụng của nguyên đơn
Nguyễn Thị S, Nguyễn Thị T yêu cầu khởi kiện hủy hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất giữa Nguyễn Thị L và ông Lý Thái B đối với thửa
đất số 129, tờ bản đồ 59, diện tích 157,7m
2
tại thị trấn L, huyện L, tỉnh Đồng Nai
được Phòng C tỉnh Đồng Nai công chứng số 11679/2018 hủy nội dung cập
nhật biến động ngày 23/7/2018 đứng tên ông Thái B tại trang 3 trên giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất; hủy văn bản thỏa thuận và cam kết ngày
19/4/2018 giữa bà Nguyễn Thị L và ông Lý Thái B.
- Ông Thái B không đồng ý yêu cầu của nguyên đơn, ông B yêu cầu
phản tố yêu cầu người kế thừa quyền nghĩa vụ tố tụng của Nguyễn Thị L
là bà Nguyễn Thị T có trách nhiệm giao căn nhà cấp 4 và diện tích 157,7m
2
thửa
đất số 129, tờ bản đồ số 59 thị trấn L, huyện L, tỉnh Đồng Nai; yêu cầu
Nguyễn Thị S, ông Huỳnh Thanh T1, Huỳnh Thanh H, bà Huỳnh Thanh N,
cháu Trần Huỳnh Anh T2 di chuyển nơi khác bàn giao căn nhà diện tích
157,7m
2
thửa số 129, tờ bản đồ số 59 thị trấn L.
Đối với căn nmái che của bà Nguyễn Thị S, ông B sẽ tiếp tục được
quyền sở hữu, sử dụng. Đồng thời ông B sẽ thanh toán lại cho S số tiền
76.645.000 đồng theo kết quả chứng thư thẩm định giá do Công ty cổ phần T5.
[2.1] Tài liệu, chứng cứ tại hồ sơ thể hiện, hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng đất giữa L với ông B được công chứng ngày 11/7/2018 tại Phòng C.
Về hình thức của hợp đồng nguyên đơn thừa nhận chữ ký, chữ viết, được lập
thành văn bản và được Phòng C chứng nhận vào ngày 11/7/2018, số công chứng
11679/2018, quyển số 20/2018 TP/CC-SCC/HĐGD. Hình thức của hợp đồng đã
thực hiện đúng theo quy định tại Điều 119 Điều 502 Bộ luật dân sự năm
2015.
Về nội dung của hợp đồng, theo nguyên đơn việc hợp đồng để nhờ bị
đơn làm lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất bị thất lạc, không có việc chuyển
nhượng cho bị đơn, không thừa nhận nhận số tiền 2.500.000.000 đồng bằng
tiền mặt như tại văn bản cam kết ngày 19/4/2018 giữa nguyên đơn bị đơn tại
Văn phòng L4, hiện nguyên đơn vẫn sinh sống, quản đất cho đến khi mất vào
ngày 07/7/2023.
16
Trình bày của bị đơn tại bản tự khai ngày 01/10/2019, bị đơn khai không
việc chuyển nhượng, L tự nguyện tặng cho đất, không việc giao nhận tiền
(BL 117 - 118). Tại Biên bản đối chất ngày 15/7/2022, người đại diện theo ủy
quyền của bị đơn trình bày việc giao nhận tiền, mệnh giá 500.000 đồng tại
thời điểm văn bản cam kết ngày 19/4/2018. giải việc ông B khai đất L
tặng cho ông B là nói theo ý của bà L để chị em của bà L không đòi tiền của bà L
(BL 433). Tại biên bản phiên tòa ngày 20/6/2024 (BL 670 - 679), đại diện theo
ủy quyền của bị đơn lại khai không nhớ thời gian nào nhận tiền, đồng thời
khai ghi giá trong Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số tiền
50.000.000 đồng là để trốn thuế (BL 670 - 679).
Mặt khác, đại diện theo ủy quyền của bị đơn xác định tại các bản tự khai,
biên bản hòa giải, biên bản phiên tòa, sau khi bản cam kết giao đủ tiền thì
phát hiện bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của L bị thất lạc nên
ông B là người làm thủ tục xin cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà
L. Nội dung trình bày mâu thuẫn với lời khai của người làm chứng Thị
Kim T3, trình bày của Văn phòng Đ (BL 181, 90, 266).
[2.2] Về việc chuyển giao quyền sử dụng đất, thời điểm ký hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử đất, chỉnh biến động trên giấy chứng nhận, L vẫn
sinh sống, quản lý, sử dụng đất cho đến khi L mất (kết quả xem xét thẩm định
tại chỗ ngày 05/6/2019 ngày 14/5/2020 của Tòa án nhân dân huyện Long
Thành thể hiện trên phần đất tranh chấp 02 ngôi nhà cấp 4 (01 căn do
Nguyễn Thị L đang quản lý sử dụng và 01 căn do gia đìnhNguyễn Thị S quản
lý sử dụng).
[2.3] Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 11/7/2018 giữa
Nguyễn Thị L với ông Thái B đã tuân thủ đúng quy định về hình thức của
hợp đồng. Tuy nhiên, về nội dung hợp đồng chưa tuân thủ đúng các quy định tại
Điều 398 và Điều 501 Bộ luật dân sự năm 2015, cụ thể giá chuyển nhượng theo
hợp đồng 50.000.000 đồng không phù hợp với giá trị thực tế, trong khi giá
chuyển nhượng các bên thỏa thuận 2.500.000.000 đồng, không chứng cứ
thể hiện việc giao nhận tiền và giao đất.
[3] Văn bản thỏa thuận cam kết về việc chuyển nhượng quyền sử dụng
đất ký ngày 19/4/2018 giữa Nguyễn Thị L ông Thái B tại Văn phòng
L4. Văn bản thỏa thuận cam kết một thỏa thuận nhằm mục đích đảm bảo
cho việc hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Ngày 11/7/2018 các
bên đã thực hiện việc hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại Phòng
C. Trong quá trình thực hiện bị đơn ông B ng không thanh toán tiền cho L
theo như cam kết, người kế thừa quyền nghĩa vụ tố tụng của nguyên đơn
17
Nguyễn Thị T, Nguyễn Thị S yêu cầu hủy Văn bản thỏa thuận và cam kết về việc
chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 19/4/2018 giữa Nguyễn Thị L
ông Lý Thái B tại Văn phòng L4 có căn cứ, nên chấp nhận.
[4] Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất hiệu, quá trình thực
hiện hợp đồng ông B cũng không thực hiện đúng theo các nội dung cam kết thỏa
thuận, yêu cầu phản tố của ông Lý Thái B không có cơ sở chấp nhận.
[5] Tại cấp phúc thẩm và tại phiên tòa hôm nay, đại diện theo ủy quyền của
ông B vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, không cung cấp tài liệu, chứng cứ
mới để chứng minh, nên không căn cứ để xem xét, giữ nguyên bản án
thẩm.
[6] Về án phí: Kháng cáo của ông B không được chấp nhận, nên phải chịu
án phí dân sự phúc thẩm.
[7] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai tại phiên
tòa phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử, nên chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
Không chấp nhận kháng cáo của ông Thái B, giữ nguyên bản án dân sự
thẩm số 195/2024/DS-ST ngày 25/11/2024 của Tòa án nhân dân huyện Long
Thành.
Áp dụng các Điều 116, 117, 119, 122, 124, 131, 398, 500, 501 Điều
502 Bộ luật Dân snăm 2015; Điều 689, 722, 723 Điều 725 Bộ luật Dân sự
năm 2005; Điều 167, 168 Điều 188 Luật đất đai năm 2013; Luật thi hành án
dân sự năm 2008, đã được sửa đổi bổ sung năm 2014; Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản và sử dụng án phí và lệ phí Tòa
án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện về việc “Tranh chấp hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất của nguyên đơn Nguyễn Thị L với bị
đơn ông Lý Thái B.
- Tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất công chứng số:
11679/2018, quyển số 20/2018 TP/CC - SCC/HĐGĐ ngày 11/7/2018 của Phòng
C, tỉnh Đồng Nai giữa bà Nguyễn Thị L với ông Lý Thái B là vô hiệu.
18
- Hủy nội dung cập nhật biến động ngày 23/7/2018 của Văn phòng đăng ký
đất đai tỉnh Đ Chi nhánh L3 về việc chuyển nhượng cho ông Thái B, sinh
năm 1991, CMND số 272533938, địa chỉ: Tổ A, khu P, thị trấn L, huyện L, tỉnh
Đồng Nai theo hồ sơ số 004465.CN002. Mã vạch 2636818002089.
Nguyễn Thị T, bà Nguyễn Thị S có trách nhiệm liên hệ với cơ quan nhà
nước thẩm quyền để điều chỉnh lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo
quy định của pháp luật.
Khi yêu cầu của Nguyễn Thị T, Nguyễn Thị S, quan quản lý
Nhà nước về đất đai có trách nhiệm điều chỉnh lại nội dung giấy chứng nhận đất
(Giấy chứng nhận số CO 148094, do Văn phòng đăng đất đai tỉnh Đ thừa
ủy quyền của Giám đốc Sở Tài nguyên và môi trường tỉnh Đ cấp ngày
02/7/2018 cấp cho bà Nguyễn Thị L và Văn phòng đăng đất đai huyện L cập
nhật biến động tại trang 3 cho ông Thái B) theo quyết định của bản án này.
2. Đình chỉ xét xử đối với một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn
Nguyễn Thị L về việc yêu cầu Hủy hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất ngày
01/10/2014 giữa Nguyễn Thị L với Nguyễn Thị S yêu cầu buộc
Nguyễn Thị S, ông Huỳnh Thanh T1, Huỳnh Thanh H, Huỳnh Thanh N
phải trả lại diện tích đất cho bà L diện tích đất 48,4m
2
.
3. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn ông Thái B về việc yêu
cầu người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của bà Nguyễn Thị L là bà Nguyễn
Thị T có trách nhiệm bàn giao diện tích 157,7m
2
thửa số 129, tờ bản đồ số 59 thị
trấn L, huyện L, tỉnh Đồng Nai cùng tài sản gắn liền với đất là căn nhà cấp 4 cho
ông Lý Thái B.
Không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn ông Thái B về việc yêu
cầu Nguyễn Thị S, ông Huỳnh Thanh T1, Huỳnh Thanh H, Huỳnh
Thanh N, cháu Trần Huỳnh Anh T2 di chuyển nơi khác bàn giao diện tích
157,7m
2
thửa số 129, tờ bản đồ số 59 thị trấn L và căn nhà gắn liền với thửa đất
trên cho ông Bảo quản L2, sử dụng.
4. Không chấp nhận yêu cầu độc lập của người quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan Nguyễn Thị S vviệc yêu cầu công nhận Hợp đồng tặng cho quyền sử
dụng đất ngày 01/10/2014 giữa Nguyễn Thị L Nguyễn Thị S diện tích
48,4m
2
thuộc một phần thửa đất số 129, tờ bản đồ 59 tại thị trấn L, huyện L, tỉnh
Đồng Nai.
- Về chi phí tố tụng: Ông Thái B phải chịu toàn bộ chi phí tố tụng
41.968.000 (bốn mươi mốt triệu chín trăm sáu mươi tám nghìn) đồng, ông B
phải có trách nhiệm thanh toán lại cho nguyên đơn số tiền 41.968.000 (bốn mươi
mốt triệu chín trăm sáu mươi tám nghìn) đồng.
19
- Về án phí: Ông Thái B phải chịu 300.000 (ba trăm nghìn) đồng án phí
dân sự thẩm không giá ngạch nhưng được trừ vào số tiền 300.000 đồng
tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 0006058 ngày 09/8/2022 của Chi cục Thi
hành án dân sự huyện Long Thành. Ông B đã nộp đủ án phí.
Ông Lý Thái B phải chịu 300.000 (ba trăm nghìn) đồng án phí dân sự phúc
thẩm. Số tiền 300.000 (ba trăm nghìn) đồng tạm ứng án phí ông B nộp tại biên
lai thu số 0014445 ngày 18/12/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Long
Thành (nay là Phòng Thi hành án dân sự khu vực 2 - Đồng Nai) được tính trừ án
phí phúc thẩm ông B phải chịu.
Nguyên đơn bà Nguyễn Thị L và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
Nguyễn Thị S thuộc trường hợp được miễn nộp tạm ứng án phí theo quy định tại
điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016
của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành
án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự
quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án
hoặc bcưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b 9 Luật
thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều
30 Luật thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014).
Kiến nghị Văn phòng đăng đất đai tỉnh Đ thu hồi giấy chứng nhận
quyền sdụng đất, quyền sở hữu nhà tài sản khác gắn liền với đất số CO
148094 để hủy nội dung đăng biến động cho ông Thái B; điều chỉnh lại
giấy chứng nhận quyền sdụng đất cho Nguyễn Thị L đối với thửa đất số
129, tờ bản đồ số 59, thị trấn L, huyện L, tỉnh Đồng Nai.
Bản án phúc thm có hiu lc pháp lut k t ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Đồng Nai;
- TAND khu vc 2 - Đồng Nai;
- Phòng Thi hành án dân s khu vc
2 - Đồng Nai;
- Đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT X PHÚC THM
THM PHÁN CH TA PHIÊN TÒA
Nguyn Long Châu
Tải về
Bản án số 441/2025/DS-PT Bản án số 441/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 441/2025/DS-PT Bản án số 441/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất