Bản án số 43/2023/HS-ST ngày 22/08/2023 của TAND huyện Tánh Linh, tỉnh Bình Thuận về tội sản xuất, buôn bán hàng cấm

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Mục lục
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 43/2023/HS-ST

Tên Bản án: Bản án số 43/2023/HS-ST ngày 22/08/2023 của TAND huyện Tánh Linh, tỉnh Bình Thuận về tội sản xuất, buôn bán hàng cấm
Tội danh: 190.Tội sản xuất, buôn bán hàng cấm (Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015)
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Tánh Linh (TAND tỉnh Bình Thuận)
Số hiệu: 43/2023/HS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 22/08/2023
Lĩnh vực: Hình sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án:
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÁNH LINH, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 43/2023/HS-ST NGÀY 22/08/2023 VỀ TỘI SẢN XUẤT, BUÔN BÁN HÀNG CẤM

Ngày 22 tháng 8 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tánh Linh, tỉnh Bình Thuận xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 39/2023/TLST-HS ngày 20 tháng 7 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 38/2023/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 8 năm 2023, đối với bị cáo:

LÊ VĂN H, sinh năm 1993; Tại: Đồng Nai; Nơi cư trú: thôn 02, xã Gi H, huyện T L, tỉnh Bình Thuận; Nghề nghiệp: Công nhân; Trình độ văn hóa (học vấn): 3/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lê Văn Ngh, sinh năm 1948 (đã chết) và bà Đỗ Thị Th, sinh năm 1955 (đã chết); Tiền án: Không; Tiền sự: Không; Nhân thân: Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 37/2010/HSST ngày 29/9/2010, bị Tòa án nhân dân huyện Tánh Linh, tỉnh Bình Thuận xử phạt 15 tháng cải tạo không giam giữ về tội “Trộm cắp tài sản”; Có vợ là Nguyễn Thị D, sinh năm 1986; Có 01 người con sinh năm 2019; Bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” theo Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số 98/2020/HSST-LCCT ngày 07/8/2023 của Tòa án nhân dân huyện Tánh Linh, tỉnh Bình Thuận. Hiện đang tại ngoại. (Có mặt);

- Người bào chữa theo luật định của bị cáo LÊ VĂN H:

+ Luật sư Huỳnh Thị Ngọc Thuận - Luật sư cộng tác viên của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Bình Thuận; (Có mặt);

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Nguyễn Huỳnh Tr, sinh năm 1998; Nơi cư trú: Thôn 02, xã Gi H, huyện T L, tỉnh Bình Thuận (vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do có ý định sản xuất pháo nổ để bán kiếm tiền nhân dịp Tết Nguyên đán Quý Mão 2023 nên khoảng tháng 11/2022, LÊ VĂN H truy cập mạng xã hội YouTube để tìm hiểu cách chế tạo pháo nổ rồi đặt mua trên kênh mua sắm điện tử online Lazada 01 gói bột lưu huỳnh, 01 gói bột màu trắng tên NT3 và đến các cửa hàng mua ống nước loại Ø 21 (gồm ống và nắp nhựa), keo dán loại 502, cưa sắt, màng nylon bọc thực phẩm…Sau đó, H lấy than củi nghiền nát trộn với bột lưu huỳnh và chất NT3 để tạo thành hỗn hợp thuốc pháo nổ; H để màng nylon bọc thực phẩm ra rắc thuốc pháo lên trên và cuộn lại để tạo thành ngòi pháo (dây cháy chậm). Tiếp đến, H sử dụng cưa sắt cưa ống nhựa loại Ø 21 ra thành nhiều đoạn, mỗi đoạn dài khoảng 05 cm, dùng keo 502 dán kín nắp nhựa vào một đầu để nhồi thuốc pháo vào bên trong rồi cho các đoạn dây cháy chậm vào đầu các ống nhựa đã được nhồi thuốc, dùng keo 502 dán kín đầu pháo còn lại, để thò ra đoạn dây cháy chậm.

Khi chế tạo thành công được hai quả pháo, H lấy ra đốt thử nghiệm thì gây nên tiếng nổ lớn nên H tiếp tục chế tạo được 500 quả pháo bán với giá 12.000 đồng/quả. Từ khoảng tháng 11 đến trước ngày 05/01/2023, H đã bán cho Nguyễn Huỳnh Tr, sinh năm 1998, trú tại thôn 02, xã Gia Huynh, huyện Tánh Linh số lượng 200 quả pháo được số tiền 2.400.000 đồng.

Đến ngày 05/01/2023, Nguyễn Huỳnh Tr tiếp tục mua của LÊ VĂN H 300 quả pháo với số tiền 3.600.000 đồng (Trọng chưa đưa tiền cho H) để bán cho một người tên Pho ở xã Trà Tân, huyện Đức Linh (hiện không xác định được nhân thân lại lịch), khi Trọng đang vận chuyển pháo đến đoạn đường thuộc thôn 03, xã Tân Hà, huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận thì bị lực lượng Công an xã Tân Hà, huyện Đức Linh phát hiện lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ toàn bộ số pháo.

Tại kết luận giám định số 33/KL-KTHS ngày 16/01/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Thuận kết luận:

- 300 ống nhựa hình trụ tròn, tất cả được bịt kín hai đầu, một đầu gắn dây màu trắng, kích thước mỗi ống cao 05 cm, bên ngoài ống có ký hiệu S-T Ø 21 gửi giám định là pháo nổ. Khi đốt phát ra tiếng nổ. Tổng khối lượng là 7,8 kg.

Ngày 24/3/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đức Linh đã chuyển nguồn tin về tội phạm đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tánh Linh về hành vi sản xuất, buôn bán hàng cấm để giải quyết theo thẩm quyền.

Quá trình điều tra LÊ VĂN H đã khai nhận toàn bộ hành vi sản xuất, buôn bán pháo nổ và tự nguyện giao nộp số tiền 2.400.000 đồng.

Vật chứng thu giữ:

- 02 lọ keo loại 502 đã qua sử dụng;

- 06 đoạn ống nhựa loại Ø 21 dài khoảng 4,8 cm, một đầu được bịt kín bằng nắp nhựa hiệu S-T loại Ø 21;

- 01 lưỡi cưa tay bằng kim loại có kích thước (31 x 2 x 0,1) cm.

- Số tiền 2.400.000 đồng do LÊ VĂN H tự nguyện giao nộp.

Đối với hành vi của Nguyễn Huỳnh Tr đã bị Tòa án nhân dân huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận xét xử về tội “Vận chuyển hàng cấm” theo quy định tại Điều 191 Bộ luật hình sự tại bản án số 35/2023/HS-ST ngày 29/6/2023.

Tại Bản cáo trạng số 39/CT-VKSTL-HS ngày 19 tháng 7 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tánh Linh truy tố bị cáo LÊ VĂN H về tội: “Sản xuất, buôn bán hàng cấm” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 190 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa:

- Ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Tánh Linh: Giữ nguyên quan điểm như bản Cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo LÊ VĂN H về tội: “Sản xuất, buôn bán hàng cấm” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 190 Bộ luật hình sự.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải, bị cáo thuộc diện hộ nghèo nên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với bị cáo.

Viện kiểm sát nhân dân huyện Tánh Linh đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo LÊ VĂN H mức án từ 01 năm 03 tháng tù đến 01 năm 06 tháng tù.

Về xử lý vật chứng: Đối với các vật chứng đã thu giữ trong vụ án là vật cấm lưu hành và không còn giá trị sử dụng nên đề nghị tịch thu tiêu hủy. Đối với số tiền 2.400.000 đồng là tiền bị cáo có được do bán 200 quả pháo cho Nguyễn Huỳnh Tr, bị cáo tự nguyện giao nộp cần tịch thu sung quỹ nhà nước.

Về án phí: Bị cáo thuộc diện hộ cận nghèo nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét miễn tiền án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

- Ý kiến của người bào chữa cho bị cáo là Luật sư Huỳnh Thị Ngọc Thuận:

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo đã thật sự nhận thức hành vi của mình, đã tích cực phối hợp với Cơ quan điều tra để sớm làm sáng tỏ vụ án, bị cáo tự nguyện giao nộp số tiền thu lợi bất chính để sung quỹ nhà nước; bản thân bị cáo thuộc diện hộ nghèo, học vấn thấp nên nhận thức pháp luật có phần hạn chế nên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với bị cáo.

Bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, có nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng, chấp hành tốt pháp luật của nhà nước nên đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo và đề nghị áp dụng thêm Điều 65 Bộ luật hình sự; Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán - Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 65 của Bộ luật hình sự về án treo; Nghị quyết 01/2022/NQ-HĐTP ngày 15 tháng 4 năm 2022 của Hội đồng Thẩm phán - Tòa án nhân dân tối cao sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15 tháng 5 năm 2018 của Hội đồng thẩm phán - Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 65 của Bộ luật hình sự về án treo cho bị cáo được hưởng án treo.

- Ý kiến của bị cáo: Không tranh luận với đại diện Viện kiểm sát, thống nhất theo lời bào chữa của Luật sư Huỳnh Thị Ngọc Thuận; Xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt và cho bị cáo được hưởng án treo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an huyện Tánh Linh, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Tánh Linh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về thủ tục tố tụng: Người có quyền và nghĩa vụ liên quan Nguyễn Huỳnh Tr được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ nhất nhưng có đơn xin xét xử vắng mặt; Xét thấy, lời khai của Nguyễn Huỳnh Tr đã được thu thập đầy đủ, hợp pháp thể hiện tại hồ sơ vụ án; Việc vắng mặt Nguyễn Huỳnh Tr không ảnh hưởng đến nội dung và bản chất của vụ án, không gây trở ngại cho việc xét xử, do đó căn cứ vào Điều 292 Bộ luật tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[3] Về hành vi của bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo LÊ VĂN H đều khai nhận toàn bộ hành vi như Bản cáo trạng đã quy kết: Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang; Kết luận giám định; vật chứng đã thu giữ trong vụ án, lời khai tại tại Cơ quan điều tra; Phù hợp lời khai của người có quyền và nghĩa vụ liên quan là Nguyễn Huỳnh Tr cũng như các tài liệu, chứng cứ khác đã được thu thập hợp pháp trong hồ sơ vụ án. Nên có đủ căn cứ để xác định:

Xuất phát từ hoàn cảnh gia đình khó khăn, LÊ VĂN H đã truy cập vào mạng xã hội YouTube để tìm hiểu cách chế tạo pháo nổ nhân dịp Tết để bán lấy tiền tiêu xài cá nhân. Sau khi chế tạo pháo và thử nghiệm nổ thành công, ngày 05/01/2023, H bán cho Nguyễn Huỳnh Tr 300 quả pháo với số tiền 3.600.000 đồng (Trọng chưa trả tiền cho H). Trọng mua pháo của H rồi bán lại cho một người tên Pho ở xã Trà Tân, huyện Đức Linh (hiện không xác định được nhân thân lại lịch), khi Trọng đang vận chuyển pháo đến đoạn đường thuộc thôn 03, xã Tân Hà, huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận thì bị lực lượng Công an xã Tân Hà, huyện Đức Linh phát hiện lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Nguyễn Huỳnh Tr, thu giữ toàn bộ số pháo. Quá trình điều tra, Trọng khai nhận số pháo trên mua của H với giá 3.600.000 đồng nhưng chưa đưa tiền, trên đường mang đi tiêu thụ thì bị bắt quả tang. Quá trình điều tra mở rộng vụ án, bị cáo LÊ VĂN H khai nhận toàn bộ hành vi sản xuất, buôn bán pháo nổ. Kết luận giám định xác định số pháo thu giữ có tổng khối lượng là 7,8 kg.

Ngoài ra, quá trình điều tra, LÊ VĂN H khai nhận trong khoảng thời gian từ tháng 11/2022 đến trước ngày 05/01/2023 có bán cho Nguyễn Huỳnh Tr 200 quả pháo thu lợi bất chính số tiền 2.400.000 đồng.

Xét thấy, LÊ VĂN H là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, hoàn toàn nhận thức được rằng hành vi sản xuất, mua bán trái phép pháo nổ là hành vi vi phạm pháp luật và bị nghiêm cấm nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện.

Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội tội: “Sản xuất, buôn bán hàng cấm” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 190 Bộ luật hình sự. Do đó Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tánh Linh truy tố bị cáo về tội danh và điều luật áp dụng là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Điều 190

quy định:

1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây, nếu không thuộc trường hợp quy định tại các điều 232, 234, 244, 246, 248, 251, 253, 254, 304, 305, 306, 309 và 311 của Bộ luật này, thì bị phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

c) Sản xuất, buôn bán pháo nổ từ 06 kilôgam đến dưới 40 kilôgam;

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến sự quản lý của Nhà nước về buôn bán những mặt hàng bị cấm, là nguyên nhân gây ra những thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tài sản của người dân và ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an tại địa phương; Do tính chất nguy hiểm của pháo nổ, Nhà nước đã có chủ trương cấm sản xuất, mua bán, tàng trữ Pháo nổ rất nhiều năm nay. Bị cáo nhận thức được tác hại do hành vi phạm tội của mình gây ra nhưng vì lợi ích của bản thân, bị cáo vẫn thực hiện hành vi phạm tội. Bản thân bị cáo là người có nhân thân xấu, đã từng bị kết án về tội “Trộm cắp tài sản” tuy đã được xoá án tích nhưng không lấy đó làm bài học cho bản thân mà tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội mới, thể hiện bị cáo là người có thái độ xem thường pháp luật. Với tính chất và mức độ hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, cần phải xử phạt bị cáo một mức hình phạt tương xứng để cải tạo, giáo dục bị cáo và cũng để giáo dục, phòng ngừa chung trong xã hội. Tuy nhiên khi lượng hình, Hội đồng xét xử cũng xem xét về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải; bị cáo đã tự nguyện giao nộp số tiền thu lợi bất chính để sung quỹ nhà nước; bản thân bị cáo thuộc diện hộ cận nghèo, học vấn thấp nên nhận thức pháp luật có phần hạn chế, bị cáo hiện đang nuôi con nhỏ - Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự nên cần áp dụng khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.

Tại phiên tòa vị Luật sư bào chữa cho bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng án treo, tuy nhiên xét thấy bị cáo đã từng bị kết án về hành vi “Trộm cắp tài sản”, có nhân thân xấu nên không thể cho bị cáo được hưởng án treo theo đề nghị của vị Luật sư được.

[6] Về hình phạt bổ sung (phạt tiền): Xét bị cáo không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định nên miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[7] Về xử lý vật chứng:

- 02 lọ keo loại 502 đã qua sử dụng; 06 đoạn ống nhựa loại Ø 21 dài khoảng 4,8 cm, một đầu được bịt kín bằng nắp nhựa hiệu ST loại Ø 21; 01 lưỡi cưa tay bằng kim loại có kích thước (31 x 2 x 0,1) cm. Xét là vật không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

- Số tiền 2.400.000 đồng do LÊ VĂN H tự nguyện giao nộp là tiền thu lợi bất chính từ hành vi phạm tội cần tịch thu sung quỹ Nhà nước.

[8] Đối với hành vi của Nguyễn Huỳnh Tr đã bị Tòa án nhân dân huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận xét xử về tội “Vận chuyển hàng cấm” theo quy định tại Điều 191 Bộ luật hình sự tại bản án số 35/2023/HS-ST ngày 29/6/2023 nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[9] Về án phí: Bị cáo thuộc diện hộ cận nghèo nên được miễn tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án;

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH:

Căn cứ vào: Khoản 2 Điều 136; Điều 260; Điều 290; Điều 331 và Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự;

1. Về tội danh: Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 190 Bộ luật hình sự; Tuyên bố: Bị cáo LÊ VĂN H phạm tội “Sản xuất, buôn bán hàng cấm”;

2. Về hình phạt: Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 190; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự;

Xử phạt: LÊ VĂN H 01 (một) năm tù; Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.

- Miễn phạt tiền đối với bị cáo LÊ VĂN H;

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng: Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự;

- Tịch thu tiêu hủy: 02 (hai) lọ keo loại 502 đã qua sử dụng; 06 (sáu) đoạn ống nhựa loại Ø 21 dài khoảng 4,8 cm, một đầu được bịt kín bằng nắp nhựa hiệu ST loại Ø 21; 01 (một) lưỡi cưa tay bằng kim loại có kích thước (31 x 2 x 0,1) cm.

- Tịch thu nộp Ngân sách Nhà nước số tiền 2.400.000 đồng (hai triệu bốn trăm nghìn đồng) do LÊ VĂN H tự nguyện giao nộp.

Tất cả các vật chứng nêu trên hiện có tại Kho vật chứng của Chi cục thi hành án dân sự huyện Tánh Linh, tỉnh Bình Thuận theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 02/8/2023.

4. Về án phí: Áp dụng: điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án;

Miễn tiền án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo LÊ VĂN H.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo và người bào chữa cho bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (22/8/2023); Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Tải về
Bản án số 43/2023/HS-ST Bản án số 43/2023/HS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất